HOÀNG SẮC ÂM NHẠC
Trang
Y Hạ
“Ngày
xuân nâng chén ta chúc nơi nơi. Mừng anh nông phu vui
lúa thơm hơi. Người thương gia lợi tức. Người
công nhân ấm no. Thoát ly đời gian lao nghèo khó”… (Ly
Rượu Mừng, PĐC)
Hoàng
sắc âm nhạc là loại nhạc nào mà lại có sắc…? Ông
Mao, nói: “Hoàng
Sắc Âm Nhạc”, là
loại âm nhạc chứa nội dung: tình yêu trai gái, khiêu dâm
(dâm thanh), bẩn thỉu, thô tục, ủy mị…! Một số
người trí thức thời đó cũng cho “hoàng
ca” là
loại nhạc “loạn
thế chi âm, vong quốc chi âm”.
Ông Mao và những người theo ông đều cho rằng thứ “nhạc
vàng” làm hư hỏng văn hóa, con người, không phù hợp
trong thời đại cách mạng, (nhạc đỏ mới là nhạc).
Người Việt theo chủ nghĩa Mao cũng gọi “hoàng sắc”
là loại nhạc vàng. Và còn gán thêm cho hai chữ, nhạc:
“đồi trụy”!
Người
Hoa cổ xưa xưng “hoàng đế”. Bởi hoàng đế là ông
tổ của nền văn minh Hoa Hạ “hoàng
thổ” (đất vàng); “hoàng hà” (sông vàng); viêm hoàng
“da vàng”. Ấn
tín màu vàng “kim
ấn tử thụ”, áo
nhà vua “hoàng
bào”... Người
Hoa làm giặc, dùng màu vàng - giặc “hoàng cân” (giặc
khăn vàng).
Tượng Phật, áo thầy chùa cũng màu vàng… Người Hoa
xưa, ràng buộc bởi đạo đức, bởi luật trời, bởi
luật người… Vua là thiên tử, tức con của trời. Hoàng
Đế cũng chỉ là bề tôi của trời. Do đó mà trong các
chiếu chỉ, viết: “phụng
thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết…”.
Nhạc cổ Trung Hoa ngày xưa nội dung chỉ là: các điển
tích, điển cố, phong cảnh, quê hương, bạn hữu…
Âm điệu loại nhạc cổ xoay quanh năm [5] nốt nhạc chính
gọi là ngũ âm. Ngũ âm được sắp xếp cao thấp bằng
âm điệu: (Cung
- Thương - Giốc - Chủy - Vũ).
Người
Hoa không kiêng kỵ màu vàng. Màu vàng là màu biểu tượng
của trời “hoàng
thiên hữu nhãn”, của
dân tộc họ… Vậy thì tại sao người Hoa sau nầy gọi
nhạc cổ cầm của chính họ là thứ “nhạc vàng” một
cách miệt thị? Thời của các vua chúa phong kiến Trung
Hoa, đã dùng “dĩ
nhạc trị quốc”.
Tục Nhạc đã có từ lâu và phổ biến trong giới bình
dân, lời ca dân dã bình thường nên không mấy phù hợp
với - giới trí thức, giới quan lại, giới tu hành. Tuy
cho rằng tục nhạc nhưng lời ca không làm mất thuần
phong mỹ tục hay dâm dật…
Triều
đại nhà Chu đã hình thành một loại nhạc khác có lời
ca đậm tính văn chương, thanh điệu… tiếng Việt gọi
là (nhã nhạc). Loại nhạc cung đình nầy, gồm có bát
âm:
[Thạch- Thổ- Kim- Mộc- Trúc- Bào- Ti- Cách]. Nhã
nhạc ra đời nhằm đối xứng lại với [tục nhạc]. Nhã
nhạc vua chúa thường dùng trong các dịp cúng tế trời
đất hoặc đàn ca nơi chốn cung đình, quý tộc… Sau nầy
giới nho gia rất thích nhã nhạc. Nhạc cung đình thời
nhà Chu. Theo (Từ Hải Từ Điển). Nho gia gọi nhã nhạc
là: “Trung
Chính Hòa Bình”,
hay “Khúc
Nhã Thuần Chính”.
Nho gia còn cho nhã nhạc cung đình là “Chính
Âm”. Theo
Kinh Lễ, nhã nhạc nhà Chu đi kèm với sáu điệu múa lộng
lẫy, mà nội dung trong mỗi điệu múa mang ý nghĩa với
một nhân vật thần thoại, lịch sử, như: -
Vân Môn Đại quyển Đại
Hàm - Đại
Khánh - Đại Thiều -
Đại Hạ - Đại Hoạch -
Đại Vũ.
Những
khúc nhạc nổi tiếng của người Hoa từ thời xa xưa,
hiện nay vẫn còn giá trị trong lịch sử âm nhạc, vẫn
lưu giữ ở các viện âm nhạc quốc gia: Hồng-Kông, Đài
Loan, Singapore, Châu Âu… Nhạc, gồm có mười khúc:
- “(Cao
Sơn Lưu Thủy).
Khúc nầy chỉ có: Bá Nha và Chung Tử Kỳ, mới hiểu thấu
ý nghĩa… - (Quảng
Lăng Tán).
Khúc nhạc cổ cầm, ở vùng Quảng Lăng. Tả chuyện Nhiếp
Chính, thời Chiến Quốc, vì muốn trả ơn cho bạn là
Nghiêm Trọng Tử, nên ông giết tể tướng Hiệp Lụy,
rồi tự sát… -
(Bình Sa Lạc Nhạn). -
Tả cảnh chim nhạn bay về phương xa vào tiết thu
sang... - (Mai
Hoa Tam Lộng”)
tả hoa mai… - (Thập
Diện Mai Phục). Tả
lại thời Hán Sở Tranh Hùng… - (Xuân
Giang Hoa Nguyệt Dạ), hay còn gọi là: Tịch Dương Tiêu
Cổ). Tả
cảnh sắc trên sông Dương Tử... - (Ngư
Tiều Vấn Đáp). Kể
về cuộc nói chuyện giữa người ngư phủ và người
tiều phu. - (Hồ
Gia Thập Bát Phách). Tả
về nữ thi nhân Thái Diễm thời Tam Quốc… - (Hán
Cung Thu Nguyệt) . Tả
nỗi buồn của người cung nữ trong cung… - (Dương
Xuân Bạch Tuyết). Tả
về cây cối trong mùa xuân có tuyết rơi...
Xét
ra nội dung âm nhạc của người Hoa ngày xưa, họ chỉ
diễn tả: điển tích, lịch sử, cảnh vật, đất nước,
con người chứ không hề mang nội dung đồi bại, trụy
lạc... Không hiểu tại sao những người theo thuyết Mao
lại chối bỏ nền âm nhạc tinh hoa tuyệt vời đó cho
tới hết cuộc đại “cách mạng văn hóa”. Và, đợi
cho tới khi ông Đặng Tiểu Bình “lên ngôi” mới ra
lệnh mở cửa ra làm ăn theo hướng “Kinh Tế Thị Trường
Tư Bản”, mà theo như lời ông nói “Bất
kể mèo đen hay mèo trắng miễn là bắt được chuột”.
Từ đó, thứ “nhạc vàng” độc địa mà ông Mao chê
bai ghét bỏ - đã sống dậy, kể cả nhạc phương Tây
cũng cho phép du nhập vô trong nước.
Nhìn
lại lịch sử thời cuối đời nhà Minh…Tướng Ngô Tam
Quế, mở cửa Sơn Hải Quan, đón quân của tướng Đa Nhĩ
Cổn vào chiếm Bắc Kinh và lập ra triều đại nhà Thanh.
Nhà Thanh hiểu ra rằng: họ chỉ chiếm được đất chứ
không thể chiếm được lòng người Hán và nền văn hóa
đồ sộ của người Hán. Thay vì tiêu diệt họ, nhà
Thanh quay sang hợp tác với tầng lớp tinh hoa của người
Hán để đặt các chức quan từ trong triều đình cho tới
các địa phương... Một quyết định hết sức sáng
suốt.
***
Ở
miền Bắc Việt Nam “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, cũng
cấm tiệt thứ “nhạc vàng” độc địa giống y chang
như ông Mao, cần phải loại bỏ, người dân nào sưu tầm
ca hát sẽ bị bắt và bị tù đày… Nhạc vàng bị cấm
chính thức vào năm 1975. Ở ngoài Bắc, vụ án lừng danh
thiên cổ vì sưu tầm và hát nhạc vàng mà bị đi tù đày
nhiều năm dẫn tới tan gia bạn sản, đó là vụ án:
-“Toán
Xồm - Lộc Vàng”. Toán Xồm tức là ông Phan Thắng Toán.
Ông Toán chủ mưu với các đồng phạm là nghệ sĩ nghiệp
dư, đi tìm kiếm các tác phẩm “Văn Nghệ Đồi Trụy”.
Phiên tòa xử vào tháng (1.1971). Tòa án tuyên phạt người
mười năm tù, người mười lăm năm tù”.
(báo
Hà Nội Mới “Phan Thắng toán và đồng bọn đã bị xét
xử”, ngày 12.1.1971).
Khi hai ông “Toán Xồm
- Lộc Vàng” mãn hạn tù. Một người còn sống. Một
người sống vô gia cư và chết ở ngoài đường phố…
Dù đi tù, dù chết trong đói khổ, bệnh tật nhưng trong
lòng của hai ông vẫn trung thành với thứ “nhạc vàng
đồi trụy” mà hai ông đã yêu thích...
Trong
các triều đại vua chúa Đại Việt đều có nhạc cung
đình. Triều đại Chúa Nguyễn cũng đã có nhạc cung đình
và phát triển rực rỡ... Nhà Nguyễn chọn Huế làm kinh
đô, từ đó nhạc cung đình có tên gọi là nhạc cung
đình Huế. Nhã nhạc trỗi lên vào những dịp (nhà vua tế
trời đất, vua lên ngôi, vua băng hà, mừng chiến thắng
quân giặc, đám cưới, mừng thọ, hoặc trong các nghi
thức cúng đình…). Nhạc cung đình Huế, hình thành từ
thế kỷ thứ mười ba [13]. Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố
thoái vị năm một chín bốn lăm (1945).
Nền nhã nhạc cung đình Huế cũng tan rã theo. Tuy nhiên về
thang âm, thì âm nhạc cung đình Đại Việt đã biết xử
dụng bát âm cho nhã nhạc, gồm: “Hò, Xự, Xang, Xê,
Cống, Liu, U”.
***
Tân
Nhạc Quốc Gia Phải Chăng Là loại Nhạc “Đồi Trụy”?
Tân
Nhạc Việt Nam hình thành từ khoảng năm (1928). Theo “Nam
Kỳ Lục Tỉnh”. Tân Nhạc Quốc Gia có ba tên gọi:
- Tân
Nhạc Việt Nam (Vietnamese modern music)
-
Nhạc Tân Thời (Vietnamese modern musical era)
- Nhạc
cải cách (Vietnamese reformed music).
Trong
bài viết nầy, tôi không bàn về âm nhạc, dù có muốn
bàn thì cũng chẳng có biết chi mô về âm nhạc mà bàn.
Tất cả dẫn chứng trong bài viết nầy là để làm minh
bạch cái mà người ta gán tội cho Tân Nhạc Quốc Gia là
loại nhạc “Đồi & Trụy”. Dòng Tân Nhạc Quốc Gia
có phải là thứ nhạc mang nội dung xấu xa đã làm hư
hỏng người nghe, hủy hoại xã hội hay làm mất đi một
quốc gia như vậy hay không mà thôi!
Người Việt
cũng giống người Hoa. Thích màu vàng: “da vàng, lúa
vàng, trăng vàng, nắng vàng, hoa cúc vàng, hoa dã quỳ
vàng, rùa vàng, ngai vàng… Năm (40 - 43). Hai Bà Trưng khởi
nghĩa đánh giặc Tàu bà cũng lấy màu cờ vàng. “phất
ngọn cờ vàng, phất ngọn cờ vàng oai hùng quân Nam”.
(Bài học thêm lớp tiểu học thời Miền Nam Quốc Gia).
Các triều vua nhà Nguyễn kể từ vua Thành Thái cũng chọn
màu vàng làm cờ “Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”, ba sọc tượng
trưng cho ba miền.
Thử
tìm hiểu hai chữ “Đồi & Trụy”:
-Chữ
“đồi”, là ngọn đồi ít cây cối, đồi trọc, đồi
đá… Đồi, là đồi bại (phong tục đồi bại). Đồi,
là hư hỏng, đổ nát, tồi tệ xấu xa. - Chữ “trụy”
là rớt xuống, ngã xuống. Trụy thai, là hư thai. Trụy
địa, là té ngã xuống đất. Trụy lạc, là rơi vô nơi
chốn dơ bẩn. Hai chữ “đồi & trụy” không thể
ghép chung. Chữ “đồi trụy” không nằm trong tự điển
tiếng Việt. Vậy thì tại sao phải mượn hai chữ đó
đem đi “hạch tội, vu vạ” cho một nền âm nhạc -
“Tân Nhạc Quốc Gia - Nhân Bản - Khai Phóng” đã có từ
lâu. Cầm bằng cho rằng Tân Nhạc Quốc Gia là thứ nhạc
“đồi & trụy” thật sự. Vậy thử tìm xem trong
hàng chục ngàn tác phẩm “nhạc vàng” đó có lời ca
nào: - cổ súy cho việc giết người; cổ súy cho việc
phá hoại tín ngưỡng, tôn giáo; cổ súy cho việc tố
cáo, chụp mũ lẫn nhau; cổ súy cho việc giết hại đồng
bào; cổ súy cho việc cướp bóc; cổ súy cho việc phá
hoại thuần phong mỹ tục; cổ súy cho việc lừa thầy
phản bạn hay giựt chồng, cướp vợ; cổ súy cho việc
xóa bỏ lịch sử… Tất nhiên, (nếu có) loại nhạc phẩm
tai hại như vậy thì phải mang đi đốt bỏ. Và, nếu
không đốt bỏ đi thì tự thân loại nhạc qủy quái đó
cũng tan biến theo dòng thời gian. Lịch sử và lịch sử
âm nhạc cũng không muốn nhắc tới làm chi.
“Nhạc sĩ Tô Hải sáng tác một ngàn bản nhạc, nhưng chính ông thú nhận: “Hầu hết sáng tác của tôi là do (hèn) nên nội dung chỉ là các khẩu hiệu tuyên truyền”. Năm 1960, nhạc sĩ Tô Hải bỏ đảng, ra khỏi quân đội. Sau năm 1975, ông vào Sài Gòn, tới năm 1986 về hưu non, chọn Nha Trang là nơi ở ẩn để tránh “phải nhận chỉ thị buộc viết cái gì, viết thế nào, viết cho ai.”. Ông thọ tới 91 tuổi. Tháng Sáu, 2009, tủ sách Tiếng Quê Hương tại Virginia, Hoa Kỳ, đã xuất bản và phát hành tác phẩm “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải. Cuối đời ông đốt hết chỉ chừa lại một nhạc phẩm”. Theo đài (BBC).
Người xưa, có câu nói “Hữu xạ tự nhiên hương”. Quả không sai. Trong dòng nhạc Tân Nhạc Quốc Gia đã có sẵn xạ, mùi hương từ xạ tỏa ra theo năm tháng dù cho có phong ba bão táp mùi hương của xạ vẫn cố bám chứ không hề phai… Đã nửa thế kỷ trôi qua, từ ngày mất Miền Nam Quốc Gia nhưng dòng nhạc Tân Nhạc Quốc Gia vẫn không mất. Lớp sinh sau đã thừa hưởng một di sản Tân Nhạc vĩ đại… Và nhờ dòng Tân Nhạc Quốc Gia đó mà đã có hàng ngàn Ca Sĩ trẻ “thế hệ sau” tiếp tục thành danh và giàu có (khắp trong và ngoài nước). Đó là chưa kể mọi người, mọi nhà - dù nhiều, dù ít - đều thuộc vài lời, vài đoạn trong bản nhạc hay vài bản Tân Nhạc Quốc Gia để hát chung vui trong: - đám cưới, đám ma, đám đầy tháng, đám thôi nôi, đám tân gia và các cuộc nhậu là chuyện bình thường.
Tân Nhạc Quốc Gia Miền Nam đã thấm sâu vô từng mạch máu li ti của người Việt… Mỗi dịp xuân về, người xa quê khắp nơi, không ai mà không nhớ tới nhạc phẩm “Xuân Này Con Không Về”. Nghĩ về người mẹ thân yêu không ai mà không nhớ tới nhạc phẩm “Lòng Mẹ”. Nghĩ về thời học sinh, không ai mà không nhớ tới nhạc phẩm “Em Tan Trường Về, - Nỗi Buồn Hoa Phượng”. Nghĩ về người lính, không ai mà không nhớ nhạc phẩm “Chuyến Tàu Hoàng Hôn, - Ly Rượu Mừng – Rừng Lá Thấp...* Nghĩ về tình yêu không ai mà không nhớ nhạc phẩm “Tôi Đưa Em Sang Sông, - Thành Phố Buồn...”. Còn nhiều…, và còn nhiều lắm! Tân Nhạc Quốc Gia, có một sức mạnh riêng mà không một cá nhân, không một đảng phái nào ngăn cản nổi. Âm nhạc không hạn hẹp bởi: - biên giới, màu da, tôn giáo, đảng phái, trẻ, già, địa lý… Chính âm nhạc Phương Tây đã góp phần làm cho “Bức Tường Bá Linh” sụp đổ. Lịch sử đã ghi lại như vậy!
Trong
mỗi con người đều có nhạc… Hãy để các nốt nhạc
trong sáng ở trong tâm lòng ngân lên cho đời rộn rã tươi
vui… Hãy xích lại gần nhau trong tình yêu, trong tình
tương thân tương ái bằng lời nhạc nhẹ nhàng bay bổng
mà sâu lắng…! Nhạc không màu... ,nhưng là “cầu vồng
bảy sắc” cho những người yêu nhạc bước qua để đi
tới vùng hương hoa bát ngát của “Chân – Thiện –
Mỹ.
Trang Y Hạ
*Nhạc
Phẩm lừng danh “Ly Rươu Mừng” của nhạc sĩ
Phạm
Đình Chương bị “cầm tù” 40 năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét