Thư viện

20/12/17

TRẦM GIANG KHÚC




TRẦM GIANG KHÚC

Bão tháng tư quất vô người em đau.

沉 江 曲

走江邊,    Tẩu giang biên,
满腔愤恨向谁言。Mãn xoang phẫn hận hướng thùy ngôn.
老淚風吹面,  Lão lệ phong xuy diện,
孤城一片,  Cô thành nhất phiến,
望救目穿   Vọng cứu mục xuyên
使盡残兵血戰。 Sử tận tàn binh huyết chiến.
跳出重圍,  Khiêu xuất trùng vi,
故國悲戀,  Cố quốc bi luyến,
誰知歌罷剩空筵。Thùy tri ca bãi thặng không diên.
長江一線,   Trường Giang nhất tuyến,
吴頭楚尾路三千。Ngô đầu Sở vĩ lộ tam thiên,
盡歸别姓,   Tận quy biệt tính,
雨翻雲變。  Vũ phiên vân biến.
寒濤東卷,  Hàn đào đông quyến,
萬事付空烟。  Vạn sự phó không yên.
精 魂 顯,   Tinh hồn hiển ,
《大招》聲逐海天遠。" Đại chiêu " thanh trục hải thiên viễn.
孔尚任 (1648-1718) Khổng Thượng Nhiệm

Tạm: Dịch Nghĩa

Chạy tới bên bờ sông,
Có phía nào bày tỏ hận trong lòng
Lệ già trên mặt gió thổi bay
Thành đơn côi còn một mảnh,
Mỏi mắt trông quân cứu ứng,
Đành gom tàn quân quyết chiến.
Mong được thoát khỏi trùng vây,
Đất nước ngàn năm còn lưu luyến,
Biên thùy bữa tiệc hết giọng ca tàn.
Trường Giang dòng chảy y nguyên,
Đầu Ngô cuối Sở dặm ba ngàn,
Giờ đã thuộc về tay người khác,
Mưa tuôn gió lộng luôn thay đổi.
Sóng lạnh cuốn về đông,
Muôn sự gởi sương mây khói.
Hỡi hồn sông núi hiển linh,
Lễ chiêu hồn vọng biển trời xa.

TRẦM GIANG KHÚC

Trang Y Hạ
(Tạm: Dịch Qua Thơ)

Chạy tới sông tâm lòng chừ đứt đoạn
rã ngũ hàng chết lặng biết ai hay
gió bụi đường toát giọt mồ hôi đẫm
thành tan hoang xé nát cả hình hài

Dõi đôi mắt chân trời chờ cứu ứng
gom tàn quân một trận quyết sống còn
thoát vòng vây tìm về nơi cố quận
lửa chiến chinh mù mịt cả nước non

Đờn đứt dây đáy ly bôi rạn nứt
kiếm gãy ngang Cửu Long nước đỏ ngầu
cờ thất thế giang san sầu thay chủ
mưa bụi giăng cuối nẻo rẽ về đâu

Việc đất trời phó mặc trò dâu bể
xót hồn thiêng sông núi ủ sầu đông
làm thân lính trận tiền đâu sá kể
gắng hiển linh hưởng nhang khói ấm lòng.

Chiêu hồn biển trời xa ai nhỏ lệ.

Trang Y Hạ
(Mượn Ý Người Xưa - Dịch Thơ).

Lời Gió Mưa:

Thi văn sĩ Khổng Thượng Nhiệm (1648-1718) tự, Quý Trọng , Sính Chí. Hiệu Ngạn Đường, Đông Đường, Vân Đình Sơn Nhân. Thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, ông là cháu đời thứ sau mươi bốn của Khổng Tử, ông ra làm quan và nhận các chức vụ: Quốc Tử Giám bác sĩ, Viên ngoại lang, Hộ bộ chủ sự. Ông cũng một nhà viết kịch nổi tiếng đời Thanh. Được người đời xưng là Nam Hồng Bắc Khổng. Tác phẩm có:  Hồ Hải Thi Tập, Ngạn Đường Văn Tập. Đào Hoa Phiến”.

Hoàn cảnh trong bài thơ, Trầm Giang Khúc của thi văn sĩ Khổng Thượng Nhiệm - rất giống hoàn cảnh của ngày 30.4.1975. Do đó Trang Y Hạ mượn ý thơ của người để diễn tả lại ngày quăng súng đầu hàng. Xin thi sĩ hiểu cho nỗi lòng người chiến binh thất trận.

Trang Y Hạ.
 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét