LỜI HỨA HÔN
Trang Y Hạ
Không
biết hắn lượm cái lon guigoz ở đâu, cái lon bẹp dúm
cáu bẩn trông thật gớm ghiếc. Hôm nay là ngày chúa nhật
trại tù cho nghỉ lao động. Vậy là hắn cầm cái lon
guigoz bẹp dúm đó ra đầu dãy nhà lô ngồi: gò gõ miệt
mài gần cả tiếng đồng hồ, cái lon nhôm đó đã trở
lại hình dáng ban đầu, nhưng thẳng tuột không còn thấy
mấy cái gờ gợn sóng ở giữa thân lon như lúc còn mới.
Hắn hí hửng mỉm cười với "chiến lợi phẩm"!
Trại
tù cho “thăm nuôi, nhưng năm khi mười họa mẹ hắn mới
đến thăm nuôi một lần, hình như cuối năm hay đầu năm
gì đó... Nghe đâu rằng hắn không muốn mẹ đến thăm
nuôi (?). Chính mấy ông cán bộ trại tù cũng ngạc nhiên
về điều nầy. Sau nầy quen thân - hắn bùi ngùi, tâm sự:
-
"Tao có sáu người em: năm em gái, một em trai út. Cha
tao mất, một mình mẹ tao lam lũ nuôi bầy con. Ngày còn ở
lính tao dành dụm tiền lương hằng tháng gửi về phụ
giúp mẹ nuôi em. Còn bây chừ trong hoàn cảnh như vầy...
nếu để mẹ tao thăm nuôi tao thì các em tao ở nhà sẽ
chết đói. Vả lại, không biết chừng các em tao lại còn
oán giận tao thêm nữa !".
Ngày
chúa nhật nghỉ lao động, ai có thực phẩm khô thì cầm
sổ đến hậu cần trại lãnh thực phẩm đem xuống bếp
tập thể, bếp lộ thiên để nấu nướng... Những ai con
bà phước (masoeur) thì dọn dẹp chỗ nằm, gom quần áo
đi giặt hay ngồi vá quần áo - vá quần áo là nghề của
mấy anh chàng ở tù, hoặc bắt rệp… Số còn lại xúm
nhau đánh cờ tướng, nói chuyện tào lao thiên địa, nằm
ngủ lấy sức để ngày hôm sau tiếp tục "trường
kỳ..." đi lao động !
Hắn
đục hai lỗ nhỏ trên miệng lon guigoz, rồi buộc một
cọng thép làm quai xách, sau đó đi kiếm một nhánh củi
nhỏ dài khoảng hơn một thước làm cái cần câu. Bởi
nơi bếp tập thể ông táo là những thanh sắt "ấp
chiến lược" dài, gác dọc theo cái rãnh, cái mương,
hoặc kê tạm bằng các cục đá ong. Do đó không thể để
vừa cái lon guigoz méo mó của hắn.
Mọi
người có mặt tại bếp tập thể hôm nay ai cũng quay lại
nhìn... Không phải họ ngạc nhiên khi thấy cái lon guigoz
với cái cần câu. Ngạc nhiên là vì xưa nay đâu có thấy
hắn xuống bếp bao giờ. Một phần không có thăm nuôi,
bạn bè thương mến cho cái gì ăn cái nấy, quanh năm có
bao giờ thấy hắn nấu nướng chi.
Có
một vài người lẹ mồm, lẹ miệng xúm nhau hỏi:
-
Ê, nấu món gì đấy vậy hử anh bạn...?
Hắn
biết mọi người thắc mắc…
-
Bắp...! Bắp…! Hắn trả lời gọn lỏn.
-
Ai cho vậy hử?
Vẻ
mặt rất ư là tự tin...Hắn cười nói:
-
Hôm qua được phân công dọn dẹp kho thực phẩm - cán bộ
Sáu cho một ít hột bắp rơi ấy mà. Không dám ăn cắp
đâu, đừng có lo.
Chớ
nghĩ rằng trong thế giới đàn ông là không có chuyện:
bép xép, tò mò, ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi nha
! Một ít trong số họ cũng không kém mấy bà, mấy cô
đâu, chỉ họ khéo léo che đậy thành ra cứ tưởng rằng
họ là người cao thượng !
Hắn
ngồi trên hòn đá ong, tay cầm cái cần câu có sợi dây
treo cái lon guigoz đung đưa trên bếp lửa, đứng xa xa
trông giống ông Khương Tử Nha ngày xưa ngồi câu cá chờ
thời bên bờ sông Vị Thủy ở trong truyện Tàu. Mọi
người nấu nướng xong xuôi hối hả chạy về dãy phòng
của mình ăn uống nghỉ ngơi từ lâu, chỉ còn lại một
mình hắn, hắn vẫn ngồi đăm chiêu bên bếp... “Bắp
hột nấu lâu mềm quá ! Đã chêm hai ba bốn lần nước…”.
Hắn tự than thở như vậy. Trên tấm lưng trần rươm
rướm mồ hôi bởi than hồng; bởi nắng buổi sáng bắt
đầu gay gắt ! Đối với hắn nắng nôi không hề hấn
chi, đã ở trần, mặc quần đùi quanh năm chỉ đến
tháng lạnh mới mặc áo, (không
mặc áo cũng chẳng xong vì luật của trại tù đúng sáu
giờ chiều tất cả các "cải tạo viên" không
được ở trần).
Chuẩn bị dập tắt bếp lửa để đi về thì hắn chợt
thấy một ông già tóc bạc trắng dáng người thấp, nói
giọng bắc hấp tấp chạy lại.
-
Cháu đừng tắt bếp ! Cháu đừng tắt bếp !Cháu để
bếp đấy cho bác nhờ…!
Vậy
là phải nán lại. Hắn thấy ông già có khuôn mặt phúc
hậu nên hỏi làm quen:
-
Bác ơi ! Bác già rồi sao không ở nhà trông con cháu vào
nơi tù đày nầy mần chi cho khổ thân vậy ?
Bấy
giờ ông già mới nhìn kỹ lại người thanh niên... Ông
cũng cảm mến chàng trai trẻ dù mới gặp lần đầu.
Ông
già gặp dịp nên tâm sự:
-
Bác tên là Nguyễn Dự, giải ngũ vào năm một nghìn chín
trăm bảy mươi hai với cập bậc Thượng Sĩ nhất. (Từ
người lính dần dần leo lên đó mà) ! Mấy chục năm bác
chỉ trông coi một tiểu đội lính đi bảo vệ cho một
ông Tướng. Gọi tiểu đội cho nó oách chứ thật ra chỉ
có bốn người. Ngày bỏ súng đầu hàng cũng có ra trình
diện cách mạng tại xã Xuân Tâm, học tập chỉ có ba
ngày rồi họ cho trở về nhà. Đến cuối năm một nghìn
chín trăm bảy mươi sáu, không biết ai tố cáo vu khống
bác với ủy ban xã rằng: Bác làm "Tùy Viên Báo
Chí" cho ông tướng (?). Vậy là, nửa đêm du-kích
xã mang súng AK kéo quân rần rần xồng xộc vào nhà bác
“mời” bác xuống trụ sở xã và đưa vào đây.
Cụ
già nói tiếp:
-
À nầy, sao trông cháu quen... quen... Cháu có bà con gì ở
xã Xuân Tâm không nhỉ ?
-
Dạ ! Mẹ và các em của cháu ở đó từ những năm một
chín bảy mươi hai. Hồi trước cháu có về thăm mẹ và
mấy em vài ba lần !
Mặt
ông già tỏ ra mừng rỡ, vì gặp được người cùng làng
!
-
Mẹ cháu tên gì thế ?
-
Dạ, tên của mẹ cháu là Lụa.
-
Bác có biết. Mẹ cháu nói giọng Quảng Nam, siêng năng đi
lễ. Bà hay cầm cái oi đi xin tiền trong nhà thờ !
-
Dạ, gia đình cháu theo đạo Công Giáo lâu đời.
-
Cháu có vợ con gì chưa đấy ?
-
Dạ, chưa có bác ơi !
Ông
già nhìn hắn giây lâu, rồi nói:
-
Bây giờ chúng ta được họ hoán chuyển sang họ "ngụy",
thì chỉ có chúng ta mới thấu hiểu nhau.
Nghe
ông già nói vậy. Hắn thản nhiên nói:
-
Bác ơi, nếu được thả về nhà cháu sẽ lên KonTum làm
rẫy rồi cưới một cô sơn nữ !
Ông
già tằng hắng... rồi khuyên bảo:
-
Cháu được thả về, cháu còn phải chịu sự "quản
chế". Trước kia ở ngoài miền Bắc, bác cũng đã
từng chứng kiến sự quản lý gắt gao của địa phương
đối với người tù được thả ra. Cháu lên Cao Nguyên
không khéo lại bị nghi ngờ theo tàn quân "Fulro".
Bác có đề nghị như thế nầy ?
-
Bác cứ nói đi ! Ở đây là trại tù, nhốt tù chính trị
chúng ta mà !
Ông
già cẩn thận đưa mắt nhìn chung quanh:
-
Cháu nói cẩn thận ! Biết rằng chúng ta đang bị ở tù
không có lý do. Nhưng nói ở tù thì họ cho là chống đối,
bị biệt giam ! Tai vách mạch rừng, có thằng “antenna”
nào đó nó nghe được rồi chạy đi “báo cáo” thì khổ
cho cái thân đã bị tù lại còn “biệt giam”. Biệt
giam là “nhân họa” rất khủng khiếp: bị còng U sắt
vào hai chân, xích hai tay, bỏ đói, bỏ khát, ghẻ lở đầy
mình…!
-
Dạ, Cháu cảm ơn bác ! Vậy bác nói đề nghị của bác
ra đi. Hắn thúc giục:
Ông
già, nói giọng vừa đủ nghe:
-
Dòng họ nhà bác quê ở Thái Bình, cả làng nhà bác định
cư ở Thủ Đức và Rạch Giá. Bác có người em trai cũng
đang đi tù như bác. Chú ấy có bảy người con: bốn gái,
ba trai. Hai đứa gái lớn có chồng, còn hai đứa gái còn
nhỏ thì chưa.
-
Nầy, cháu sinh năm mấy nhỉ ?
-
Dạ, cháu sinh: Năm một nghìn chín trăm năm mươi !
-
Vậy là... cháu lớn hơn mấy đứa cháu gái của bác. Bác
gợi ý như thế nầy nhé ! Cháu có muốn gọi bác bằng...
“bác vợ” không? Cháu hứa đi, còn sau nầy khi các cháu
gặp mặt nhau - ưng hay không ưng - hợp nhãn hay không hợp
nhãn là do duyên nợ, do Chúa an bày. Không có gì là ràng
buộc đâu, cháu đừng có ngại ngùng.
Hắn
cảm động nghiêng qua cầm tay ông già tỉ tê:
-
Cháu còn trẻ tuổi, nhưng biết có còn sống mà về, dù
có về thì lo cho thân mình còn chưa xong, nói chi đèo bồng
chuyện gia thất làm khổ thêm cho người con gái mà thôi.
Ông
già lại phân trần:
-
Cháu nói đúng chỉ có một phần, nhìn bao quát tình trạng
đất nước hiện giờ. Trách nhiệm thuộc về lỗi lầm
của chúng ta. Miền Nam sống trong tự do, dân chủ (dù
đang là thời chiến). Có đối lập, nhưng hầu hết đối
lập là không có mục đích góp ý xây dựng mà ngược
lại: Tướng tá, chính trị gia, đảng phái, trí thức,
sinh viên, tôn giáo... chỉ lo tranh giành quyền lợi phe
nhóm đã giết chết nền “Đệ Nhất Cộng Hòa”. Cụ
Diệm đã từng nói: “Chết có gì mà sợ. Tôi chết
sẽ loạn sứ quân”. Giết gia đình Cụ Diệm xong lại
quay sang làm đảo chánh loạn xà ngầu trong mấy năm liền:
Xã hội xáo trộn, dân tình khốn khổ, đất nước lâm
nguy. Giờ nầy ngồi than trời, thở đất phỏng có ích
gì ! Sợi dây xích cuốn vào cái ổ liếp xe có khi căng,
khi chùng là do người ta đạp... Lấy mẫu số chung, thì
thử hỏi người lính chúng ta ngoài đồng lương ít ỏi
đó ra, thì nào có nghề nghiệp gì ổn định hoặc của
cải tích trữ nữa đâu hả cháu ?
Những
hột bắp nở tanh banh đầy ắp trong cái lon Guigoz... Hắn
đưa tay ấn xuống, rồi nói:
-
Cháu cảm ơn bác, cháu xin hứa và ghi nhớ tấm lòng của
bác. Theo cháu nghĩ: tình yêu nên để cho nó trôi đi một
cách tự nhiên thì hay hơn.
Hai
ông cháu tươi cười bắt tay nhau trở về dãy phòng của
mình.
oOo
Một
năm sau ông già được thả về. Trước ngày chia tay ông
già có để lại cho thằng "cháu rể" tương lai
một số vật dụng cá nhân… Ông già không hề đá động
gì đến câu chuyện "gợi ý hứa hôn" dạo nọ.
Cuối năm môt nghìn chín trăm tám mươi hai, hắn cũng được
thả sau hơn bảy năm trời dài đăng đẳng. Về đến
nhà, nhìn căn nhà của mẹ chỉ lợp mười mấy tấm tôn
xi măng cũ rích, xiêu vẹo, vách che bằng lá buông mục
nát trống huơ, trống hoác. Trong nhà không có một thứ
gì gọi là đáng giá. Quà người tù "cải tạo"
đem về cho cho gia đình là mấy cái lược; mấy cái vòng
đeo tay cắt ra từ mấy mảnh nhôm, được chạm khắc:
hoa, lá, cành - long, lân, quy, phụng trông khá đẹp mắt.
Các em gái hắn thích lắm !
Hồi
ở trong trại tù, được xem phim dân chúng miền Bắc dùng
xe đạp thồ vận chuyển lương thảo cho trận "Điện
Biên Phủ". Hắn quá ngạc nhiên ! Nay về nhà lại
thấy mỗi buổi sáng người nào người nấy cũng chạy
xe đạp thồ đi vô rẫy, buổi chiều thồ cây củi, nông
sản về nhà. Hắn: ao ước, ao ước được có một chiếc
xe đạp thồ y như vậy để đi vô rừng cưa củi, đốt
than như người ta !
Bà
mẹ nhìn con thở ngắn, thở dài…! Bà âm thầm đi vay
mượn "bắp non" lấy tiền mua xe đạp thồ cho
con trai. Vậy là "mơ ước" to lớn trong đời của
hắn đã thành sự thực. Chiếc xe đạp thồ mới cáu
cạnh ! Sườn xe đạp làm bằng ống típ nước trần trụi
màu sắt thép, các mối hàn sần sùi loang lở, trông như
da cóc tía... Niềng xe làm bằng tấm sắt vòm ống cống
hầm lô-cốt, công sự của Mỹ cắt ra, màu trắng đục,
to bè bè bằng cỡ ba ngón tay người lớn, gồ ghề, dày
cộm. Tăm xe thiệt bự đó là loại tăm của xe ba gác.
Cặp phuộc trước chắc chắn, được phụ trợ thêm bộ
đũa sắt to cỡ bằng ngón tay cái nối kết từ trục
bánh xe trước lên ghi-đông, (tay lái). Người thiết kế
xe nói: "Trọng tải của xe đạp thồ khoảng bốn
trăm ký !". Thử gồng mình xách chiếc xe, sức nặng
của chiếc xe thồ ước chừng bằng nửa trọng lượng
thân thể của hắn. Dẫn xe về nhà, hớn hở tập chạy,
tập thồ nhưng vì chưa biết cách thồ, nên té ngã lia
chia... Người em rể thứ tư "kèm cặp" vài hôm
mới lấy được cái "bằng lái xe thồ” !
Mới
trở về nhà, chưa biết thổ nhưỡng, thói quen cũng như
nhịp độ công việc lao động tại địa phương. Nhờ có
người em rể thứ tư, hướng dẫn tận tình, ngày ngày
đi theo người em rể vào rừng cưa củi khô, đem ra chợ
Xuân Tâm bán.
Một
hôm hắn nói với người em rể rằng:
-
Anh ở trong tù, anh và vài bạn tù có thời gian - đi lấy
gỗ, đi lấy củi trên hai năm cho trại. Do đó nên anh có
nhiều kinh nghiệm phá rừng. Phá rừng hợp pháp lại còn
được trai tù khen thưởng, cho - ăn, uống; cho gia đình
“thăm nuôi”. Từ ngày mai chúng ta vào rừng không cần
phải chạy đi tìm cây củi khô làm chi cho cực nhọc. Cây
tươi đầy ra đó cứ chặt hạ xuống, cưa dài cỡ bốn
tấc rồi bửa nhỏ ra thồ về nhà chất đống chừng năm
ba bữa củi sẽ khô ráo, sau đó chở đi bán. Dù có mưa
hay nắng chúng ta đều có việc để làm, lại không sợ
bị mấy ông cán bộ “kiểm núi” bắt phạt. Cây tươi
ở trong rừng không bao giờ sợ thiếu.
Ngày
tháng tiếp theo hắn đi đốt than, cưa cây xẻ gỗ, làm
lại căn nhà, ngoài ra còn làm thợ mộc: đóng bàn, ghế,
tủ, giường... cho gia đình dùng và bày bán, hoặc có ai
kêu ở đâu thì mang đồ nghề thợ mộc đến nhà họ
làm. Phong tục ở quê rất mến trọng thợ, việc ăn uống
họ lo hết, chiều lại còn lai rai vài xị rượu đế với
chủ nhà ! Hắn còn đào giếng, đào tới ba lần mới
đụng được mạch nước ngầm ! Đến đầu mùa mưa thì
đi phá rừng làm rẫy trồng: bắp, đậu, lúa, khoai mì,
khoai lang…, Nói chung là thượng vàng hạ cám cái gì cũng
làm mà không bao giờ nề hà, làm để có cái mà sống,
để được vinh quang ! Hắn còn giúp đỡ bà con chòm xóm
nhiều việc nên mọi người thương mến lắm !
Một
hôm bà mẹ nói:
-
Con năm nay cũng đã trên ba mươi tuổi đầu, đến hồi
phải lập gia đình sinh con nối dõi tông đường rồi đó,
con ở độc thân hoài như vậy là có lỗi với ông bà tổ
tiên. Con đừng trông mong ở cô bạn gái ngày xưa đó
nữa.
Ở
tù được hai năm mới được gặp mẹ. Mẹ cho biết: -
"Cô bạn gái có chờ đợi con hơn hai tháng, không
thấy tin tức gì của con, nên đã bỏ về nhà mẹ ruột
ở ngoài miền Trung" ! Nghe mẹ cho biết vậy, hắn đau
khổ, nhưng khi bình tĩnh - nhận thấy cô ấy bỏ đi là
đúng ! Làm sao cô ấy chờ đợi một người tù, mà người
tù đó không được tuyên án ! Không tuyên án thì biết
ngày nào trở về…? Tự đau khổ rồi tự giác ngộ nên
hắn thanh thản ! Tuy nhiên, có đôi lúc quá cô đơn trong
cảnh đọa đày, hình bóng cô bạn gái lại chập chờn.
Đời
sống bên ngoài luôn cơ cực ! Đôi khi hắn có nhớ ông
già tóc bạc tên Nguyễn Dự. Đôi khi có mường tượng
hình bóng người cháu gái của ông ấy trong những lúc cô
đơn. Đôi khi có ý định sẽ hỏi mẹ, nhà ông ấy ở
xóm nào ? Nhưng lại ngần ngại ! Ngần ngại vì nhận
thấy hoàn cảnh gia đình còn quá nhiều khó khăn, các em
còn nhỏ nên đành im lặng chẳng dám hỏi. Đến mùa làm
rẫy, hắn ở lại trong rẫy suốt tuần, chiều thứ bảy
mới về nhà để sáng chúa nhật đi lễ nhà thờ. Sáng
sớm thứ hai lại quay trở vào làm bạn với rẫy.
oOo
Một
buổi chiều thứ bảy nọ, thồ bốn bao tạ đậu phộng
đi về đến ngã tư đầu Ấp. Hắn đâu có biết rằng
nơi góc ngã tư đó có ngôi nhà của ông "bác vợ"
trong mơ đã từng gợi ý gả cháu gái cho hắn. Ngôi nhà
lợp tôn xi-măng, vách ván. Hai bên góc vườn có hàng rào
dâm bụt cắt tỉa cao hơn đầu gối chút xíu, trông đẹp
mắt. Hắn thấy một cô gái đang kéo nước giếng. Thành
miệng giếng, nền giếng chung quanh làm bằng xi-măng, nhìn
qua cách trang phục và mái tóc “Demi garson” của cô gái
có vẻ giống người ở thành phố. Hắn nghĩ vậy. Mải
sửng sờ nhìn người đẹp nên quýnh quáng “lạc tay
lái” ! Người xe thồ “mê-gái” mất thăng bằng ngã
nhào vô hàng rào... Cô gái giật mình, theo phản ứng tự
nhiên cô chạy vội ra định giúp nhưng chân yếu tay mềm
không đủ sức. Hắn vội vàng đứng lên, mặt đỏ rần
tới mang tai…! Chân tay lọng cọng tháo dây thun kéo mấy
bao đậu phộng lên... Cô gái im lặng đứng vịn xe, mùi
hương tóc cô gái làm hắn ngây ngất... Hắn ấp úng nói:
-
“Tôi sơ ý nên bị té ngã. Tôi... tôi... Xin cảm ơn cô
đứng vịn xe giùm ! Hình như cô ở thành phố...?”
Cô
gái gật đầu, hỏi hắn:
-
“Ông có hay té ngã thường xuyên như vậy không ? Có lẽ
là ông chở quá nặng !?”
Hắn
luống cuống, xấu hổ nói lý nhí trong miệng:
-
Thưa cô, tại… tại... hôm nay tôi quá mệt !
Hắn
đã nói dối. Lời nói dối dễ mến đó không thể qua
được đôi mắt cô gái, cô gái tươi cười độ lượng.
Cô cũng không quên chúc chàng trai đi về nhà bằng an !
Trên
đường đi về nhà chiều nay, hình như hắn không cảm
thấy mệt mỏi chút nào, thậm chí còn khỏe mạnh thêm
nữa ! Và rồi như chợt nhớ ra điều chi, hắn than trời:
-
"Tại sao mình quá ngu, mình quá hồ đồ, không hỏi
tên nàng, biết đâu lần sau sẽ gặp lại !
Nơi
nào có tình yêu đến, nơi đó mọi sự sẽ được thay
đổi và sắp xếp gọn gàng.
Suốt
tuần ở trong rẫy, cái hình bóng cô gái lúc nào cũng
"hành hạ"...! " Hắn ăn không ngon, ngủ cũng
chẳng yên, mong
mau chóng đến thứ bảy đi về ghé qua ngã tư đầu Ấp
xem cô gái
có
còn ngồi ở bên thành giếng nữa hay không? Hắn thất
vọng. Chẳng lẽ tự nhiên nhào vô nhà người ta hỏi tên
cô ấy. Hỏi về lý do gì mới được kia chứ ? Hắn thồ
xe loạng choạng như người mộng du may mà không té ngã.
Thồ xe vừa vào tới sân, đang lom khom tháo mấy bao đậu
phộng đã nghe văng vẳng giọng phụ nữ đang nói chuyện
vọng ra ! Người mẹ thấy con trai về, bà lăn xăn nắm
tay con dắt vào nhà mà không đợi con trai nghỉ mệt hay
tắm rửa thay quần áo... Hắn ngơ ngác cứng miệng, hoa
mắt khi thấy người con gái đứng kéo nước bên thành
giếng đẹp lộng lẫy như tiên giáng trần hiện ra trong
nhà ! Vừa mừng, vừa ngỡ ngàng…! Chưa hoàn lại hồn
đã nghe mẹ nói:
-
Đây là con trai đầu của bà: - Tên của hắn Phước, đi
tù "cải tạo" bảy năm mới về nhà hơn một năm
nay"! Bà lại chỉ
vô người con gái ngồi ở đầu bàn: - Đây là cô Thủy
con gái của bác Dự, cô đã có chồng con ! Bà nhìn qua
hắn, nói tiếp: - Còn đây cô Tâm, cô ở thành phố Sai
Gòn. Cô Tâm kêu bác Dự bằng bác ruột, kêu chị Thủy
đây bằng chị họ. Chúng con hãy nói chuyện với nhau.
Trước lạ sau quen !
Thoáng
nhìn qua, hắn cũng nhận ra cô Thủy nầy có khuôn mặt
giống ông "bác vợ" trong mơ của hắn. Hắn nghĩ,
làm sao mà cô Thủy và cô gái ở thành phố lại đến
nhà mình trong lúc nầy ? Chẳng lẽ ông già “cải tạo”
Nguyễn Dự mách nước chăng ? Hắn tự hỏi và hắn cũng
tự trả lời: - Biết đâu: “Hữu duyên thiên lý năng
tương ngộ”, cũng nên ! Thôi mọi chuyện đều do ý Chúa
sắp đặt. “Chuyện gì Thiên Chúa sắp đặt thì loài
người không được phân ly”. Mong ước sẽ được
như vậy !
Dạo
nầy... Hắn không thèm ngủ lại rẫy rừng như mọi khi.
Hắn hớt tóc, cạo râu, ăn mặc gọn gàng trông trẻ hẳn
ra...! "Đúng là tình yêu đã làm thay đổi trái đất".
Hai bên gia đình bật đèn xanh tạo điều kiện thuận lợi
cho "anh chị" tâm tình quên cả trời trăng mây
nước... Ba tháng sau, hai họ đồng ý tổ chức đám cưới.
Thời gian còn "quản chế" nên không được vào
"hộ khẩu" trong gia đình của mẹ. Không cho làm
"chứng minh nhân dân" ! Do đó, không thể "đăng
ký kết hôn” tại ủy ban xã. Xã chỉ cấp cho cái giấy
"sống chung" chứ không cho làm Giấy Hôn Thú. Hắn
viết một lá đơn xin "Tạm Vắng" hai ngày, với
lý do: "Đi Cưới Vợ ở Sai Gòn", cầm lá đơn ra
ban an ninh ấp xin chứng thực, sau khi chứng thực xong,
thấy trong lá đơn có lời phê như sau: "Ban
an ninh Ấp, kính đệ trình lên thượng cấp điều tra,
theo dõi đối tượng vì đối tượng này mới đi học
tập cải tạo về còn trong thời hạn quản chế".
Hắn cười trong bụng: “Đi cưới vợ mà cũng bị điều
tra theo dõi ! Theo dõi cái chi chi, rứa hỉ” ? Hắn cầm
cái lá đơn xuống xã, xã đóng dấu chấp thuận và ghi
thòng thêm câu: "Nhớ
cầm giấy tạm vắng đến trình diện ban an ninh nơi đến.
Khi trở về trình lại giấy nầy cho an ninh ấp Ba".
Người
vợ trẻ Sai Gòn, nay đã về "đồng rừng" sống
với gia đình nhà chồng. Cô là con gái thành phố chưa
quen chuyện nông, tang… nên được ưu tiên ở nhà làm
việc nhẹ. “Hộ khẩu” của cô vẫn còn ở Thủ Đức,
Sai Gòn, cô không dám cắt vì nếu cắt thì sẽ rất khó
nhập “hộ-khẩu trở lại thành phố. Một năm sau cô vợ
sinh một đứa con gái, (sinh ở bịnh viện Bình Trưng
Đông, Thủ Đức), hẳn nhiên đứa con gái có “hộ khẩu”
theo quê mẹ. Tưởng rằng vợ chồng sẽ được êm ấm
sống bên nhau lâu dài như câu chúc "Trăm Năm Hạnh
Phúc" ! Vậy mà đâu có ngờ - trong một lần cô vợ
ẵm con về thành phố để đi "bầu cử", [vì
thẻ cử tri gắn liền với "hộ khẩu"]. Ba ngày
sau cậu em vợ chạy xuống báo tin:
-
"Anh ơi, chị em bị bệnh sốt xuất huyết cấp tính
chết ở bệnh viện Nguyễn Văn Học rồi. Xác chị đã
được đưa về nhà bỏ vô quan tài chờ bác và anh về
mới đậy nắp" !
Hắn
điếng hồn, than: “Họa
vô đơn chí, phước bất trùng lai”…!
Ngày hôm sau, bốn giờ sáng, hắn cùng mẹ đón xe than lên
thị trấn Long Khánh để kịp bắt chuyến xe về Sai Gòn
(xe than là xe chạy bằng than củi thay cho xăng dầu, kể
từ sau ngày "giải phóng miền Nam" !). Đến thị
trấn, hai mẹ con đứng xếp hàng từ sáu giờ sáng cho
đến ba giờ chiều mới đến lượt mua vé để leo lên
xe. Sở dĩ chờ lâu vì mẹ con hắn là người dân thường,
vé xe than chỉ ưu tiên trước cho: cán bộ, bộ đội, gia
đình có công với cách mạng hoặc người có giấy giới
thiệu, hoặc người đi công tác. Hắn thầm nghĩ:
-
Ngày được thả ra tù trở về nhà đi bằng xe than củi
!
-
Ngày đi cưới vợ rước dâu đi bằng xe than củi !
-
Ngày đi chôn vợ chết cũng đi bằng xe than củi !
Ôi…!
Sao mà cuộc đời đen thui, đen thủi quá như vậy không
biết nữa ?!
Ngồi
trên xe than củi đã nóng, trong lòng lại càng nóng hơn.
Hắn không tin là vợ mình chết cho đến khi thấy trước
cổng nhà bên vợ cờ tang ủ rũ, khăn tang trắng xóa, lúc
nầy hai chân dường như quỵ xuống. Người vợ thân yêu
nằm trong quan tài, đôi mắt mở to đang mơ màng chờ
đợi…! Khuôn mặt nàng xanh xao; hai môi nàng tím rịm…!
Bồng đứa con gái mới bốn tháng tuổi, đầu quấn khăn
tang cho mẹ đang khóc ngằn ngặt vì khát sữa. Hắn đưa
bàn tay run... run... vuốt mắt tiễn biệt người vợ với
hai hàng nước mắt lăn dài…! “Trời ơi, có sự đau
thương nào hơn sự đau thương kẻ mất người còn như
vầy !?”. Người nhà, hàng xóm bụm miệng khóc theo ! Họ
khóc cho giây phút tang thương xé nát tâm can. Tội nghiệp
đứa con gái còn quá nhỏ ! Tội nghiệp người đàn ông
trong những tháng năm còn lại phải chịu cảnh "gà
trống nuôi con" !
Chôn
cất vợ xong, những tháng ngày kế tiếp người ta trông
hắn không khác gì thi sĩ, Bùi Giáng. Hắn ở trong rẫy,
một tuần về nhà vài lần thăm con, (cũng may là còn mẹ
và mấy cô em gái chưa chồng tận tình chăm lo cho cháu).
Hắn né đi, về mỗi ngày ngang qua nhà ông bác vợ, bởi
sợ kỷ niệm sống dậy giày vò... Nơi đó, có một người
con gái kéo nước giếng năm xưa.
Buổi
chiều mùa hạ, những tia nắng còn gay gắt, tia nắng
chiếu thẳng vào tấm lưng trần trùi trụi ướt đẫm mồ
hôi của người đàn ông. Một người đàn ông - tóc dài,
râu ria tua tủa - khum người gần như nằm rạp theo chiếc
xe đạp thồ. Từng bước, từng bước - chỏi xuống mặt
đường - cố sức đẩy chiếc xe chở bốn bao tạ đậu
phộng nặng nề đi về nhà. Người đàn ông đó chính là
hắn. Hắn chợt nhớ câu thơ Kiều: "Một
xe trong cõi hồng trần như bay".
Cười nhếch mép: -
Xe
nào bay, chứ xe thồ nầy mần răng mà bay nổi hở ông
Tiên Điền ?
Mải
lo đắm đuối trong dòng suy nghĩ… Chiếc xe đạp thồ
cắc cớ bẻ tay lái đi về hướng ngã tư. Ngôi nhà của
ông Bác vợ hiện ra lờ mờ... Hắn dìu xe thồ đi thật
chậm, thật chậm để thở, để hồi tưởng... Thân thể
quá mệt mỏi, quá bơ phờ vì đã vượt đoạn đường
dài từ rừng rẫy… Đôi mắt người đàn ông thất thần
nhìn chăm chăm vào bên trong vườn nhà mà hồi tưởng…!
Người
đàn ông đã từng tiễn đưa người vợ về cõi chết,
kỷ niệm tình yêu, nỗi đau chia lìa còn mãi mãi, còn mãi
mãi mới giày xéo thể xác, linh hồn từ mấy năm nay.
Người cha ngày ngày
lao nhọc không thể nào bù đắp đủ tình thương
cho đứa con gái ngây thơ mồ côi mẹ. Đang mơ mơ về dĩ
vãng, đôi mắt lòa nhòa thấy cái bóng chập chờn của
cô gái đứng kéo nước bên giếng năm xưa. Nàng cười
thật tươi…! Nàng mừng rỡ chạy ra...! Người đàn ông
quên mất là mình đang cầm lái chiếc xe thồ nặng nhọc.
Và rồi, chiếc xe thồ mất thăng bằng chúi nhủi đánh
rầm vào hàng rào dâm bụt. Người ngã theo nằm đè lên
mấy bao đậu phộng. Miệng, mũi thở hồng hộc...!
Đâu
đây, có tiếng trẻ thơ kêu văng vẳng, lúc gần lúc xa:
-
Cha ơi...! Cha té, có đau không cha ?
Nghe
giọng trẻ con quen, quen…! Hắn rùng mình tỉnh lại dáo
dác quay người tìm…! Thì ra, cái bóng chập chờn đó
chính là đứa con gái mới bốn tuổi đầu của hắn ngồi
chơi bên thành giếng, trông thấy cha thồ xe đi về bị
té ngã đã vội vã chạy ra đứng bên cạnh lo lắng, hỏi.
Hắn
mừng quýnh, vội vàng dang hai tay ôm chặt lấy đứa con
tội nghiệp vào lòng như sợ người ta cướp đi mất.
Không biết, có phải mồ hôi hay nước mắt của người
cha nhỏ xuống bê bết - trên trán, trên mái tóc cụt ngủn
của đứa bé gái ? Thiết nghĩ, có thể là cả hai dòng
nước mặn chát đó thôi !


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét