TIẾNG
KHÓC – THÚY KIỀU
Tùng
tùng trống đánh ngũ liên,
Bước
chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
(Lính
thú thời xưa)
Trong
cuộc sống với muôn hình vạn trạng, từ thiên nhiên cho
tới con người - đã và đang xảy ra hằng ngày như: động
đất, bão lũ, dịch bệnh, chiến tranh, tai nạn, vu vạ,
hận tình, hận đời, tang thương… Khóc là chuyện không
thể thiếu trong cuộc đời mà con người sinh ra ở trong
cuộc đời là nhân tố đối diện với thiên nhiên để
tồn tại và sinh sôi nẩy nở.
Thực
ra, thì con
người, từ thuở mới lọt lòng mẹ thì đã khóc; lớn
lên gặp trắc trở trong cuộc sống cũng khóc, khóc cả
đời. Trong cuốn “Chinh Phụ Ngâm” của tác giả Nguyễn
Gia Thiều có câu: “Thảo
nào khi mới chôn nhau, Đã mang tiếng khóc ban đầu mà
ra.”!
Khóc
là một hiện tượng sinh lý, nước mắt thuộc nhân loại
học, tâm lý học. Nước mắt rơi đó là hiện tượng
của tâm linh. Nước mắt là hiện tượng sinh lý được
sản xuất qua hạch tuyến lệ. Nước mắt có vị mặn,
đó là chất muối làm trơn; chất muối nầy làm cho nhãn
cầu ẩm ướt không bị
không khí nắng gió làm khô rát, chất muối làm trôi đi
hết bụi bặm li ti trong mắt. Trong chai thuốc nhỏ mắt
nhà điều chế dược phẩm đều có ghi thành phần muối.
Nước mắt chứa đựng các chất diệt vi khuẩn nhẹ
(lysozyme)
một loại enzyme tức là protein, một (chất hữu cơ) diệt
các loại vi trùng. Trong nước mắt chứa đựng các hóa
chất manganese, nhiều nhứt là prolactin, chất điều hợp
kích thích sản xuất ra sữa. Manganese và prolactin, khi
khóc, hai chất nầy sẽ làm giảm sự căng thẳng giúp cơ
thể quân bình cảm thấy dễ chịu hơn và dễ ngủ.
Bỏ
ra ngoài cái lợi về sinh lý thì
tiếng
Khóc
cũng là ngôn ngữ truyền đạt thông tin, như trẻ con khóc
đòi ăn, đòi uống, đòi bú hay bị nóng lạnh... Người
lớn khi gặp hoàn cảnh bế tắc hoặc bị đe dọa tới
tính mạng cũng khóc la lên để cầu xin hầu mong được
cứu thoát. Trong tâm lý học thì nước mắt được tạo
ra bởi xúc cảm hạnh phúc, cảm giác đột ngột, hay
đau
buồn... Ngôn
ngữ khác nhau là rào cản cho sự truyền đạt. Ngược
lại nước mắt là mối giao cảm dễ biết dễ nhận thấy
để thấu cảm. Nước mắt nơi người lớn khóc chính là
mối dây tình cảm đối với người chung quanh. Vậy đàn
ông, đàn bà không có gì phải đáng xấu hổ.
Ở
các loài động vật có khóc hay không? Khóc về sinh lý?
Đề tài nầy các nhà nghiên cứu lâu nay vẫn còn đang
tranh luận... Tuy nhiên dòng họ loài voi, có khóc khi có
một con trong bầy bị chết. Loài hắc tinh tinh
(chimpanzees) cũng khóc. Lịch sử ghi lai khi Hưng Đạo Vương
dẫn quân đi tới bờ sông Hóa Giang thì con voi của ngài
đang cỡi không may bị sa lầy, quân sĩ và dân trong làng
tìm mọi cách kéo con voi lên nhưng bất thành vì nước
thủy triều dâng lên nhanh. Con voi nhìn ngài Hưng Đạo
nước mắt chảy ra. Hưng Đạo Vương sợ quân sĩ mềm
lòng, Ngài trỏ tay xuống bến sông mà thề rằng “Chuyến
nầy không phá tan giặc Nguyên thề sẽ không trở về bến
sông nầy nữa”. Đó là lời thề sông Hóa Giang vẫn
còn vang vọng suốt trong chiều dài lịch sử chống ngoại
xâm và các thế hệ tiếp nối. Tiếng khóc của con voi đã
biến đau buồn thành khí thế hùng dũng cho ba quân tướng
sĩ và đã đem lại chiến thắng.
Tiếng
khóc sụt sùi của ông Nguyễn Trãi khi đưa tiễn cha bị
giặc Tàu bắc đưa về nước nơi quan ải. Ông Nguyễn
Phi Khanh quay đầu lại nói với con trai rằng: “Con lẽo
đẽo đi theo cha khóc lóc mà có ích gì? Con hãy trở về
mà lo trả thù cha và rửa hận cho nước”. Bậc trung
thần, bậc trung can nghĩa khí đã biết dùng tiếng khóc
như một thứ vũ khí có lợi cho quê hương đất nước,
họ không để cho tiếng khóc làm yếu lòng dẫn tới suy
sụp tinh thần.
Danh
họa Leonardo da Vinci (1452 – 1519), trong một bức họa, ông
vẽ một bức tranh cho thấy ống dẫn lệ xuất phát từ
trái tim. Vua David trong cơn đau buồn đã nói: “Ta mệt
mỏi với lời than vãn suốt đêm. Ta làm ướt sũng chiếc
giường bằng nước mắt của ta; ta đổ nước mắt trên
mệm ghế. (Thánh vịnh 56: 8). Văn sĩ Voltaire (Pháp) ở thế
kỷ thứ mười tám viết trong cuốn sách Từ Điển Triết
Học: “Nước mắt là ngôn ngữ thầm lặng của đau
buồn”. Và Saint Exupéry viết trong cuốn Le Petit Prince
(Hoàng Tử Bé) “Vương quốc của nước mắt là nơi bí
ẩn như thế đấy”.
Chúa
Gie-su, cũng khóc. Trong Kinh Thánh Tân Ước, ghi: “Khi ngài
đi vào thành Gie-ru-sa-lem, ngài thấy thành thì ngài khóc
về nó, vì biết rồi đây, thành sẽ không còn nữa, bởi
quân thù sẽ phá hủy nó” Và “Khi chúa Gie-su gần đến
thành, thấy thì khóc về thành”. (Lu ca, chương 19, câu
41.).
Nước
mắt là tình yêu, nước mắt là một dấu hiệu của tình
yêu. Và nước mắt chính là món qùa quý giá mà Thương
Đế đã trao tặng cho con người kể cả súc vật.
Tuy
nhiên, có nhiều “kiểu” khóc khác nhau - Có người khóc
lóc kêu gào rất là thảm thiết! Có người khóc âm thầm
lặng lẻ trong đêm khuya thanh vắng! Có người khóc bằng
cách nuốt nước mắt vô lòng để rồi u uẩn sinh ra bịnh
mà chết! Có người quay mặt đi chỗ khác mà khóc! Có
người khóc vì gia cảnh quá túng quẫn! Có người xem
phim, truyện cũng khóc! Có người vui mừng quá cũng khóc!
Tiếng khóc nào cũng đem tới sự buồn bã, thê lương ảm
đạm - nhứt là khóc cho người thân, bạn hữu lúc qua
đời...! Trong một đời người, ít nhất ai cũng phải
trải qua một vài lần khóc than như vậy mà không có cách
chi tránh khỏi.
Người
ta khuyên rằng: buồn thì cứ việc khóc, khóc cho vơi đi
bớt đau đớn tinh thần lẫn thể xác, sau khi khóc thì sẽ
dần dần rơi vào trạng thái buồn ngủ… Người ta cũng
chê rằng đàn ông không được khóc, không nên khóc -
khóc là yếu đuối là giống đàn bà con gái chưa đáng
mặt làm trai, chưa đáng mặt anh hùng. Thử hỏi một khi
tận mắt chứng kiến sự tang thương mất mát thì xúc
cảm của nam nữ có khác gì nhau đâu? Tại sao lại úy kỵ
tiếng khóc đối với đàn ông? Dù không khóc thành tiếng
thì họ cũng rưng rưng ngấn lệ (quay
đi chỗ khác mà khóc, khóc thầm)!
Trong “Tam Quốc Chí”. Lưu Bị là đấng anh hùng một
cõi cũng rơi lệ như thường kia mà! Bởi vậy mới có
thành ngữ “khóc như lưu bị”.
Thi
sĩ
Trần Tử Ngang (661-702) Thời Đường cũng khóc trong bài:
Đăng
U Châu Đài Ca
Tiền
bất kiến cổ nhân
Hậu
bất kiến lai giả
Niệm
thiên địa chi du du
Độc
sảng nhiên nhi thế hạ.
Trước
thì chẳng thấy người xưa
Sau
thì người mới vẫn chưa thấy mà
Ngẫm
trời đất rộng bao la
Một
ngồi thương cảm lệ sa hai hàng.
Trang
Y Hạ, (Tạm dịch).
Hãy
Nghe Thúy Kiều Khóc:
Trong
truyện Kiều, tiếng khóc cũng rất đa dạng phong phú theo
nhiệp điệu, theo tầng suất của các diễn biến xảy
ra. Anh chàng Kim Trọng khóc thê lương, khóc thảm thiết,
khóc ai oán bởi mất đi một người đẹp, một hồng
nhan tri kỷ đã thề non hẹn biển là nàng Thúy Kiều. Anh
chàng Thúc Sinh tài hoa, thích trăng hoa cũng khóc sượt
mướt; khóc một cách quá tủi hổ khi bị vợ cả là
Hoạn Thư bắt người yêu Thúy Kiều của mình làm Hoa Nô
mà không nghĩ ra cách gì để cứu nàng, cứu mình.
Đọc
truyện Kiều chúng ta tiếng khóc, nhiều gấp hai lần
tiếng cười, ngẫm nghĩ ra cũng đúng thôi. Thúy Kiều
khóc vì phải bán mình chuộc cha, tiếng khóc còn lây sang
cho những người chung quanh, tới - Mười Một Người
. (Tiếng
khóc của
Thúy Kiều nếu
suy nghĩ để hiểu
rộng ra thì
đó chính là
tiếng khóc than cho một xã hội suy tàn của chế độ nhà
Minh lúc bấy giờ).
Thời
phong kiến thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, bị
coi thường thậm chí xem như một món hàng trao đổi… Đó
cũng là tiếng khóc; tiếng khóc được nhân cách hóa “bốn
dây như thở như than”.
Và Nguyễn Du với một câu tám chữ mà chở tiếng khóc
tới hai lần. “tỉnh
ra lại khóc, khóc rồi lại mê”.
…….
Kiều
ơi, em khổ một đời
Họa
vô đơn chí lầm người bán tơ
Ba
trăm năm ngỡ phai mờ
Hồn
em lảng vảng dật dờ làm chi.
Trích
thơ
(Trang
Y Hạ).
Trong
truyện Kiều, các nhân vật góp cho tiếng khóc, gồm có:
“Người Khách Viễn Phương”, người nầy là nhân vật
thoạt tới, thoạt đi, nhưng để lại tiếng khóc đa tình
lãng mạn và cũng là tiếng khóc đầu tiên. Một [1]
lần.
Tuy rằng chưa gặp mặt “người trong mộng” mà người
khách viễn phương - không biết ở phương trời nào lại
xưng hô với Đạm Tiên là… “mình”! Xưng mình đồng
nghĩa như tình vợ chồng. Đồng thời bỏ tiền mua quan
tài lo chôn cất nàng Đạm Tiên chu đáo và khóc than thảm
thiết.
(Thuyền
tình vừa ghé đến nơi. Thì đà trâm gãy bình rơi bao
giờ)!
“Nhất phiến tình chu dĩ đáo ngạn, bình trầm rơi chiết
dĩ đa thời”.
Tiếng
khóc
tiếp theo: Cây Đàn chỉ khóc một [1]
lần.
Vương bà khóc sáu [6]
lần.
Vương ông khóc bảy [7]
lần.
Thúy Vân và Vương Quan mỗi người khóc bốn [4]
lần.
Kim Trọng khóc tới chín [9]
lần
. Thúc Sinh khóc mười [10]
lần.
Ai cho rằng đàn ông không khóc vì tình? Từ cổ chí kim
có anh hùng nào thoát qua khỏi ải mỹ nhân đâu?!
Nàng
Thúy Kiều khóc tới hai mươi tám [28]
lần.
Đoạn
trường một cuộc phân ly
Đời
em đã thấm sử thi Tiên Điền
Cái
vòng thế sự đảo điên
Nợ
tình chưa dứt lụy phiền lại mang.
Trích
thơ (Trang
Y Hạ).
Trong
mười lăm năm [15]
lưu
lạc phương người… Thúy Kiều có: Hai mươi tám [28]
lần
khóc; khóc như vậy kể ra cũng còn quá ít, biết đâu
trong những đêm khuya trằn trọc không ngủ được…,
Thúy Kiều phần nhớ gia đình, phần nhớ Kim Trọng, phần
lo nỗi mình rồi để cho những giọt nước mắt tuôn rơi
thấm gối mà thi sĩ Tiên Điền không biết, nên không thể
viết ra…! Người xưa nói: “Bất
kinh nhất phiên hàn triệt cốt. Chẩm đắc mai hoa phác tỵ
hương”
(Không
qua một phen lạnh thấu xương. Sao được hoa mai tỏa ngát
hương).
Thúy
Kiều khóc nhiều thì cũng phải thôi. Nàng thương cho đời
nàng bị bán đứt, bán đoạn cho người ta để lấy tiền
chuộc cha, số tiền đó cha nàng và gia đình nàng đâu có
được hưởng đồng nào mà lọt hết vô túi của bọn
quan tham. Trong mười lăm năm lưu lạc bị bọn tú bà, bọn
du côn khai thác tấm thân nàng để lấy lời, nàng đâu
có được trả thêm đồng nào để dành dụm cho bản
thân, nàng muốn gửi chút tiền về cho mẹ cũng đành
chịu. Trong mười lăm năm dài đăng đẳng Thúy Kiều làm
ra cho bọn tú bà biết bao nhiêu là tiền, họ khai thác
tấm thân nàng cạn kiệt, và có thể nói gấp hàng trăm,
hàng ngàn lần số tiền nàng bị bán để chuộc cha. Do
đó nàng Thúy Kiều đành lấy nước mắt để an ủi thân
phận cá chậu chim lồng.
Thúy
Kiều bán mình nếu tính theo tuổi, lúc đó nàng chỉ mới
(mười
lăm tuổi). Tính theo Kinh Lễ “Nữ tử thập hựu ngũ
niên nhị kê”.
Trong
Truyện Kiều có cả thảy bảy mươi ba [73]
lần khóc
ở trong năm mươi mốt [51]
câu
thơ. [Có
một [1]
câu
thơ là cây đờn khóc. Vậy tổng cộng trong truyện Kiều,
có - năm mươi hai [52]
câu
thơ khóc. Sở dĩ khóc nhiều như vậy vì vài ba câu có
nhiều người cùng nhau khóc.
Năm
mươi hai [52] câu thơ Có tiếng khóc như sau:
Một
người khách phương xa vốn đa tình, đa cảm nhưng lại
có một tâm lòng bao dung rộng rãi… Người khách phương
xa ấy cảm thương nàng Đạm Tiên một kỹ nữ tài sắc
mà chết yểu. Tiếc thay, bởi vô duyên số nên chàng
không được gặp mặt giai nhân. Người khách phương xa
đã cất tiếng khóc đầu tiên trong truyện Kiều. Một
cuộc gặp gỡ không thành đã gây sóng gió, mưa bão bằng
những giọt lệ thương đau.
Chúng
ta hãy nghe tiếng khóc:
1
- Khóc
than khôn xiết sự tình,
Khéo
vô duyên bấy là mình với ta.
Nàng
Thúy Kiều, trong một buổi chiều đi dự lễ thanh minh
cùng với hai em, Thúy Vân và Vương Quan, nàng nhìn thấy
ngôi mộ hoang tàn, quạnh hiu, đề tên “Hiệu Thư Lưu
Đạm Tiên Chi Mộ”, ngôi mộ không hương khói, cỏ mọc
um tùm mà chạnh lòng thương cảm…! Vương Quan kể rõ sự
tình rằng: ngôi mộ hoang đó là của nàng kỹ nữ Đạm
Tiên tài sắc xứ kinh đô hoa lệ khi xưa. Bởi vắn số
mà chết... Được nghe nguyên do như vậy nên Thúy Kiều
động lòng trắc ẩn khi nghĩ tới phận mình cũng là phận
nữ nhi chẳng biết vận mệnh sau nầy rồi sẽ ra sao…?
Vốn đa sầu, đa cảm…! Nàng khóc than trước mộ Đạm
Tiên:
Lòng
đâu sẵn món thương tâm,
2
- Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Thúy
Kiều thắp hương lâm râm khấn nguyện trước mộ Đạm
Tiên hồi lâu… Mặt mày nàng ủ dột, nước mắt tuôn
rơi lả chả… ! Nàng còn rút cây trâm đề thơ “Vạch
da cây, vịnh bốn câu ba vần”
.
Lại
càng ủ-dột nét hoa,
3
- Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
Thơ
vịnh như sau:
Phiên
Âm:
Sắc
hương hà xứ dã,
Bằng
điếu thống tâm tai.
Minh
nguyệt lãnh loan bi,
Ám
trần phong kính đài.
Ngọc
tuy hoàng thổ oánh,
Danh
vị bạch tuyết mai.
Thượng
hữu như miên tửu
Vô
nhân điện nhất bôi.
DỊCH:
(Hương
sắc còn đâu nữa,
Viếng
mộ mà chạnh lòng.
Chăn
uyên đêm nguyệt lạnh,
Lớp
bụi phủ gương trong.
Ngọc
dẫu bùn đen lấp,
Danh
chưa tuyết trắng phong.
Ví
còn ao rượu đó,
Ai
tế một tuần không).
Nàng
Kiều còn đề vài ba bài thơ nữa… Và nàng lại khóc
như mưa…! Em nàng, Thúy Vân thấy chị mình bi lụy mà
bất bình:
Vân
rằng: Chị cũng nực cười,
4
- Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Người
mà có: tài hoa, đức độ, có lòng thương người, cứu
người thì cũng nên khóc và tưởng nhớ tới họ. Theo
quan niệm: “hồng nhan đa truân - hồng nhan bạc
mệnh”. Thúy Kiều liên tưởng tới số phận của mình
sau nầy mà bi lụy, lo lắng: “Nỗi
niềm tưởng đến mà đau. Thấy người nằm đó biết
sau thế nào”.
Bởi vì lý do đó, mà Thúy Kiều không nghe lời em gái
Thúy Vân… Nghĩa trang về chiều âm u rờn rợn, âm khí
nặng nề, đường về quê thì còn xa lơ xa lắc… Thấy
vậy, Vương Quan mới nói: “Cớ sao chị lại vận vào
chuyện không hay cho mình”. Vương Quan cũng không thuyết
phục được người chị. Bất chợt một cơn gió lạnh
thổi ngang qua mang theo mùi
hương
thơm ngát,
cây nghiêng, lá rụng bay
phất phơ trong trời chiều…
Ba chị em nhìn nhau mà không biết chuyện gì, do đâu mà
có hương thơm tràn tới giữa buổi chiều tà? Thúy Kiều
nghĩ rằng: hồn Đạm Tiên đã linh ứng để “Đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”
với
mình. Và, nàng nghĩ tới ông thầy tướng số lúc xưa
(đoán
về số phận) đã
tác động vào lòng nàng câu “hồng nhan bạc mệnh”.
“Nhớ
từ năm hãy thơ ngây, Có người tướng sĩ đoán ngay một
lời: Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh, một
đời tài hoa”!
Thúy
Kiều cảm nhận ra rằng Đạm Tiên đã hiển linh… Nàng
xưng hô với Đạm Tiên như tình chị em, dù là cách biệt
âm dương.
Do
sự ám ảnh từ lời tiên đoán của thầy tướng số,
đồng thời thuở bé nàng cũng sáng tác “Bản Đờn Bạc
Mệnh”. Khúc bạc mệnh đã ăn sâu vô trong tiềm thức
và đeo đẳng Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm phiêu
bạt giang hồ chịu không biết bao nhiêu khổ lụy cho thân
gái dặm trường.
Lần
thứ nhất: Bản đờn bạc mệnh, Thúy Kiều đã đờn
cho Kim Trọng nghe và hai người đã thề non, hẹn biển
cùng nhau đi tới hạnh phúc:
“Khi
tựa gối, khi cúi đầu, Khi vò chín khúc khi chau đôi
mày”! Và
“Rằng
hay thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng, nuốt cay thế
nào”.
Lần
thứ nhì: Bản đờn bạc mệnh - trong phận người hầu
“Hoa Nô”…! Thúy Kiều đờn phục vụ cho ông bà chủ
là (Thúc
Sinh - Hoạn Thư).
Tiếng đờn thê lương, ảm đạm, éo le khiến cho người
nghe là Thúc Sinh cũng như Kiều tan nát cả tâm lòng
5
-
Bốn dây như khóc, như than.
Khiến
người trong cuộc cũng tan nát lòng.
Cũng
trong một tiếng tơ đồng,
6
- Người
ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
7
- Giọt châu
lã chã khôn cầm,
8
-
Cúi đầu,
nàng những gạt thầm giọt sương.
Lần
thứ ba. Thúy Kiều lại đờn “Khúc Bạc Mệnh” cho Hồ
Tôn Hiến nghe trong bữa tiệc rượu khao thưởng chiến
công sau khi phục binh giết chết Từ Hải, chồng của
nàng. Hồ Tôn Hiến khi nghe tiếng đờn bi ai não nuột của
người góa phụ cũng không cầm được nước mắt, dù
đang là trong bữa tiệc khao thưởng chiến công: “Một
cung gió tủi, mưa sầu, Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón
tay. Ve ngâm, vượn hót, nào tày.”.
9
-
Lọt
tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Xét
về lý, thì có thể nói: Thúy Kiều đã phạm vào tội
“giết chồng”. Bởi Hồ Tôn Hiến đã “mua chuộc”
Thúy Kiều, để Thúy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng triều
đình (Triều
đình phong kiến lúc bấy giờ vẫn xem Từ Hải là “giặc”
nổi loạn),
đã nhiều lần muốn đem quân chinh phạt, nhưng lần nào
cũng không thành. Thúy Kiều đã mắc mưu. Từ Hải là
tướng nên trong lòng cũng biết - về hàng là tương lai
mờ mịt, nhưng Từ Hải cậy sức mình… “Bó thân về
với Triều đình, Hàng thần lơ láo, phận mình ra chi, Sao
bằng một cõi biên thùy, Sức nầy ai dễ làm gì được
ai”. Tuy nói Thúy Kiều (giết
chồng). Trong
chính sử Triều Minh không nhắc gì tới Thúy Kiều.
(Từ
Vị, vị quan tham mưu cho Hồ Tông Hiến. Từ Vị dâng kế
bắt Từ Hải bằng cách chiêu dụ Từ Hải ra hàng rồi
giết thì có nhắc tới Thúy Kiều).
Chờ
người tâm chở từ bi.
Chờ
người mong mỏi ngồi lỳ quán xiêu.
Đạm
Tiên trắng bệt sương chiều,
Thúy
Kiều có cả bao điều như không.
Trích
thơ (Trang
Y Hạ)
Xét
về tình, thì Thúy Kiều chẳng có lỗi lầm gì. Từ Hải
đã chấm dứt chuỗi ngày dài phong trần khổ ải của
nàng. Từ Hải đã cho nàng sự vinh quang của một “mệnh
phụ phu nhân”, lại còn giúp nàng “trả thù” bọn
buôn người đã hành hạ nàng. Nàng mong mỏi ngày trở
quê nhà bằng danh chánh ngôn thuận làm rạng rỡ gia đình.
Nàng mong mỏi chấm dứt những tháng năm lang bạc nơi xứ
người cơ cực đầy tủi nhục…! Nguyện vọng tha thiết
quay về cố quận, bất cứ ai cũng mong ước chứ không
riêng Thúy Kiều.
Thúy
Kiều cùng các em đi dự lễ Thanh Minh xong, trở về nhà
thì đêm đã khuya. Đêm đó Thúy Kiều nằm mộng thấy
hồn ma Đạm Tiên [coi như gặp lần thứ nhì]. Đạm Tiên
nói cho Thúy Kiều rằng: - “Chị đã đọc bài thơ rất
hay của em và đã báo cho bà chủ “Hội Đoạn Trường”
ở cõi âm và đã ghi tên em vô “Sổ Đoạn Trường”.
Đạm Tiên còn ra cho Thúy Kiều mười đề thơ mới, để
Kiều làm. Và ngay trong đêm Kiều đã làm xong mười bài
thơ trong giấc mộng… Tỉnh ra Kiều còn ngơ ngác… “Đoạn
trường sổ, đoạn trường thơ” đã buộc vào đời
nàng với mười lăm năm tha hương. May mà còn giữ được
mạng sống để về đoàn tụ cùng gia đình.
Thử
đọc bài thơ thứ nhất trong mười bài của Thúy Kiều:
“Tích
Đa Tài
Uyên
tiên bất nhẫn tài
Hợp
hoan niên niên vị nhân phổ
Tự
thân chỉ bả tương tư oai
Tương
tư oai, tích đa tài.”
Dịch:
(Tiếc
Cho Tài:
Tờ
oanh chẳng đoái hoài
Hợp
hoan ngày tháng bỏ cho ai?
Riêng
mối tương tư vẫn kéo dài
Vẫn
kéo dài, tiếc cho tài.)
[...]
Thúy
Kiều mộng thấy Đạm Tiên, mà trong những đêm kế tiếp
trong lòng bần thần lo lắng, thở dài, không ngủ được:
Một
mình lưỡng lự canh chầy
Đường
xa nghĩ nỗi sau nầy mà kinh.
Nỗi
riêng lớp lớp sóng giồi
10
-
Nghĩ đòi cơn,
lại sụt sùi đòi cơn.
Đêm
nằm, Thúy Kiều suy nghĩ mông lung về cơn mộng mị với
nàng Đạm Tiên, rồi lại lo cho số phận của mình sau
nầy mà trong lòng sợ sệt, tinh thần rối loạn… Bất
chợt Thúy Kiều tủi thân khóc rấm rức giữa đêm khuya
thanh vắng làm cho Vương Bà thức giấc, hỏi duyên cớ gì
mà con ngủ không được:
“Cớ
sao trằn trọc canh khuya,
11
-
Màu hoa lê,
hãy dầm dề giọt mưa?”
Bấy
giờ Thúy Kiều mới kể sự việc - nằm mộng thấy Đạm
Tiên “Cứ
trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau!”.
Vương
Bà ai ủi con gái - đừng nên tin vào những chuyện mộng
mị, tướng số mà khổ thân ra. Thúy Kiều an tâm, nhưng
vẫn khóc:
Vâng
lời khuyên giải thấp cao
12
- Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch tương.
Thúy
kiều bị ám ảnh bởi lời “tiên đoán của ông thầy
tướng số”, “Hồn ma Đạm Tiên”, “Bản đờn bạc
mệnh” do chính nàng sáng tác. Ba điều đó như một thứ
độc dược thấm từ từ và xô đẩy nàng vô trong vòng
xoáy của tự ty, của mặc cảm, của số phận... Nàng đã
tự mình vận buộc điều bạc mệnh cho mình, nhưng không
ngờ các điều ấy đã ứng nghiệm làm khổ cho gia đình
nàng, cho nàng và cho người yêu nàng là Kim Trọng. Ngoài
ra còn có Thúc Sinh, Hồ Tôn Hiến cũng rơi nước mắt vì
nàng. Và, cái chết uất ức của chồng nàng, Từ Hải!
Một
bữa ông bà Vương Viên Ngoại đi vắng. Thúy Kiều đi
sang nhà Kim Trọng… Hai người hàn huyên tâm sự cho tới
khuya mới về nhà. Người gia nhân của Kim Trong gõ cửa
cho hay rằng: Cha Kim Trọng báo tin phải về Liêu Dương
gấp để hộ tang người chú…! Chàng Kim hốt hoảng vội
vàng chạy sang nhà Thúy Kiều cho hay tin dữ… ! Hai người
chia tay trong bịn rịn…!
Ngại
ngùng một bước, một xa,
13
-
Một lời trân
trọng, châu sa mấy hàng.
Tên
bán tơ, vu oan giá họa cho Vương Ông, Vương bà và họ bị
quan nha bắt giam, bị tra khảo, đánh đập. Gia đình Thuý
Kiều lại không tiền để lo lót cho đám quan lại. Túng
thế, Thúy Kiều đành phải ngậm ngùi bán mình để lấy
tiền, đặng lo lót cứu cho cha mẹ ra khỏi nhà tù.
Liêu
Dương ngàn dặm đâu xa,
Lâm
Truy nỡ để bướm vờn hoa.
Trăng
tròn vành vạnh mây che khuất,
Thân
gái dặm trường xót cảnh nhà.
Trích
thơ (Trang Y Hạ).
Gia
đình Thúy Kiều gặp tai ươn. Mụ mối hay tin liền dẫn
anh chàng Mã Giám Sinh tới và cho Thúy Kiều biết rằng:
muốn cưới nàng về làm thiếp. Nhưng thực ra anh chàng
họ Mã mua Thúy Kiều về để bán vào “Thanh lâu” -
(Thanh Lâu là của gã họ Mã chung vốn với mụ tú bà).
Mụ tú bà quá lứa cùng với gã họ Mã sống chung kiểu
“gìa nhân nghãi, non vợ chồng”. Thúy Kiều nấp ở
trong phòng bước ra trình diện bọn họ. Nàng bước đi
như người mất hồn, khóc như mưa:
Nỗi
mình thêm tức nỗi nhà,
14
-
Thềm hoa một
bước, lệ hoa mấy hàng!
Vương
ông được quan nha thả ra, trong lòng ông quá mừng rỡ,
nào dè khi về tới nhà mới hay cớ sự: Thúy Kiều bán
mình cho người ta để nhận số tiền: (Bốn
trăm năm mươi lạng vàng)
và nhờ người họ Chung, cũng là một nha dịch nhưng còn
có chút lòng nhân lo lót xin lãnh nhận cho cha con được
về. Ông thương con gái vì mình mà chịu nhục thân. Ông
khóc lóc tới nỗi máu hòa nước mắt:
Thương
tình con trẻ, cha già,
15
-
Nhìn nàng, ông
những máu sa, ruột dầu.
Ông
vừa khóc lóc, vừa nhào vô tường với ý định đập
đầu cho chết:
Liều
mình, ông đã gieo đầu tường vôi.
16
– Theo lời càng chảy dòng châu.
Thương
cha già, Thúy Kiều gượng làm vui - khuyên can “Rằng cha
hãy bình tỉnh mà sống để gia đình khỏi tan nát. Con hy
sinh một mình con cũng là quá đủ rồi, Cha mẹ cứ xem
như con đã đứt dây nôi chết từ khi còn thơ ấu…”.
Vương ông nghe lời con, cả nhà ôm nhau mà khóc:
Phải
lời ông cũng dần dà êm tai,
17
- Nhìn nhau
giọt vắn, giọt dài ngổn ngang.
Vậy
là, chuyện gia đình Thúy Kiều đã xếp đặt xong xuôi
đâu đó, bấy giờ nàng mới nhớ tới Kim Trọng, người
tình đầu với bao hứa hẹn cho một tương lai tràn đầu
hạnh phúc. Vậy mà, không ngờ tai bay vạ gió - vừa chớm
nở lại sớm vội tàn, quả là oan khiên đối với nàng!
Nàng khóc sưng cả mắt cho tới suốt đêm. Nàng tự nhận
lỗi là đã phụ lòng Kim Trọng và than thở cho số phận
sao quá éo le!
Một
mình nàng, ngọn đèn khuya,
18
-
Áo dầm giọt
lệ, tóc se mái đầu.
Nỗi
riêng, riêng những bàn hoàn,
19
-
Dầu chong
trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn.
Tiếng
khóc giữa đêm khuya thanh vắng làm cho Thúy Vân tỉnh
giấc, và hỏi nguyên do: Thúy Kiều ngập ngừng rồi cũng
phải thổ lộ cùng em gái chuyện tình cảm giữa nàng với
Kim Trọng… Nhưng nay vì gia biến nên đành phải phụ
lòng chàng. Nàng nhờ em gái thay nàng trả nghĩa Kim Trọng,
đồng thời trao kỷ vật tình yêu của mình với chàng
Kim cho em gái giữ... Nàng vật mình khóc than thảm thiết
trước mặt em gái.
20 -
“Ôi
Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi
thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Thúy
Kiều vì quá bi thương mà ngất xỉu. Gia đình xúm lại
lo cấp cứu. Tỉnh giấc nàng lại khóc nức nở…! Thúy
Vân kể lại cho gia đình hay chuyện tình cảm của chị
mình và Kim Trọng cho cả nhà nghe. Vương ông công nhận
vì cha mà con lỗi lời thề và hứa sẽ lo tròn việc trả
nghĩa chàng Kim Trọng như lời Thúy Kiều dặn dò. “Xuân,
huyên chợt tỉnh giấc nồng, Một nhà tấp nập, kẻ
trong người ngoài. Kẻ thang, người thuốc, bời bời,”.
21
- Mới
giầu cơn vựng, chưa phai giọt hồng.
Hỏi:
“Sao ra sự lạ lùng”?
22
-
Kiều càng nức
nở, mở không ra lời.
Ngày
hôm sau Mã Giám Sinh đưa kiệu hoa tới đón Thúy Kiều.
Giây phút chia tay bất đắc dĩ nên tất cả mọi người
đều khóc than, bịn rịn…!
Đau
lòng kẻ ở người đi,
23
- Lệ rơi
thấm áo, tơ chia rủ tằm.
Mã
Giám Sinh đón Thúy Kiều về nhà trọ. Đêm đó nàng thất
thân với chàng họ mã. Nàng lại khóc cho bản thân nhơ
nhuốc của mình.
24
-
Giọt
riêng tầm tã, mưa tuôn
Phần
căm nỗi khách, phần nhơ nỗi mình .
Ngày
hôm sau, nơi nhà trọ Vương ông làm bữa tiệc tiễn chân
Mã Giám Sinh và Thúy Kiều lên đường... Thúy Kiều kể
rõ hết sự thất vọng, nhục nhã ê chề với mẹ chuyện
nàng bị cưỡng bức trong đêm. Hai mẹ con cùng ôm nhau mà
khóc:
25
-
Nhìn
nhau lã chã giọt hồng,
Rì
tai, nàng với giãi lòng trước sau.
Thúy
Kiều cùng họ Mã lên xe trực chỉ về Lâm Truy. Nước
mắt ngập tràn!
26
-
Trông
vời, gạt lệ, phân tay,
Góc
trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.
Mụ
tú bà quá lứa, vì biết Thúy Kiều đã thất thân với
thằng chồng hờ họ Mã, đồng thời cũng tiếc số tiền
đã bỏ ra nên mụ đánh đập Thúy Kiều. Thúy Kiều quá
uất ức bèn rút dao giấu trong người ra tự tử…! Trong
lúc bị ngất đi, hồn ma Đạm Tiên, [đây
lần thứ ba] báo cho Thúy Kiều hay rằng: nghiệp đoạn
trường còn dài, không thể chết. Sông Tiền Đường sẽ
là nơi chúng ta gặp nhau. Sau khi tỉnh lại Thúy Kiều được
mụ tú bà cho ở lầu Ngưng Bích. Mụ tú bà thuê tên ma
cô Sở Khanh đi dụ dỗ Thúy Kiều trốn đi chung với hắn.
Bị bắt lại và chịu trận đòn thừa sống, thiếu chết.
Thúy Kiều đành chấp nhận bước chân vào con đường
làm gái làng chơi bất đắc dĩ.
27
-
Buồng
riêng, riêng những sụt sui:
“Nghĩ
thân mà lại ngậm ngùi cho thân”.
Thúy
Kiều hằng ngày ngụ ở nơi thanh lâu. Nàng gặp một
người khách làng chơi là Thúc Sinh, ở Vô Tích. Anh chàng
nầy theo người cha tới Lâm Truy buôn bán. Nghe danh nàng
Kiều, tìm cách tới làm quen. Là một khách làng chơi, rồi
từ từ say đắm Thúy Kiều. Thúc Sinh lừa mụ tú chuộc
được Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ
lẻ. Thúc Sinh giấu nhẹm cha mình và vợ cả là Hoạn
Thư.
Thúc
ông biết tất cả chuyện tình riêng giữa hai người,
Thúc ông bắt Thúc Sinh bỏ Thúy Kiều. Thúc Sinh không vâng
lời, Thúc ông đi báo quan. Quan huyện đưa ra hai hướng
cho Thúy Kiều chọn. Một là chịu đánh đòn và gông một
tháng. Hai là trở về lại thanh lâu. Thúy Kiều chịu đánh
đòn: “Phận đành chi dám kêu oan, Đào hoen, quẹn má
liễu tan tác mày.”. Thúc Sinh nhìn cảnh Thúy Kiều chịu
đòn roi, cũng khóc theo:
28
-
Khóc
rằng: Oan khốc vì ta,
“Có
nghe lời trước, chớ đà lụy sau”.
Quan
Huyện thấy vậy bèn hỏi Thúc Sinh: Thúc Sinh trả lời:
29
-
Sụt
sùi, chàng mới thưa ngay,
Đầu
đuôi kể lại sự ngày cầu thân.
Thúc
sinh thừa nhận là sẽ đùm bọc Thúy Kiều, Thúy Kiều
tin tưởng nên mới ra cớ sự như vậy… Hơn nữa, nàng
cũng là con nhà danh giá và có học. Nghe vậy, Quan huyện
ra đầu đề “cái gông”, rồi bảo Thúy Kiều vịnh.
Thúy Kiều vịnh xong đưa quan huyện xem. Bài vịnh:
Phiên
Âm
“Hoàng-Oanh-Nhi
Khúc
Ngã
dữ mộc vi cừu
Hỉ
khuyên sáo trung đắc xuất đầu
Cảm
phương viên dà cái toàn thân xũ
Hà
tằng mi vũ tu
Tọa
tỉnh khả ưu
Khả
linh lệ ngấn lệ lưu bất đáo chẩn hòa tụ [trù]
Tạ
hiền hầu
Giao
nhân cường hang, tái bất hứa phóng ca hầu.”
Dịch:
(Ta
với cây là thù
Trong
khuôn khổ mừng được ló đầu
Vuông
tròn che toàn thân cảm thấy xấu
Tai
mắt thẹn gì đâu
Đáy
giếng âu sầu
Đáng
thương áo xiêm chẳng thấm, giọt lệ cứ tuôn mau
Tạ
hiền hầu
Cổ
bị cứng, giọng hát nghẹn trong yết hầu.).
Quan
huyện khen thơ nàng hay và ra lệnh ngưng đánh. Đồng thời
khuyên Thúc Ông nên nhận Thúy Kiều làm con dâu – cho hai
người cưới nhau.
Vợ
chính của Thúc Sinh là con gái quan Thượng Thư bộ lại,
tên là Hoạn Thư. Hoạn thư hay tin chồng mình cưới Thúy
Kiều làm vợ lẻ mà không bàn bạc với nàng. Thúc Sinh
trở về thăm nhà lại không dám trình bày, nếu Thúc Sinh
nói ra cho vợ hay thì nàng cũng đâu có hẹp hòi gì. Làm
trai có năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Hoạn Thư
là con nhà trâm anh, nên nàng không thể ghen tuôn như các
phụ nữ dân dã tầm thường. Nàng nghĩ cách bắt cóc
Thúy Kiều rồi đốt nhà hô hoán là Thúy Kiều đã bị
chết cháy. Thúc Ông mắc mưu Hoạn Thư, tưởng Thúy Kiều
đã chết và làm ma chay…!
30
-
Thúc
ông sui sụt, ngắn dài,
Nghĩ
con vắng vẻ, thương người nết na.
Thúc
sinh về nhà, biết chuyện cũng tin nàng Kiều đã chết,
nên khóc lóc:
31
-
Gieo
mình vật vã khóc than:
“Con
người thế ấy, thác oan thế nầy!”
Hoạn
Thư sau khi bắt cóc Thúy Kiều về nhà, nàng đánh Thúy
Kiều một trận tơi tả… Và sau đó bắt làm con ở, với
cái tên Hoa Nô. Số Thúy Kiều còn phước nên được bà
quản gia thương tình chăm sóc… Nàng khóc thương cho số
phận mình:
32
- Nàng
càng giọt ngọc như chan,
Nỗi
lòng luống những bàn hoàn niềm tây.
Từ
Lâm Truy, Thúc Sinh về thăm nhà vợ cả ở Vô Tích. Kịch
bản đánh ghen vô tiền khoáng hậu, do nàng dàn dựng đã
thành công… Trong bữa liên hoan mừng Thúc Sinh về thăm
nhà. Hoạn Thư hành hạ Thúc Sinh và Hoa Nô Thúy Kiều đủ
các thứ. Thúc Sinh quá bạc nhược, chỉ biết khóc và
uống rượu:
Sợ
quen dám hở ra lời,
33
-
Khôn ngăn giọt
ngọc, sụt sùi nhỏ sa.
Sinh
càng như dai, như ngây,
34
-
Giọt dài,
giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
Hoạn
Thư trả thù hai người cho tới khuya, rồi cùng chồng trở
về phòng mình. Hoa Nô Thúy Kiều mới được phép về nơi
ở riêng. Nàng ngồi một mình, mặc cho dòng nước mắt
tuôn như suối:
Một
mình âm ỷ đêm chầy,
35
- Đĩa dầu
vơi, nước mắt đầy, năm canh.
Hoạn
Thư sau màn đánh ghen độc đáo, giờ cũng đã vơi đi nỗi
tức giận, hơn nữa nàng cũng thầm phục Thúy Kiều có
nhan sắc không thua gì nàng và cũng có học thức như
nàng. Theo nguyện vọng của Hoa Nô, nàng chấp thuận cho
Thúy Kiều đi tu với pháp danh Trạc Tuyền, tại Quan Âm
Các ở phía vườn sau của nhà nàng. Nàng cho người canh
giữ, không cho hai người họ lén lút gặp nhau.
Thúy
Kiều không xin, không năn nỉ Hoạn Thư “tha tội”.
Nàng chỉ xin đi tu, xin đi tu là phương cách giữ danh dự
tốt nhứt trong lúc này. Nàng hiểu rất rõ nàng vì chữ
hiếu mà bán thân. Bán thân đồng nghĩa là thân nàng như
cành hoa giữa chợ đời mặc cho gió dập mưa vùi. Và hơn
nữa là Thúy Kiều hiểu rất rõ sổ “đoạn trường”
còn lâu nàng mới được rút tên ra.
Quan
phòng, then nhặt, lưới mau,
36
-
Nói lời trước
mặt, rơi châu vắng người.
Hoạn
Thư thử lòng hai người có còn quyến luyến nhau hay
không. Nàng giả đò đi về quê thăm mẹ. Bất ngờ nàng
quay lại thì bắt gặp Thúc Sinh và Trạc Tuyền hai người
đang khóc…! Thúc Sinh quá yếu đuối, hèn kém, không đáng
mặt đấng mày râu. Vậy mà, cũng giở thói trăng hoa làm
khổ cho Thúy Kiều.
37
-
Sụt
sùi giở nỗi đoạn tràng,
38
-
Giọt
châu tầm tã, đẫm tràng áo xanh.
Ni
cô Trạc Tuyền lo sợ khi biết Hoạn Thư còn ghen và tiếp
tục trả thù. Để giữ cho thân khỏi chết. Trạc Tuyển
bỏ chùa mang theo: chuông vàng, khánh bạc. Trạc Tuyền lại
bị bọn buôn người: Bạc hà, Bạc Hạnh, bắt đem bán
vào thanh lâu. Nàng gặp Từ Hải và lấy làm chồng. Đang
hạnh phúc thì nàng nghe theo lời chiêu dụ của Hồ Tôn
Hiến… Nàng khuyên Từ Hải quy hàng triều đình. Bị
phản bội, Từ Hải bị giết chết. Nàng sụp lạy trước
thi thể Từ Hải, ăn năn khóc lóc:
39
-
Khóc
rằng: “Trí dũng có thừa,
“Bởi
nghe lời thiếp, đến cơ hội nầy!”
Thúy
Kiều khóc lóc ai oán, đâm đầu đòi chết theo chồng. Từ
Hải uất ức chết đứng, từ từ ngã xuống: (Nguyễn
Du cho Từ Hải chết đứng, sử triều nhà Minh không ghi.
và
Từ Hải chết bằng cách cũng không rõ ràng).
40
-
Dòng
thu như xối cơn sầu,
Dứt
lời, nàng cũng gieo đầu một bên.
Trong
bữa tiệc khao quân chiến thắng. Hồ Tôn Hiến bảo nàng
tự chọn phần thưởng cho
nàng…
Nàng từ chối và nhận lỗi đã giết chồng. Nàng tuyên
xưng công trạng của chồng trước mặt kẻ thù: (Đoạn
nầy là hư cấu, chính sử triều Minh không ghi, không
nhắc tới Thúy Kiều).
41
-
Nàng
càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập
ngừng mới gởi thấp cao sự lòng.
Hồ
Tôn Hiến trông thấy góa phụ Thúy Kiều càng u sầu càng
đẹp, trong lúc có rượu…, Hồ Tôn Hiến bắt Thúy Kiều
gảy đờn cho mình nghe. Thúy Kiều ngậm đắng nuốt cay
gảy lại “khúc đờn bạc mệnh”. Đau đớn vì mất
chồng, nay lại bị kẻ giết chồng bắt dạo đờn mua
vui. Tiếng đờn ngân lên như: thở than, như uất nghẹn,
như trách hờn cao xanh… Hồ Tôn Hiến cũng phải rơi
châu. Hồ Tôn Hiến lại còn lả lơi với vợ kẻ thù,
xin cầu hôn Thúy Kiều. Thúy Kiều từ chối: “Giết
chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào mà lại đứng trong
cõi đời?”.
Tỉnh
rượu, nhớ lại chuyện mình làm không phải với Thúy
Kiều và sợ ảnh hướng tới đường công danh, bèn gã
ngay Thúy Kiều cho viên thổ quan. Khi thuyền đưa Thúy Kiều
rẽ vô sông Tiền Đường, nhớ lại lời Đạm Tiên, nên
nàng gieo mình xuống sông…!
42
-
Lọt
tai Hồ cũng nhăn mày, rơi châu.
Từ
Liêu Dương trở về, Kim Trọng hết sức bàng hoàng khi
thấy nơi ở của gia đình Thúy Kiều trở thành hoang phế…
Và tất cả dời đi chỗ khác. Chàng tìm và tìm ra chỗ ở
mới của Vương ông:
43
-
Khóc
than kể hết niềm tây:
“Chàng
ôi! Biết nỗi nước nầy cho chưa?”
Kim
Trọng ôm Vương ông mà than khóc thảm thiết:
Vật
mình vẫy gió, tuôn mưa,
44
-
Dầm dề giọt
ngọc, thẫn thờ hồn mai!
Đau
đoài đoạn, ngất đòi thôi,
45
- Tỉnh ra
lại khóc, khóc rồi lại mê.
Kim
Trọng xuất tiền ra sửa sang lại vườn nhà cũ, rồi mời
Vương ông sang cùng ở với nhau. Chàng còn thề sẽ dùng
mọi cách tìm kiếm Thúy Kiều cho bằng được, dù phải
từ chức làm quan tri huyện để đi kiếm người yêu.
Chưa có “khế ước” gì về hôn nhân chính thức chỉ
có mỗi lời thề non hẹn biển giữa trai và gái. Nghĩ ra
chàng Kim cũng có nghĩa, có tình.
46
-
Đinh
ninh mài lệ, chép thư,
Cắt
người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe.
Dù
Kim Trọng có cố gắng tìm kiếm, nhưng nàng Thúy Kiều
vẫn bặc vô âm tín. “Ruột tằm, ngày một héo hon,
Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve. Thẫn thờ, lúc
tỉnh lúc mê,”.
Ông bà Vương ông thấy cảnh Kim Trọng thương nhớ Thúy Kiều mà gầy mòn thân thể. Nhớ lời Thúy Kiều dặn, nên gấp rút làm lễ thành hôn cho Kim Trọng với Thúy Vân giữ đúng lời dặn của Thúy Kiều khi xưa.
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
48 - Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng.
Thúy Kiều được được hai ngư phủ của sư Giác Duyên cứu sống sau khi nhảy xuống sông Tiền Đường. Trong lúc nửa tỉnh, nửa mê, Thúy Kiều lại được hồn ma Đạm Tiên [lần thứ tư], về báo. rằng: Thúy Kiều đã được rút tên ra khỏi sổ đoạn trường. Kiếp hồng nhan bạc mệnh đã chấm dứt. Và yêu cầu phải trả lại mười bài thơ đoạn trường khi xưa “Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào!”
Thơ Thúy Kiều
Bài thơ nầy Thúy Kiều làm cho Đạm Tiên trước khi nàng trầm mình xuống sông Tiền Đường tự tử. Nàng tự vẫn vì Hồ Tông Hiến giết chết chồng nàng là Từ Hải - một phần lỗi cũng vì nàng khuyên chồng ra đầu thú. Nàng bị mắc mưu và còn bị Hồ Tông Hiến đem nàng gã cho thổ quan.
"Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau" [Câu Kiều 2626]
Thập ngũ niên tiền hữu ước
Kim triêu phương đáo Tiền Đường
Bách tuế quang âm hỏa thước
Nhất sinh thân tự hoàn lương
Trào tín thôi nhân khứ dã
Đẳng nhàn liễu khướt đoạn trường
Dịch thơ:
Mười lăm năm trước có hẹn
Tinh sương bước tới Tiền Đường
Trăm năm bóng câu qua cửa
Một đời mơ mộng hoàn lương
Sóng trào tiễn người đi khuất
An nhàn giủ sổ đoạn trường.
Kim Trọng vâng mệnh vua đi nhậm chức tại huyện Nam Bình, Phúc Kiến. Vương Quan nhận nhiệm vụ mới ở thành Phú Dương, Chiết Giang. Trước đó Từ Hải chết ở Hàng Châu. Nghe tin như vậy, Kim Trọng - Vương Quan, cùng gia đình đến Hàng Châu tìm Thúy Kiều. Người ta cho hay Thúy Kiều tự tử chết – cả nhà làm đám tang khóc lóc. May là sư Giác Duyên đi qua thấy bài vị của Thúy Kiều bèn nói:
49 - “Người còn, sao bỗng làm ma khóc người?”
Sư Giác Duyên dẫn tất cả về Thảo Am để gặp nàng Kiều. Gia đình đoàn tụ. Thúy kiều vừa mừng, vừa tủi: “Tưởng bây giờ, là bao giờ, Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao!”.
50 - Giọt châu thánh thót, quyẽn bào,
Mầng mầng, tủi tủi, xiết bao sự tình.
Gia đình sum họp sau mười lăm năm xa cách. Có biết bao nhiêu chuyện phải kể ra cho nhau nghe trong dòng nước mắt chảy đầm đìa…, vui mừng lẫn đau xót: “Huyên già dưới gối gieo mình,”.
51 - Khóc than, mình kể sự mình đầu đuôi:
52 – Bốn dây như khóc như than. [cây đờn khóc].
“Từ con lưu lạc quê người, Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp nầy ai lại còn cầm gặp đây!”.
[…]
Phôi pha chút phận hồng nhan
Mười lăm năm ấy, là vàng đấy thôi
Chiều nay xuống phố ta ngồi
Chờ em, em ở xa xôi có về.
Trích thơ (Trang Y Hạ)
Tiếng khóc của Thúy Kiều đã hết!
Đã hết khóc. Mừng cho Thúy Kiều được trở về nhà gặp lại tất cả người thân trong gia đình. Tiếc thay cho các “Nàng Kiều” hậu nhân, họ cũng cùng cảnh ngộ hay khác cảnh ngộ của Thúy Kiều, đã không được cái may mắn như vậy. Một trong số họ bỏ thây nơi xứ người, một trong số họ bị đày đọa tới cùng cực - thậm chí không còn biết tổ quốc là gì; tiếng nói mẹ đẻ cũng quên luôn!
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” .
Khóc Tố Như tức là khóc cho cuộc đời Thúy Kiều và các cô (Thúy Kiều) hậu nhân rơi vô hoàn cảnh “trong nhờ đục chịu” của “mười hai bến nước” đã vì hoàn cảnh nghèo đói hay vì nguyên do nào đó, phải cam phận đánh du với cuộc đời còn son trẻ để đi lấy chồng ngoại nhân lưu lạc nơi xứ người. Thiết nghĩ, đâu chỉ có (mười hai bến nước) mà là có hàng trăm bến nước chực chờ các nàng. Dù biết rằng thời nay có đầy đủ các phương tiện truyền thông như: Điện thoại, internet cũng như sách báo và các phương tiện đi lại dễ dàng hơn. Tuy nhiên, càng văn minh thì hiểm họa từ văn minh lại càng tinh vi mà con người sống trong xã hội văn minh đó không thể lường trước được chuyện gì sẽ xảy ra.
Một ngồi quán lạnh đầu cầu
Mỵ Ê, Nàng Nguyệt, Kiều [ở] đâu có về
Nơi đây xứ lạ làm quê
Nhớ người thiên cổ bốn bề quạnh hiu.
Trích thơ (Trang Y Hạ).
Trang Y Hạ
Lời Mưa Gió:
CHỮ ĐIỂN
Chữ ĐIỂN viết là “典”, thuộc dạng chữ Hội ý. Trong Giáp cốt văn chữ ĐIỂN được miêu tả bằng hình ảnh hai tay dâng sách rất kính cẩn, ngụ ý đây là văn kiện hay loại tài liệu gì đó rất quan trọng. Nghĩa gốc là của ĐIỂN 典 là sách vở, các nghĩa phái sinh là “chuẩn mực”, “phép tắc”, v.v…
ĐIỂN 典 là sách, sách ở đây là chỉ các kinh sách trọng yếu của người xưa để lại. Ban đầu, khi nói đến ĐIỂN 典 tức là chỉ “Tam phần ngũ điển 三 墳 五 典”. Tam phần là sách của Tam Hoàng như Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Ngũ điển là sách của Ngũ Đế tức Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Cao Tân, Đường, Ngu. Về sau ĐIỂN được dùng để chỉ chung cho các kinh sách thời xưa.
ĐIỂN 典 còn dùng để chỉ những câu chuyện cũ, sự cũ, như sách ghi các sự cũ gọi là cổ điển 古典. Với nét nghĩa này ta còn có…
ĐIỂN CỐ - ĐIỂN TÍCH典故 - 典跡 là chỉ những việc có chép trong các sách vở thời xưa, được cô đọng lại trong một từ ngữ hay một thành ngữ để nói lên ý nghĩa của chuyện đó. Văn học cổ thường dùng rất nhiều Điển tích hay Điển cố. Nếu không biết được Điển tích thì không thể hiểu được ý nghĩa của câu văn hay câu thơ ấy một cách tường tận được.
ĐIỂN 典 cũng dùng để chỉ những Sách được coi là mẫu mực, dùng làm tiêu chuẩn, phép tắc để mọi người có thể noi theo. Như:
TỪ ĐIỂN – TỰ ĐIỂN 詞(辭)典 - 字典 là sách giải thích ý nghĩa, từ nguyên, cách dùng, cách phát âm, và thường kèm theo các ví dụ về cách xử dụng từ đó.
Chữ TỪ ĐIỂN, Hán văn có 2 cách viết là 詞典 hay 辭典. Hai cách viết nầy đều đồng nghĩa. TỪ ĐIỂN là bộ sách để tra nghĩa của từng nhóm chữ còn TỰ ĐIỂN là bộ sách để tra nghĩa của từng chữ một.
Từ điển bao gồm việc giải nghĩa các thành ngữ, điển tích
và các từ ghép. Việc giải nghĩa nầy phải đi từ việc giải nghĩa
từng chữ một, rồi sau đó mới giải nghĩa cả thành ngữ. Cho
nên: TỪ ĐIỂN cũng là TỰ ĐIỂN.
KINH ĐIỂN 經典là những kinh sách ghi chép các sự việc xưa và các phép tắc đời xưa, để làm khuôn mẫu cho đời sau học tập và bắt chước noi theo.
Theo: (Đỗ Hoang Anh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét