MỖI ĐỘ THÁNG TƯ
Trang
Y Hạ
“Nếu
anh bắn vào quá khứ bằng súng lục. Tương lai sẽ bắn
vào anh bằng đại bác”.
Thi sĩ: (Gamzatov, thuộc quốc gia Daghestan).
Cuộc
chiến tranh do Bắc Việt khởi xướng mà chiến trường
đẫm máu là ở Miền
Nam Việt Nam - với sự trợ giúp vũ khí, lương thực rất
nhiệt tình và đầy đủ
của phe
cộng sản quốc
tế – trực tiếp là
Trung Cộng và Liên Xô để
đánh “đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam”.
Thành
thật mà suy tính về thời gian thì quân đội Mỹ chính
thức đổ quân ồ ạt tham chiến tại Miền Nam Việt
Nam là năm 1965. (Thời
thủ tướng Phan Huy Quát Việt
Nam
Cộng
Hòa).
Tới cuối năm 1970 “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” thì quân
đội Mỹ đã rút về nước hầu
hết quân chủ lực, chỉ
còn một rất ít
cố vấn quân sự.
Ngày 27.1.1973. Hiệp định hòa bình nghĩa địa Paris
ký kết, Mỹ cắt hết
các khoản viện trợ
quân sự cho Miền Nam. Quân
đội Việt Nam Cộng Hòa đơn thân độc mã, thiếu
trước hụt sau về
mọi phương diện vũ khí, xăng dầu… - chiến
đấu với cộng quân Bắc
Việt và dẫn tới
sụp đổ. Vậy thì đã quá
rõ ràng
- âm mưu chiếm Miền
Nam của phe cộng sản quốc tế đã có
chuẩn bị chu
đáo từ trước – Đó
là Mặt trận giải phóng Miền Nam do Bắc Việt dựng lên
năm 1959 – 1960. Người Mỹ tới Miền Nam sau cái
“mặt
trận giải phóng Miền Nam”, nhưng
lại mang tiếng là “xâm lược”. Đến
năm 1975 Bắc Việt chiếm
Sài
Gòn và
hô hào - thắng đế
quốc Mỹ. Hiệp
định hòa bình Paris năm 1973, Mỹ rút khỏi
Miền Nam, thì quân đội
Mỹ có còn đâu mà đánh
thắng? Đọc cuốn sách
“Đại Thắng Mùa Xuân” của tướng Văn Tiến Dũng là
rõ. Hoặc khi ông Bùi
Tín tuyên bố tại Dinh Độc Lập khi nhận bàn giao Miền
Nam từ tay Tổng
thống Dương Văn Minh, đã nói:
“Giờ đây, chúng ta
đã kết thúc cuộc chiến, chỉ có đế quốc Mỹ là kẻ
thua trận, miền Nam và bắc Việt Nam chúng ta đã thắng,
chúng ta hãy cùng nhau xây dựng lại đất nước”.
Sự
việc như vậy, thì bên nào đã vi phạm hiệp định hòa
bình Paris ngày 27.1973?
Mỗi
độ tháng Tư về như một lời nguyền của phù thủy -
Thảm cảnh chiến tranh - người dân Miền Nam phải gánh
chịu trong suốt hai mươi mốt năm dưới thể chế tự do
của chính thể Việt Nam Cộng Hòa đã sống dậy – sống
dậy trong tâm tưởng của mỗi người dù còn ở trong
nước hay ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tuy chế độ tự
do thời gian có ngắn ngủi nhưng đã để lại hai dấu ấn
không bao giờ phai nhòa mà bất cứ quốc gia nào cũng mơ
ước hãnh diện một khi thực hiện được hai chương
trình nhân bản đó trên đất nước của chính mình.
-
Một: Giáo dục. Một
nền giáo dục Miền Nam đầy tính “nhân bản, khai phóng,
trách nhiệm”. Miễn học phí cho học sinh... Đặc biệt
là sách giáo khoa…. Đứa anh, đứa chị gìn giữ sách
sạch sẽ khi học xong - để dành sách lại cho các em của
mình tiếp tục học mà không cần phải tốn tiền mua mỗi
năm…! Đó là chưa kể các khoản trợ giúp khác cho học
sinh, như: Trợ giúp sách vở, viết, được uống sữa cho
khỏi bị suy dinh dưỡng.
-
Hai: Y tế. Người
dân có bịnh tật, chuyển vô nhà thương, nhà thương sẵn
sàng chữa bịnh, - không bắt buộc bịnh nhân nộp tiền
trước mới chữa trị… Nhà Thương Thí, Nhà Thương Công
Cộng - Miễn phí y tế cho người nghèo kể cả miễn thực
phẩm cho thân nhân đi theo chăm sóc người bịnh. Trường
hợp người bịnh và thân nhân không có tiền về nhà sau
khi chữa lành bịnh thì Nhà Thương cho xe chở về nhà.
Đó
là niềm tự hào của Chính Thể Quốc Gia Việt Nam
Cộng Hòa.
Mỗi
độ tháng tư về. Người dân miền Nam không bao giờ
quên được những trận pháo kích của việt cộng từ
trên rừng bắn vô làng xóm, thành thị... Thời trước ở
Miền Nam, nhà nào cũng phải lo đào “hầm trú ẩn” cho
chắc chắn để ẩn nấp mỗi khi có chiến sự xảy ra
hay đạn pháo kích từ trên rừng rót về bất cứ lúc
nào - nếu không muốn chết bất đắc kỳ tử.
Mỗi
độ tháng tư về. Người dân Miền Nam không bao giờ
quên mỗi buổi sáng - chở rau cải nông sản trên những
chiếc xe Lam ra chợ bán... Những
trái mìn do “du kích” việt cộng chôn dưới lòng đường
đã lấy đi không biết bao sinh mạng của người dân thôn
quê vô tội. Bởi lý đó, mỗi buổi sáng người dân thôn
quê phải chờ quân đội đi rà mìn, gỡ mìn trên các
trục lộ chính xong thì xe cộ mới dám di chuyển... Nỗi
ám ảnh chết bất đắt kỳ tử vì mìn chôn dưới lòng
đường đã làm mất thời gian, nhân mạng và xáo trộn
đời sống của người dân nông thôn.
Mỗi
độ tháng tư về, người dân Miền Nam vẫn nhớ rất rõ
Cộng quân tấn công toàn Miền Nam vào dịp Tết Mậu
Thân, năm 1968 (dù cộng sản đã gửi lời hưu chiến
trước để dân Miền Nam ăn tết, nhưng họ lại nuốt
lời). Riêng ở Huế có hàng chục ngàn người dân bị
giết bằng mọi cách… Hãy đọc tác phẩm “Giải Khăn
Sô Cho Huế” của tác giả Nhã Ca. Không riêng gì ở Huế
đã chịu cảnh chết chọc, tan hoang nhà cửa ruộng vườn.
KonTum, An Lộc, Sài Gòn Chợ Lớn và các tỉnh khác… -
cũng cùng chịu chung như vậy.
Mỗi
độ tháng tư về, người dân Quảng Trị không bao giờ
quên “Đại Lộ Kinh Hoàng” xảy ra năm 1972. Cộng quân
pháo kích giết dân cả một đoạn đường dài bởi người
dân họ chay về phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa để
được bảo vệ, để được giúp đỡ chỗ ăn chỗ tạm
trú. Chứ không chạy về phía việt cộng. KonTum, Bình
Định, An Lộc (Bình Long) cũng cùng chung số phận của
chiến sự tang thương đó.
Mỗi
độ tháng tư về. Không bao giờ quên - Hàng ngàn
viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bị giết chết
- bởi ban đêm du kích về ám sát... Người cộng sản gọi
hành động giết người đó - bằng danh từ bọc đường,
là: “Tiêu hao tài sản và
sinh mạng kẻ thù” hoặc
“Giết lầm hơn bỏ
sót”.
Cuốn
phim “Việt Nam War” (dù cuốn phim có thiên vị một
chiều). Tuy vậy ở trong cuốn phim đó cũng đã đưa lên
rất nhiều hình ảnh tang thương do việt cộng gây ra tại
Miền Nam. Tất cả hình
ảnh chết chóc tang thương, hư hao tài sản chưa hẳn
người Việt đã - nhìn thấy hết, đã hiểu hết,… -
bởi bị báo chí, truyền hình phản chiến phương Tây, Mỹ
che giấu số liệu hoặc bẻ cong lịch sử. Lịch
sử đau thương mà người Miền Nam gánh chịu bởi cái
Hiệp định hòa bình nghĩa địa ngày (27.1.1973)” gây ra.
Mỗi
độ tháng tư về. Người
Miền Nam không bao giờ
quên là đã
bị “đánh tư
sản” mất tất cả tiền bạc. Bị đánh “Công thương
nghiệp” mất sạch nhà máy, xí nghiệp, khu kỹ nghệ
kinh doanh buôn bán và sản xuất. Và, bị “đổi tiền”
ba lần xóa sạch nền tài chánh miền Nam. Số liệu như
sau:
Thời
Đệ Nhứt Việt Nam Cộng Hòa. (1955).
-
35 $ Miền Nam = $1 Mỹ kim
-
Năm 1960 – 1970 khoảng 300 $ VNCH = $1 Mỹ kim
-
Năm 1970 -1975, khoảng 500 – 700 $ VNCH = $1 Mỹ kim.
Trên
mặt các đồng tiền của Việt Nam Cộng Hòa chỉ in hình
các bậc tiền nhân chống giặc Tàu và cảnh trí quê
hương.
Sau
năm 1975, qua ba lần đổi đổi tiền:
-
Lần thứ nhứt:
ngày 22-9-1975.
-
Lần thứ nhì:
ngày 02-5-1978
-
Lần ba: ngày
14-9-1985.
Bắc
Việt, đã quy ra: 500 $ VNCH = 1 đồng Miền Bắc. Tức là
chỉ 1 đồng rưỡi tiền Miền Bắc lúc đó đã đổi
được $1 Mỹ kim. (Chỉ duy nhứt [$] đồng Bảng Anh mới
làm được điều đó). Như
vậy, thử hỏi rằng: Từ chỗ 1,5 đồng tiền Miền
Bắc ăn $1 Mỹ kim thời năm (1975)… Vậy cớ gì sau bốn
mươi tám [48] năm, đồng tiền của Việt Nam tụt xuống
tới 24.000 $ mới đổi được $1 Mỹ kim? Đồng tiền Việt
mất giá tới - Mười Sáu Ngàn
Lần, gần áp chót theo bảng xếp hạng của
ngân hàng thế giới.
Mỗi
tháng tư về, người dân Miền Nam không bao giờ
quên đã bị ép đem đất ruộng vườn và phương tiện
sản xuất vô “tập đoàn, hợp tác xã” với khẩu hiệu
“hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ” để làm ăn tập
thể. Lợi tức của mỗi người xã viên được chấm
theo công điểm cao thấp, cuối vụ mùa chẳng được bao
nhiêu. Đói và đói triền miên, phải ăn – Bo bo, sắn,
khoai, rau rừng… Ngược lại các ông cán bộ không làm
thì no đủ. Người dân có câu Ca dao: “Mỗi
người làm việc bằng hai. Để cho cán bộ mua đài, mua
xe. Mỗi người làm việc bằng ba. Để cho chủ
nhiệm xây nhà, lát sân” hoặc “Nón cời làm cho
nón cối ăn”. Bởi lo tiêu diệt tư sản, nên ngăn
sông cấm chợ không cho hàng hóa lưu thông theo phương
thức tư hữu thị trường. Làm ăn tập thể kiểu cha
chung không ai khóc nên thất bại.
Mỗi
tháng tư về người dân Miền Nam làm sao quên được cả
Miền Nam bồng bế nhau chạy giặc vô Sài Gòn bằng tất
cả mọi phương tiện trên đất liền, dưới biển và
phi cơ kể cả đi bộ. Không biết bao nhiêu nhân mạng cả
dân và lính ngã xuống cũng chỉ vì hai chữ tự do.
Còn
nhiều lắm, không thể kể ra hết.
Lịch
Sử Của Ngàn Người Yêu Tự Do Viết:
Hàng ngàn người
viết ra không có nghĩa là: Viết ra để – khóc lóc, than
thân trách phận hay để cầu xin sự thương cảm của kẻ
chiến thắng hoặc viết ra nhằm mục đích khoe mẽ nỗi
đau mất mác của từng cá nhân hầu mong cầu xin sự
thương hại... Viết ra đây là viết để bày tỏ, làm
sáng tỏ những khuất tất còn ẩn chứa bên trong dòng
lịch sử đã bị phe phản chiến, phe chiến thắng...-
hàm hồ vu khống - đổ lên đầu “bên thua cuộc” chiến
- với vô vàn “tội lỗi” vu vơ, vu vơ nhưng hậu quả
hết sức tai hại và nguy hiểm cho nhiều thế hệ sinh
sau.
Viết
về hàng triệu “Quân đội, Công chức…” Miền Nam bị
dồn vô các trại tù, gọi là “cải tạo”, bị trả
thù – một số – đã chết rục xương ở trong tù mà
cho tới nay đã hơn nửa thế kỷ người thân gia đình
của những ngươi tù bị giết chưa biết các hài cốt
chôn ở đâu. Đã nửa thế kỷ trôi qua, chưa hề có một
chương trình của (ai đó) trợ giúp tìm hài cốt của
binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa chết trận - chứ chưa dám mơ
ước - tìm kiếm hàng chục ngàn hài cốt của người tù
“cải tạo” ở khắp nơi trong các trại tù trên toàn
cõi Việt Nam “thống nhứt”…!!
Viết
về những người vợ lính đã chịu cực khổ cùng
chồng - ở hết khu gia binh nầy - tới khu gia binh khác -
nuôi con bằng đồng lương ít ỏi - đồng lương bằng
máu của chồng - lương tháng nào tiêu hết tháng đó. Dù
khổ sở nhưng con của họ vẫn được học hành. Bây giờ
chồng bị bắt đi tù, họ phải ra đường buôn bán, ra
đồng làm lụng để nuôi con, nuôi chính mình và dành dụm
từng đồng, từng chút thực phẩm để đi “thăm nuôi”
chồng bị “học tập cải tạo” ở khắp các trại tù
trong cả nước mà các trại tù đó phần nhiều là ở
chốn thâm sơn cùng cốc hay các vùng mà họ gọi là “vùng
sâu, vùng xa” không có con người hiện diện.
Viết
về hàng trăm ngàn người dân ở thành thị bị đưa lên
chốn rừng sâu nước độc, gọi là “Kinh tế Mới” để
lấy nhà của họ. (Một hình thức đem con bỏ chợ rất
độc ác). Họ sống không nổi đành phải trở về lại
thành phố (nhìn lại ngôi nhà đã bị người ta chiếm)
đành sống lây lất nơi gầm cầu, nơi đầu đường xó
chợ, nơi ven các dòng kinh, rạch, nơi bãi rác… Họ không
có giấy tờ tùy thân, “hộ khẩu” hay “chứng minh
nhân dân” cũng không ai cấp cho họ. Do đó, họ mất hết
quyền lợi và con cái không được học hành. Đã vậy
còn bị nhà cầm quyền xua đuổi như đuổi tà ma nếu bị
phát giác sống “bất hợp pháp”.
Viết
về hàng triệu người liều mạng nhào ra biển để
đi tìm tự do trên những chiếc thuyền gỗ nhỏ của các
ngư phủ, mặc cho bão tố hải tặc Thái Lan bắt giết và
hãm hiếp phụ nữ. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc,
đã có khoảng 600 ngàn người bỏ mạng trên biển với
đủ các lý do. Trong số người sợ cộng sản bỏ chạy
ra biển cũng có người từng nằm vùng hoạt động cho
việt cộng cũng bỏ chạy.
Viết
về thời gian đã từ bỏ đất đai, mồ mồ để
sống đời ty nạn trong bốn mươi tám năm qua… Một nỗi
buồn lịch sử không bao giờ phai nhòa từ thế hệ nầy
sang thế hệ khác. Bị ghép tội là “dân ngụy”, nếu
không từ bỏ quê hương ra đi thì làm sao sống nổi? Có
gắng gượng sống cũng đâu khác gì công dân loại hai,
loại ba... Bởi xã hội mới ưu đãi cho người “có
công với cách mạng”.
Viết
về các - di tích, dinh thự, đền đài, cầu cống, đường
sá di sản quý giá của Miền Nam lần hồi bị xóa sạch
trong bốn mươi tám năm qua - kể cả thay tên đổi họ…!
Ngày nước Đức thống nhứt - (thống nhứt không đổ
một giọt máu). Người Tây Đức không trả thù người
cộng sản Đông Đức, không bắt đi cải tạo, không bắt
đi kinh tế mới, không tịch thu tài sản nhà cửa ruộng
đất, không bắt buộc ai phải vô tập đoàn, hợp tác
xã... Ngược lại người Đông Đức vẫn nhận lương
hưu, không mất một xu. Ai có việc làm vẫn đi làm. Ai có
bằng cấp (các khoa, ngành) đều được trọng dụng. Điển
hình như:
Bà
cựu Thủ tướng Đức (Angela Dorothea Merkel) - vốn là
người ở Đông Đức.
Nước Đức thống
nhứt trong hòa bình và thù hận đã tiêu tan ở trong lòng
người Đức, họ bắt tay xây dựng nước Đức giàu mạnh
bậc nhứt Châu Âu và kinh tế đứng hàng thứ tư trên
thế giới. Thủ tướng Đức - Helmut
Josef Michael Kohl lúc đó đã lượng
giá: - Chỉ
cần khoảng (bốn trăm tỷ
dollars) là có thể vực dậy nền
kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu của cộng
sản Đông Đức. Vậy mà đã tiêu tốn tới (bốn
ngàn ngàn tỷ)
mới tạm cân bằng với Tây Đức.
Lý do số tiền chi tiền ra
quá lớn là - ngoài kinh tế, an
sinh xã hội ra – thì còn phải
phục hồi lại tất cả - di tích lịch
sử quốc gia vốn
đã có từ xa xưa - mà người
cộng sản Đông Đức đập phá nát
hết - vì họ
cho rằng những ngôi nhà cổ,
những di tích đền đài xưa
là của bọn - vua chúa, bọn địa
chủ, bọn tư sản, bọn
phản động…!
Viết
về quê hương “thống nhứt” đã bốn mươi tám
năm, nhưng lòng người chưa thống nhứt. Chưa thống nhứt
bởi rất nhiều nguyên do.
Dưới con mắt của người cộng sản Việt Nam, họ
luôn nghĩ rằng - Họ: “Đã có công đánh thắng ba
đế quốc: đế quốc Pháp, đế
quốc Nhựt, đế quốc Mỹ
xâm lược và người lính Việt Nam Cộng Hòa là ngụy tay
sai bán nước, bán biển đảo cho đế quốc Mỹ. Người
dân Miền Nam cũng là dân Ngụy”.
(Bất
hạnh thay cho kẻ tự hào “chiến thắng” ba đế quốc
tư bản bóc lột, xâm lược - lại nghèo nàn, lạc hậu…
- phải đi xin viện trợ của cả ba đế quốc “thua
trận” đó và làm thuê làm mướn cho họ, hoặc chạy
qua xin định cư).
Nguyên
do nữa, đó là - họ “giải phóng Miền Nam”, nhưng thật
ra là Miền Nam đã giải phóng cho họ. Họ biết họ không
thể làm theo mô hình tư bản tự do Miền Nam, nên họ
kiên quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Điển
hình: - Giáo dục trong bốn mươi tám năm qua họ đã đi
“lạc đường”. Trường học chỉ là nơi kinh doanh đủ
thứ để thu tiền (phu huynh, học sinh) hơn là dạy học.
Lương nhà giáo không đủ sống buộc họ phải (bon chen)
với đời thường để kiếm sống làm mất đi danh dự,
nhân phẩm cao quý vốn có từ ngàn xưa của người Thầy
Giáo và đã biến họ thành nhà giáo “robot” trong việc
giảng dạy... Không cho nhà giáo tự soạn bài giảng mà
bắt nhà giáo phải “soạn giáo án” theo một chiều. Y
Tế cũng là nơi kinh doanh để bán thuốc (thuốc giả).
Người bịnh không có tiền thì bịnh viện từ chối
không chữa bịnh.
Nguyên
do nữa là – cộng sản họ không bao giờ tin tưởng
người dân; “Người dân thậm chí là kẻ
thù tiềm ẩn”. Đó là câu nói của bà bác sĩ Dương
Quỳnh Hoa, bà là bộ trưởng y tế trong “mặt trận giải
phóng Miền Nam”. Người dân Việt tỵ nạn khắp nơi
trên thế giới thì lại càng không tin tưởng và xem họ
là “thế lực thù địch hải ngoại” bọn “phản
động hải ngoại”... Và có “nghị quyết” theo dõi
họ mặc dù người Việt chạy trốn cộng sản là công
dân của quốc gia họ đang định cư. Đã không tin tưởng,
nhưng lại hô hào “hòa giải, hòa hợp dân tộc”. Hãy
nhìn những người “Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa”,
dù gì thì họ cũng là đồng bào ruột thịt - bao năm qua
nhà cầm quyền cộng sản không quan tâm tới họ - đã
không quan tâm tới thì thôi - đàng này lại đi cấm cản
các vị ân nhân, các vị Mạnh Thường Quân, các đoàn
thể tôn giáo trong và ngoài nước góp tiền giúp đỡ và
chữa bịnh cho họ. Và, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
diện tích càng ngày càng hẹp, mộ phần bỏ hoang đồng
thời cho người canh gác người chết. Hãy hòa giải với
những người chết và những người “chiến binh ngụy”
đã bị - cụt chân, tay, đui mù, bịnh tật... trước -
như một khởi đầu tình đồng bào. Chuyện: đất, ruộng,
vườn, nhà cửa, của cải đã bị tịch thu thì tính sau.
Còn
nhiều nguyên do khác nữa chứ không phải chỉ có chừng
đó.
(Tụt
hậu nếu cố vươn lên sẽ bắt kịp người đi trước,
còn lạc đường thì đi xuống địa ngục).
Viết
ra không phải để khơi
lại nỗi đau hay khơi
dây hận thù mà viết
ra để tự xoa dịu nỗi đau do lịch sử sang trang quá vội
vã đã không kịp hoàn chỉnh chương hồi, lớp lang để
tìm một phương hướng có
nhân có hậu cho cuộc
diện, cho dân tộc.
Ông
Jean Paul Sartre, Nhà
triết học lừng danh của nước Pháp, đã đi theo cộng
sản Pháp. Ông đã từng nói: “Kẻ
nào chống cộng là con chó”. Vậy mà khi ông chứng
kiến cảnh người dân Miền Nam Việt Nam sau năm 1975 - bất
chấp cả sinh mạng, bỏ cả tài sản, mồ mả - cắm đầu
chạy ra biển để trốn cộng sản. Ông đã tỉnh ngộ,
ông đã hối hận. Từ đó ông huy động tiền bạc khắp
nơi để mua một chiếc thuyền lớn chạy ra biển cứu
vớt “thuyền nhân” Việt Nam tỵ nạn cũng như tìm mọi
cách giúp đỡ họ.
Ở
Miền Nam người dân sợ cộng sản đã đành. Ở ngoài
bắc, lúc “Việt Hoa hai
nước chúng ta,
vừa là đồng chí vừa anh em” một nhà,
lại đánh nhau xương phơi đầy núi... Dân Miền Bắc
hoảng sợ từ bỏ quê hương xã hội chủ nghĩa - rừng
vàng biển bạc để chạy qua Hồng Kong xin tỵ nạn trong
nhiều năm và được đi tỵ nạn khắp nơi trên thế
giới, nhiều nhứt là ở Mỹ.
Chuyện
“thức tỉnh” của nhà triết học Jean Paul Sartre,
cũng gần giống như năm 1976. Ông Tổng bí thư Lê Duẩn
dẹp bỏ cái “mặt trận giải phóng miền nam”, khi đã
hết giá trị xử dụng… - đã làm cho số người ở
trong mặt trận “thức tỉnh” tháo chạy ra nước ngoài
tỵ nạn. Ngoài chuyện đó ra các ông bà: Văn sĩ, Thi sĩ,
Nhạc sĩ, Trí thức, Sinh viên, Tôn giáo, Thành phần thứ
ba, Ký giả... - một thời được sống an lành dưới
chính thể tự do Miền Nam đã hăng hái xuống đường
biểu tình, đòi - “tự do ngôn luận”; đòi “xóa bỏ
Chính thể Miền Nam”; đòi “đế quốc Mỹ xâm lược
rút về nước” – Sau ngày 30.4 - họ cũng tháo chạy qua
Mỹ tỵ nạn, ai còn ở lại thì trông chờ “bên thắng
cuộc” (thưởng công). Người chủ mới “bên thắng
cuộc” họ thừa biết bọn “trí thức như cục phân”.
Họ khinh miệt và vứt bỏ như vứt bỏ cái mặt trận
giải phóng Miền Nam.
Từ
ngàn xưa cho tới nay, những kẻ phản bội, kẻ vô ơn
bội nghĩa, kẻ phản chủ, kẻ ăn ở hai lòng… Tất cả
bọn họ đều nhận nhận lãnh cái kết quả vô cùng cay
đắng, nhục nhã - chẳng những họ mà còn lây sang các
đời con cháu của họ. Lịch sử chương hồi và bia miệng
thế gian rất công bằng - dù có tô son trét phấn, bẻ
cong lịch sử cũng không thể thoát ra khỏi chân lý đó.
Người
Tàu xưa họ rất ghét vợ chồng kẻ phản bội Tần Cối.
Họ bỏ vợ chồng Tần Cối vô chảo dầu, gọi là: Dầu
Chao Quẩy - (Du Trác Qủy). Dầu cháo quẩy hay (giò cháo
quẩy) - Phiên âm Hán Việt từ tiếng Quảng Đông. Hoặc:
Dầu chá kuảy, Du gia quỷ, Du tạc quỷ, Du thiêu quỷ, Dầu
thiêu quỷ… Dù nói viết có khác nhưng tựu trung đều
là: “Con quỷ bị chiên ở trong chảo dầu”. Nhạc Phi
là một danh tướng, một nhà quân sự tài ba, nổi tiếng
trong lịch sử quân sự Trung Quốc (1103 – 1142), bị vợ
chồng Tần Cối và Vương thị hãm hại. Như vậy là đủ
cho thấy kẻ phản bội, kẻ vô ơn - dù ở bất cứ nơi
đâu cũng bị nguyền rủa…!
Cuộc
chiến tranh (không đáng có) đã để lại thương tật
chết chóc cả triệu người của cả hai phía, làm suy
kiệt sinh mạng và cạn kiệt tài nguyên quốc gia trong
nhiều năm. Bởi từ chiến tranh du kích, khủng bố hay còn
gọi là “bạo lực cách mạng”. Cộng quân Miền Bắc
với việt cộng Miền Nam gây ra mà họ gọi là: “Vườn
không nhà trống” - "Lấy
nông thôn bao vây thành thị” - “Tiêu
hao sinh mạng và tài sản kẻ thù". Họ làm
y theo kế hoạch của ông Mao Trạch Đông thời đánh chiếm
Trung Hoa Dân Quốc của Tổng thống Tưởng Giới Thạch.
Số
quân nhân Miền Nam bị chết trận được Mỹ cho biết là
khoảng 280.000 người. Đó là chưa kể người dân hai miền
đã chết trong cuộc chiến khoảng 4 triệu người. Trong
số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa chết, có Bảy vị
tướng (Một Trung tướng, Ba thiếu tướng, Ba chuẩn
tướng). Đại tá có Mười Hai vị chết trận được
truy thăng Chuẩn tướng. Trước ngày sắp mất Miền Nam
đã có Năm tướng và một số Tá, Úy và quân nhân tuẫn
tiết.
Tướng
lãnh bị bắt đi tù “cải tạo” có Ba Mươi Bốn tướng
tính luôn những người đã giải ngũ. Gồm có Sáu Trung
tướng, Mười Một Thiếu tướng, Mười Bảy Chuẩn
tướng. Rất trân trọng và hãnh diện cho quân lực Việt
Nam Cộng Hòa có những vị tướng can trường tuẫn tiết
cũng như ở lại với thuộc cấp chiến đấu tới hơi
thở cuối cùng. Điển hình là Tướng Lê Minh Đảo, đã
chỉ huy trận chiến lừng danh cuối cùng tại phòng tuyến
lửa Xuân Lộc (Long Khánh). Tướng Lê Minh Đảo bị bắt
đi tù Mười Bảy năm. Tướng Lê Minh đảo nói “Nếu có
kiếp sau tôi vẫn là người lính Việt Nam Cộng Hòa”.
Câu nói đó của ông đã dược ghi trên nấm mộ của
ông. Ở trong tù có một vị Thiếu tướng chết, chết ở
trong trại tù Nam Hà. Những người “tù cải tạo” còn
sống sót được thả ra cho về nhà với biết bao thương
tật bịnh hoạn trong người… Việt cộng họ chỉ thả
chứ họ không bao giờ “tha”. Lý lịch “Ngụy tay sai
bán nước cho đế quốc Mỹ” như một bản án chẳng
những treo trên cổ của người lính bại trận mà còn
liên lụy tới vợ con anh chị em của người tù. Mang cái
lý lịch Ngụy đó thì hầu như mất tất cả quyền lợi
của một công dân bình thường ở trong cái xã hội mới,
xã hội chủ nghĩa.
Việt
cộng nói: “Việt
Nam Cộng Hòa là Ngụy tay sai bán nước
cho đế quốc Mỹ”! Tại sao nói ngang mà không hề
đưa ra “khế ước” hay “công hàm bán nước” của
bọn Ngụy để làm bằng chứng với người dân cũng như
thế giới và lịch sử...? Ngày xưa, Hoa Kỳ mua vùng đất
Alaska của Nga Hoàng - ngày nay là Tiểu bang rộng lớn
Alaska với rất nhiều tài nguyên thiên nhiên và cũng là
tiểu bang chiến lược về kinh tế, quân sự. Khế ước
Hoa Kỳ mua vùng đất băng giá đó của Nga Hoàng hiện
đang còn lưu giữ.
Tuy
nhiên, những con số chết chóc, bất công không thể so
sánh được với cảnh tang thương mà người dân Miền
Nam gánh chịu. Cảnh tang thương mất mác đó như một vết
chém sâu hoắm - cho dù vết chém đã liền da - đã liền
da nhưng vết sẹo vẫn còn nhức nhối dai dẳng ở trong
xương tủy... Và sẽ thành ung nhọt lở loét bởi thời
gian quá lâu mà không được xoa dịu hoặc một lời xin
lỗi. Đã vậy, lại còn làm cho vết chém càng thêm đau
đớn hơn nữa.
Từ
xưa cho tới nay kẻ viết lịch sử đều do bên chiến
thắng viết. Bên chiến thắng viết phần nhiều là thêu
dệt công trạng tưởng tượng của họ để mị dân, để
cho các thế hệ sau nghĩ rằng họ có chính nghĩa. Bên bị
thua trận thì hầu hết là mất tất cả, còn bị gán cho
nhiều cái tội vô cớ và cái gì xấu xa, tồi tệ nhứt
đều thuộc về kẻ thua trận…! Do đó, lịch sử do từ
ngàn người viết - thì họ viết rất chân thật, viết
rất chính xác - bởi chính họ là nạn nhân trực tiếp
hứng chịu quá nhiều đau khổ giày vò bởi kẻ “tiếm
danh” chiến thắng gây nên.
Mỗi
độ tháng tư về, trong lòng người dân Miền Nam cũng như
con cháu của họ đều luyến tiếc một thời sống trong
tự do no ấm. Người dân Miền Nam đâu có cần ai “giải
phóng”, bởi họ đã có đủ các quyền tự do căn bản
của một người công dân. Họ có quyền tư hữu trên
mảnh đất ruộng vườn nhà cửa từ đời ông cha để
lại. Không ai có quyền cộng tài sản của người khác
để nuôi sống cho một nhóm người cầm quyền độc
đoán.
Một
cuộc chiến tiêu diệt “tư
bản
giãy
chết”
– gọi là
“giải phóng”. Giải phóng nhưng không làm tốt hơn chế
độ đã bị
giải phóng. Cuối
cùng rồi cũng
phải chạy
theo tư
bản
giãy
chết
để tồn tại và
làm giàu bằng cách
xin gia nhập “WTO”.
(World
Trade Organization). Cộng
sản Việt Nam xin
gia nhập WTO vào
ngày 11/1/2007. Đó
là Tổ
chức
thương
mại
Thế Giới
tư
bản thị trường được
thành lập vào ngày 15/04/1994. Vậy
mà từ ngày
đó cho tới nay - đất
nước vẫn không thể
đi theo kịp đà
phát triển của các
nước trong khu vực Đông Nam
Á.
Từng lớp thanh niên
nam nữ đã
phải đi
ra nước ngoài làm thuê, ở đợ, lấy
chồng… - Truyền
thông, báo chí -
khuyến khích với câu nói khó nghe, đi:
“xuất
khẩu lao động”. Ông
Karl Marx, Triết gia người Đức gốc Do Thái, cha đẻ của
chủ nghĩa cộng sản, nói: “Kẻ
theo chủ nghĩa tư bản bị chúng ta treo cổ sau cùng, sẽ
là kẻ bán cho ta sợi dây thòng lọng mà ta dùng để treo
cổ nó”. Ông
Karl Marx nói đúng theo “cương lĩnh” lý thuyết ao ước
của ông. Nhưng chưa “treo cổ” được chủ nghĩa tư
bản thì lý thuyết cộng sản đã lụi tàn đã trở thành
dĩ vãng.
Chúng
ta không thể ngồi đó mà than van khóc lóc hay nuối tiếc
cho những gì đã mất. Chúng ta, những người yêu tự do,
yêu sự thật cùng nhau viết “lịch sử’ để kiện
toàn sự thật một giai đoạn lịch sử. Chúng ta không
thể thay đổi được lịch sử nhưng chúng ta làm sáng tỏ
lịch sử để hướng tới tương lai rạng rỡ tươi đẹp
hơn.
Đau
buồn cho đất nước
Liên Xô vĩ đại và các nước cộng sản Đông Âu sụp
đổ. Nhưng lại vui mừng cho các quốc gia đó đi theo tư
bản chủ nghĩa để được giàu có cũng như người dân
của họ được hưởng các quyền tự do căn bản của
Hiến chương nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Và hiện nay sau
mấy chục năm từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giờ đất
nước của các quốc gia đó đã giàu có, cường thịnh.
Mỗi
độ tháng tư về thương nhớ biết bao nhiêu! Đã
nửa thế kỷ trôi qua mọi việc đã phơi bày rõ ràng ra
đó và mọi người dân cũng đã quá biết, quá hiểu về
thực trạng của đất nước… Là người Việt Nam dù là
ở bất cứ nơi đâu; dù là công dân tỵ nạn mang quốc
tịch các quốc gia nơi định cư nhưng trong tâm lòng vẫn
luôn hướng về quê nhà - nơi đã sinh ra, đã sống, đã
học hành… Do đó luôn ước vọng rằng đất nước giàu
mạnh và người dân được các quyền tự do tối thiếu
cũng như quyền tư hữu trên mảnh vườn ngôi nhà của
chính mình.
Ông
thống Đại Hàn Dân Quốc, Park Chung Hee, nói: “Kinh
tế phải đi trước chính trị,
người dân không thể nhai khẩu
hiệu để sống”.
Trong
"The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George
Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói:
- "Những kẻ
nào không nhớ đến những chuyện xảy ra trong quá khứ
thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh tái diễn lịch
sử".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét