QUÁN
CŨ
Quốc
vài
tĩn khơi men tình trở-giấc,
Vọng
về tim mây trắng nhạn la-đà.
Chị
tôi là em dâu của chủ xưởng cưa lớn
nằm ngay góc của hai con đường Lê Thánh Tôn và đường
Phủ Mô. Mặt trước xưởng cưa xây ra hướng đường Lê
Thánh Tôn. Đối diện với xưởng cưa - phía bên kia đường
là đám ruộng rau muốn, ao cá và Nhà Đèn của tỉnh
KonTum. Đường Phủ Mô bắt đầu từ đường Lê Thánh
Tôn, chạy qua ngã tư đường Ngô Quyền đến ngã ba đường
Nguyễn Huệ là cuối đường. Nơi góc ngã tư đường Phủ
Mô với đường Ngô Quyền, có - "Quán Thịt Chó Hương
Giang".
Nhà
chị tôi nằm trong khuôn viên của xưởng cưa, quanh xưởng
cưa được rào giậu bằng cọc sắt, dây kẽm gai cao
ngang đầu. Nhà chị nằm sát mé rào đường Phủ Mô, mặt
nhà hướng ra đường Lê Thánh Tôn nhưng thụt vô trong
chừng ba chục thước. Trước mặt nhà chị tôi còn có
một ngôi nhà khác nữa, cũng hướng ra đường Lê Thánh
Tôn. Nhà nầy có một cô con gái rất xinh đẹp, đang học
ở trường trung học Hoàng Đạo. Mỗi khi tôi ghé nhà anh
chị, buổi sáng mở cửa ra tập thể dục trước sân là
thấy phía sau lưng nhà của cô ấy. Hẳn nhiên là thấy
cô ấy... bởi chỉ cách nhau cái hàng rào kẽm gai... Tôi
chỉ nhìn trộm chứ không dám lân la làm quen bởi cô ấy
quá lộng lẫy, kiệu sa...
Trong
xưởng cưa, những chiếc xe be kéo gỗ súc về chất đầy
lấp cả lối đi, đôi khi đi vô nhà phải trèo qua những
súc gỗ to dài. Sau khi anh rể chết, chị xin mở một cái
cổng nhỏ ra đường Phủ Mô để đi lại cho tiện nhưng
xưởng cưa chưa đồng ý. Chồng của chị đi theo xe be vô
rừng khai thác gỗ cho xưởng cưa Phước Thịnh nhiều
năm. Một buổi chiều mưa rừng, gió núi... - Chồng chị
chết bởi cánh quạt máy bay trực thăng của Không Lực
Hoa Kỳ đang hành quân. Từ xa xưa quốc lộ mười bốn
[14], rừng già phủ kín ra sát mép đường. Thú rừng:
nai, mang, mễnh, heo rừng, cọp, voi... nhiều lắm. Chiến
tranh càng ngày càng mở rộng, chính quyền lúc bấy giờ
họ mới cho phát quang từ mép lộ mỗi bên rộng ra ba
mươi thước để cho máy bay trưc thăng dễ dàng đổ
quân. Chồng chị tôi chết là do ngồi trên bên trên nóc
xe be chở gỗ đi về trong lúc trời mưa. Chồng chị tôi
chết để lại bầy con ba trai hai gái còn nhỏ!
Chồng
chị tôi chết, chị vẫn được ở trong khuôn viên xưởng
cưa như cũ, chị không đi vô nhà bằng cổng chính phía
đường Lê Thánh Tôn như trước nữa. Chị kêu tôi về,
chị biểu mở một cái cổng nhỏ hướng ra đường Phủ
Mô và làm cửa có khóa chắc chắn, đồng thời cũng phá
vách gỗ nhà, mở cửa chính để đi ra đường Phủ Mô.
Đường Phủ Mô, đoạn từ đường Lê Thanh Tôn đến ngã
tư Ngô Quyền - một bên là xưởng cưa Phước Thịnh, còn
một bên là nghĩa địa, mỗi ngày mở cổng là thấy
nghĩa địa. Con đường Phủ Mô nhỏ, có trải nhựa nhưng
đã quá lâu nên bong tróc, hai bên đường mọc đầy loại
cây dã quỳ, hoa nở có màu vàng tươi rực rỡ…! Do đó
người ta gọi là dã quỳ hoa vàng, màu vàng kiêu sa...
Tôi
là dân KonTum, ở lâu năm vậy mà không biết quán thịt
chó Hương Giang cho tới một hôm tôi và thằng bạn cùng
công tác chung đơn vị hành chánh, hắn rủ đi câu lươn
với hắn ở mấy cái ao cá, ao rau muống chung quanh nhà
Máy Đèn. Tôi nói ra vậy thì chắc không mấy ai tin, bởi
ở giữa tỉnh ly KonTum làm gì có lươn để mà câu? Chính
tôi cũng không tin. Vậy là tôi đi theo thằng bạn.
Thằng
bạn, hắn có cách câu lươn ngộ lắm. Hắn không xài cần
câu dài, chỉ có một cái que tre bằng chiếc đũa dài
chừng năm sáu tấc... Hắn cắt lấy một đoạn dây dù
rút ra một sợi nhỏ khoảng một thước, hắn lại tháo
cái băng đạn "carbine" cũ lấy ra cái lò xo, dùng
kèm cắt một đoạn uốn thành cái lưỡi câu rồi buộc
dây dù vô lưỡi câu. Mồi làm để câu lươn là mấy con
trùn khoan cổ. Ở chung quanh nhà Máy Đèn vì lý do an ninh
nên được rào giậu kỹ càng. Chung quanh mấy ao cá cũng
có hàng rào kẽm gai nhưng sơ sài. Thằng bạn bày cho tôi
biết cái "mà lươn", cứ nhìn dọc theo bờ ao hễ
thấy chỗ nào có nhiều cọng rác nhỏ tụ lại hay bọt
nước phập phều, mặt nước hơi xoay xoáy là chỗ đó
có "mà lươn", mà lươn, tức là là chỗ con lươn
làm hang để ở.
Cái
lưỡi câu lươn thằng bạn đã móc mồi sẵn, sau đó cho
lưỡi câu dính vô đầu que tre, đầu dây không lưỡi câu
thẳng song song với cái que tre, đồng thời ngoéo vài ba
vòng vô ngón tay trỏ giữ cho khỏi tuột. Từ... từ...
thọc cần câu que tre đó xuống nước chỗ nghi có cái
"mà lươn", tay còn lại cho xuống mặt nước
chừng vài ba phân, búng: tróc... ! tróc...! tróc...! Con lươn
ở trong hang nghe tiếng động tưởng có con mồi nên thò
đầu ra, ngửi phải mùi tanh của trùn là ngoạm cục mồi
kéo chạy vô trong hang. Lúc nầy chính là lúc hồi hộp và
thú vị...! Ngón tay trỏ nhanh chóng buông lơi sợi dây và
cái cần để cho con lươn thong thả kéo mồi, đợi chừng
ba bốn giây đồng hồ, sau đó ngón tay trỏ cũng từ từ
kéo sợi dây thẳng ra, khi đã cảm nhận biết con lươn
đã dính lưỡi câu... Đây là lúc quyết định thắng
thua, ngón tay trỏ ngoáy dầu sợi dây lại vài ba vòng nữa
cho chắc chắn, sau đó giật giật sơi dây rồi buông
lỏng, giật làm vài ba lần như vậy con lươn sẽ bị đau
hàm. Tới lúc nầy mới kéo thật căng sợi dây câu - con
lươn chịu đau không thấu phải thả mình theo ra khỏi
hang. Nói thì lâu nhưng mọi thao tác chỉ chừng khoảng
một phút.
Mỗi
tuần chúng tôi đi câu hai lần, lúc bốn giờ chiều, [kể
từ năm một chín bảy mươi ba, chính phủ cho phép viên
chức hành chánh làm luôn giờ trưa và nghỉ lúc bốn giờ
chiều]. Chủ ao cá biết chúng tôi câu lươn, nhưng họ
không xua đuổi; họ có vẻ như ngầm khuyến khích vì con
lươn đào hang lâu ngày, tạo thành nhiều lỗ mội làm vỡ
bờ ao. Mỗi buổi chiều đi câu kiếm cũng được vài ba
con lươn đem về nhà thằng bạn. Thằng bạn có tài nấu
nướng, hắn làm món lươn bọc lá lốt bỏ vô bẹ chuối
đem nướng lửa than. Một bữa nọ, ngồi câu hoài chẳng
có con lươn nào. Thằng bạn rủ tôi đi nhậu thịt chó.
Hắn nói có quán thịt chó ngon lắm, tao hay ghé nhậu.
Tôi
không ngờ quán thịt chó Hương Giang chỉ cách nhà chị
tôi chừng sáu bảy chục thước mà bấy lâu nay tôi không
hề hay biết, kể ra tôi cũng quá vô tình. Ông chủ quán
nói giọng Huế tướng cao ráo đẹp lão, khuôn mặt hiền
hậu, ông có hai người con gái, một người con trai út,
cả ba người đều đẹp gái, đẹp trai! Giọng Huế họ
nói nghe sao mà ngọt như đường phèn. Quán nhậu rộng
rãi, sạch sẽ, ở phía trước quán, dây lá mơ leo phủ
kín hàng rào hàng chục thước, cao quá đầu người. Lá
mơ người ở trong Nam gọi là lá thúi địt. Quán thịt
chó có điện tích rộng rãi, thoáng mát, có tầng gác
lửng, quán cũng là nhà ở nên cách bày trí thật ấm
cúng, thân thiện, khách ghé nhậu có cảm giác như ngồi
ở trong nhà của mình hoặc nhà người bà con và người
quen biết. Đặc biệt hơn nữa là cách tiếp khách của
ông chủ quán cũng hơi lạ. Ông chào đón khách nhậu rất
niềm nở như là bạn hữu thân tình lâu ngày mới gặp.
Do đó khách ăn nhậu rất mến, nên thường xuyên lui
tới...
Tôi
biết ăn thịt chó là do cha tôi tập cho ăn, nhưng tôi ăn
không mạnh miệng cho lắm, hình như cha tôi cũng vậy.
Ngày trước ở miền Nam thịt chó phải nói là ít người
ăn, ít người mở quán bán thịt chó trừ bà con từ
ngoài Bắc di cư vô nam năm một ngàn chín trăm năm mươi
tư, thờ đệ nhứt cộng hòa
Nói
thật, các món thịt chó ở quán Hương Giang rất ngon,
ngon hơn nhóm mấy ông bạn già của cha tôi nấu mà tôi
đã từng có dịp được thưởng thức. Mỗi lần tới
nhậu ở quán thịt chó Hương Giang tôi lại nhớ đến
cha tôi, tôi muốn chở cha tôi tới quán ăn thịt chó một
lần cho ông biết để mà so sánh cung cách nấu mỗi nơi
mà học hỏi. Tôi cố tìm một lý do nào đó để thuyết
phục ông ra khỏi nhà đi xuống phố thị ăn uống, thăm
thú một vài nơi cho thoải mái. Thương ông ngày lại ngày
cứ chăm băm vô ruộng rẫy kể ra cũng thiệt thòi, đã
mấy lần tôi gợi ý nhưng đều thất bại, bởi cha tôi
không bao giờ chịu ra ngoài quán. Ông đã quá quen cảnh
"cơm nhà áo vợ"! Nhà tôi ở tận DakTo, cách thị
trấn KonTum gần bốn mươi cây số, muốn chở ông đi
phải chở bằng xe Hon-Da...
Tôi
về thăm nhà và nói dối với cha tôi rằng:
-
Cha
ơi! Chị con bịnh mấy bữa rày, hôm nay con về con chở
cha xuống phố thăm chị, thăm các cháu luôn. Cha có đi
được không?
Chỉ
có lý do "hợp lệ" đó - cha tôi mới chịu đi ra
khỏi nhà. Dĩ nhiên là tôi đã "xi-nhan" trước
với bà chị rồi. (Chị tôi là con nuôi của cha mẹ tôi,
nhưng tôi, các em tôi đều kính trọng, thương yêu và xem
chị như là chị hai của mình).
Ngày
xưa mấy ông già đi ra khỏi nhà là phải ăn mặc trịnh
trọng - khăn đóng, áo dài, tay cầm dù. Cha tôi cũng không
ngoại lệ đó. Buổi sáng tôi chở cha tôi đi, ông ngồi
phía sau xe ôm hông tôi cứng ngắt, lưng và đầu của ông
ưỡn ra phía sau thẳng băng. Tôi chạy nhanh một chút là
bị rầy rà... Đoạn đường có bốn chục cây số mà
tôi chạy mất hơn hai giờ đồng hồ mới tới.
Chị
tôi giả giọng - nói như người bịnh mới khỏi:
-
Cha... xuống... xuống thăm con, con bịnh mới vừa
mới khỏi, còn... mệt mỏi lắm, không thể nấu nướng
chi được.[chị tôi giả đò ho…]. Thôi thì,...
cậu út mời cha, ra... ra... quán Hương Giang nhậu một
bữa... bữa thịt chó cho đã đời! Chiều nay con Lệ con
của con nó đi học về, con sai nó... đi ra chợ KonTum mua
vài thứ làm mấy món đãi ông ngoại! [chị tôi
giả đò ho húng hắng...]
Nghe
chị tôi giả giọng người bị bịnh, tôi bụm miệng ngó
lơ vì sợ lỡ mà tôi cười, thì chị tôi cũng phải cười
theo thì sẽ bể mánh, lòi chành té bứa ra hết.
Nghe
đi nhậu thịt chó cha tôi hơi ngập ngừng vài giây, rồi
nói như là hờn trách:
-
Cha rất bận rộn việc ruộng rẫy, để một mình
mẹ con ở nhà cha không yên tâm. Ba nghe thằng út nói con
bị bịnh cha mới xuống thăm, sáng mai cha về, cha xuống
thăm con gái bị bịnh và mẹ con có gửi cho con trái cây
với đậu nếp - chứ không phải xuống phố để đi nhậu
thịt chó.
Chi
tôi phân trần từ... từ... lại giả giọng người bị
bịnh:
-
Nhưng... thưa cha!... Ở nhà đâu có chi mà...mà ăn
đâu, lâu lâu cha xuống phố thì cũng phải đi ăn, đi
thăm viếng một vài nơi để cho biết với người
ta. [chị tôi giả đò ho... ]. Ngày mai về
lại trên nhà cha còn có chuyện để mà kể với mấy ông
bạn của cha chứ? Thị trấn KonTum nầy duy nhất chỉ có
một cái quán thịt chó Hương Giang rất nổi tiếng đó
cha... [chị tôi giả đò ho...].
Cha
tôi nói giọng hơi nghi ngờ:
-
Con
gái!...
Con không ăn thịt chó mà sao con rành dữ vậy?
-
Dạ…,
con không ăn được thịt chó, nhưng... nhưng... chủ quán
thịt chó Hương Giang là người Huế - con quen biết họ
lâu nay.
Hú
vía...! Màn kịch chị tôi diễn quá hay, đã hạ màn! Chị
tôi nháy mắt, hất hàm... ngụ ý biểu tôi dẫn cha đi
cho mau...! Đi cho mau...! Tôi biết hai cha con tôi đi rồi
chị tôi sẽ lăn kềnh ra mà cười, cười lăn lóc…!
Như
đã nói từ đầu, quán thịt chó Hương Giang có hai người
con gái và một người con trai. Hai người con gái đẹp
tựa như hằng nga, cô em có chồng trước, chồng là sĩ
quan trung úy, cậu em đi lính và cũng có vợ. Duy nhất chỉ
còn cô chị chưa có chồng, chưa có chồng là do cô ấy
chưa muốn có chồng chứ khối gì anh chàng đẹp trai tới
quán ăn nhậu trồng cây si! Tôi có kéo bạn hữu đến
nhậu, họ hay cắp đôi tôi với cô chị, chỉ là cắp
đôi thôi, riêng tôi và cô ấy (âm thầm) quen nhau rất là
thân mật. Thời gian sau nầy cả nhà đều biết và hình
như ngầm khuyến khích tiến xa hơn. Chuyện nầy sẽ nói
sau vậy.
Tôi
và cha tôi đi bộ tới quán, ông mặc quần rộng, áo bà
ba, khăn rằn vắt vai. Tới quán tôi dẫn cha tôi đi tuốt
vô cái phòng phía sau, nơi đó chỉ có hai cái bàn, có cửa
sổ lớn nhìn ra vườn hoa với nhiều loài hoa kiểng; có
mấy cái lồng chim. Khung cảnh rất hữu tình lại ấm áp,
kín đáo.
Cha
vỗ vai tôi nói:
-
Này con…! Ở nơi đây là nhà của ai vậy? Trông
chẳng giống quán sá chi...?
Tôi
hãnh diện nói:
-
Cha yên tâm! Đây là quán, và cũng là nhà ở của
một người quen, bữa nay cha tạm quên hết mấy đám
ruộng rẫy đi đó, cha con mình thoải mái cụng ly tâm
tình cho thật sảng khoái...! Nhậu xong, con sẽ chở cha đi
dạo một vòng quanh phố và ra bờ sông DakBla ngồi hóng
mát!
Cha
tôi rất giỏi chữ Nho, chữ Việt, cha tôi học hỏi
từ
ông nội của tôi. Trong kho tàng chữ nghĩa của ông "tân
- cựu" lẫn lộn tùng phèo, nhưng cha tôi vẫn gìn giữ
văn chương truyền thống, (ông
là người yêu nước, yêu quốc gia dân tộc).
Ông chưa một ngày làm quan hay làm thầy. Bà con, bạn hữu,
người trong làng chỉ biết cha tôi là một ông nông dân
hiền lành, thật thà chất phát quanh năm sống với ruộng
rẫy.
Cha
tôi vừa ăn uống vừa hỏi tôi có hiểu ý nghĩa câu:
-
"Đi
một ngày đàng học một sàng khôn" ?
Tôi
quá biết câu đó, nhưng để hiểu ý nghĩa sâu xa thì mù
tịt.
Cha
tôi chậm rãi phân tích:
-
Tại sao người xưa không nói đi một ngày đàng học
một "thúng" khôn? Bởi vì, đi một ngày đàng
thấy cái chi cũng mới lạ mà ham hố gom đầy một thúng,
gánh không nổi, học không hết, do đó ông bà ta ngày xưa
phải dùng cái sàng, sàng như sàng gạo, sàng bỏ bớt cái
không cần cần thiết, chỉ giữ lại cái hữu ích trên
sàng để học cho mau nhớ.
Trên
bàn nhậu, chưa hẳn là chăm bẳm - ăn no, uống say, gây
sự rồi lăn kềnh ra ngủ mà còn học hỏi được nhiều
chuyện.
Tôi
đã học được cái hay từ bàn rượu với cha tôi.
Trong
bữa cơm tối, chị tôi hỏi cha:
-
Cha
nhậu thịt chó ở quán Hương Giang có ngon không hở
cha? (tự
dưng chị tôi bớt bịnh).
Lần
đầu tiên tôi mới thấy thấy cha tôi gật đầu, khen:
-
Thịt chó ở quán Hương Giang rất ngon! Khung cảnh
trong quán có cảm giác khá thân mật, mới lạ, ngồi ăn
nhậu mà ngỡ như ngồi ở trong nhà của mình.
Cha
tôi không bao giờ uống rượu để cho say mèm. Ông nói
rằng người có học vấn, có tiếng tăm, có địa vị
trong xã hội mà để cho rượu làm cho đầu óc quay cuồng
tới nỗi nằm đường, nằm sá như vậy là đánh mất
hết danh dự, đánh mất hết nhân cách... Bữa nhậu hôm
nay hai cha con chúng tôi uống hơi nhiều nhưng biết dừng
lại đúng lúc. Giữ lời hứa. Tôi chở cha đi dọc theo
đại lộ Nguyễn Huệ, tới nhà thờ Tân Hương dừng lại
cho cha ngắm vài ba phút. Tôi chạy ra cầu DakBla, nơi có
Câu Lạc Bộ Thanh Niên. Tôi chạy vòng qua trường Trung
Học Hoàng Đạo, tới Hàng Keo trên đại lộ Lê Thánh Tôn
ngồi uống nước... Tôi dẫn cha đi vô Chợ Lồng KonTum
mua vài ba thứ cho cha. Tôi chở cha đi trên đại lộ Lê
Thánh Tôn để cho cha biết Tòa Giám Mục. Tôi chở cha tôi
ra hướng phi trường KonTum, quay về Tòa Hành Chánh Tỉnh
để trở về nhà.
Trưa
hôm sau tôi chở cha tôi về nhà trên làng Diên Bình,
DakTo. Tôi cũng không quên mua vài ba món thịt chó. Tôi
hiểu ý cha, ý cha tôi muốn mua thịt chó để đem về cho
mẹ tôi. Lúc chia tay trở lại phố, cha không nói một
tiếng, ông chỉ - vỗ... vỗ…, mấy cái vô lưng tôi rồi
quay trở vô nhà. Tôi rất thấu hiểu cái vỗ nơi lưng đó
ẩn chứa rất nhiều hàm ý.
Tôi
thương kính cha, một đời ông miệt mài quanh năm với
ruộng rẫy bên
dòng sông Dakpsi; với
con suối nước chảy quanh năm sau vườn nhà; với vườn
chuối đám rau và hai cái ao nuôi cá - để
nuôi bảy
người con
thành người. Tính cha tôi không muốn làm phiền con cái,
bất cứ việc gì, ông
làm được là ông tự
làm
chứ không sai khiến hay nạt nộ con
cháu.
Quần áo, giày dép các cái đều do mẹ tôi may sắm kể
cả hớt tóc mẹ tôi cũng làm thợ hớt tóc
cho ông!
Trong việc ăn uống mẹ tôi nấu món gì thì ông món đó,
ăn sạch hết một cách ngon lành, không khen, không chê.
Có
lần cha con tôi ngồi uống rượu, tôi hỏi nhỏ cha tôi:
-
Cha ơi, sao cha cứ "cơm nhà áo vợ", lại
không nghe cha khen mẹ lấy một câu?
Cha
tôi trầm ngâm..., hình như ông quay về với kỷ niệm
tình yêu một thời của hai người. Uống cạn phần rượu
còn lại trong ly, cha tôi nói như là tâm sự:
-
Khen hay chê đó là bày tỏ bằng lời nói, khen chê
với tâm lòng thành thật, xây dựng thì không nói làm
chi, (có đôi khi còn bị hiểu lầm), còn khen chê một
cách hời hợt, đẩy đưa thì tốt nhất là im lặng.
Người chồng cứ nằm thẳng cẳng đọc báo để vợ
mình nấu cơm canh xong xuôi rồi lại mời tới ăn, ăn no
say bỏ đũa đứng dậy thậm chí uống trà cũng đợi có
người bưng mời. Trong khi hai vợ chồng đều đi làm quần
quật như nhau! Vậy lời khen "ngon, đẹp" đó -
người vợ có cảm nhận bằng tình cảm trọn vẹn được
không? Hay là người vợ cảm nhận lời khen một cách
miễn cưỡng! Nhà mình sống về nghề nông tang, cha và mẹ
con đều ra đồng. Ở trong vườn, trong nhà còn nuôi heo,
nuôi gà…, công việc bù đầu làm không xuể nhưng phải
làm, lúc trước các con còn ở nhà đi học về cũng phải
phụ việc nữa là. Cha không nỡ dùng cái quyền "gia
trưởng" nằm nghỉ để cho mẹ con vất vả chuyện
bếp núc, chuyện heo, gà... Cha không nấu ăn được thì
cha cũng phải tham gia bằng cách xách nước đổ đầy lu,
vại, bửa củi, rửa rau…, xúm nhau làm rồi bày biện ra
mà ăn, sau đó cùng nhau dọn dẹp cho xong để mà còn nghỉ
ngơi! Chính sự san xẻ công việc thường ngày đó là cái
nghĩa, cái tình giá trị còn gấp vạn lời khen sáo rỗng.
Trốn vợ ra ngồi ngoài quán ăn nhậu là không công bằng.
Cha
tôi tiết lộ cho tôi rằng “Tên cha còn lưu trong gia phả
ở nhà thờ tự, ghi bằng chữ nho. Con học chữ nho để
dịch tên của cha, cha có hai tên”.
Đó
là một vài kỷ niệm điển hình về cha tôi. Cha tôi chết
bởi loạn lạc chiến tranh chưa tìm ra xác! Chị tôi cũng
chết sau cha tôi vài năm, ngôi mộ chị nằm bên mé đường
Phủ Mô gần nhà, sau năm một chín bảy mươi lăm nhà cầm
quyền di dời nghĩa địa, mãi sau nầy tôi mới được
cháu Long con trai lớn của chị kể lại cho tôi hay:
- "Cậu ơi, ngày con hay tin di dời nghĩa địa,
trong lòng con lo lắm! Tìm chỗ khác để cải táng mộ mẹ
cho được bảo đảm thì con không lo, con lo là mẹ con
chết mới ba năm con sợ thi hài mẹ chưa phân hủy hết,
nhà lại không có tiền, anh em chúng con mấy năm nay đi
mỗi đứa mỗi phương trời kiếm sống. Ngày bốc mộ
mẹ, con tháo mấy tấm ván vách cũ đóng cái quách. Đào
mộ mẹ con ra, ván hòm chưa mục hết, thân mẹ con phân
hủy cũng chưa hết, còn bốc mùi hôi…! Hai chân mẹ còn
da bọc xương teo tóp, cái quách thì nhỏ!".
Ngồi
nghe cháu Long kể... - nước mắt tôi trào ra lúc nào cũng
chẳng hay. Vài năm sau cháu Long của tôi cũng đi theo mẹ
nó!
***
Chiến
tranh vây phủ KonTum với những trận đánh lớn - người
dân đi di tản, tình hình yên ắng lại trở về, rồi lại
ra đi tiếp, cảnh chia ly mãi luân hồi theo năm tháng dây
dưa không biết đến bao giờ mới chịu ngưng. Gia đình
anh chị em tôi cũng chung hoàn cảnh, mỗi người mỗi nơi
chưa biết ngày nào sum họp! Còn cha tôi thì ông đã chết
sau khi mất quận DakTo. Trong khói lửa mịt mù, cha tôi
chết nhưng không biết ông chết ở chỗ nào!
Ngày
cha và chị tôi còn sống, tôi cùng bạn hữu vẫn tới
quán thịt chó Hương Giang nhậu lai rai, sau biến cố tang
thương của gia đình, tôi chẳng có hứng thú chuyện nhậu
nhẹt, một số bạn hữu đổi đi xa hoặc chết trận,
một phần nữa là công tác bù đầu bù cổ! Thỉnh thoảng
tôi mới ghé thăm quán cũ, thăm cô con gái của ông chủ
quán! Thành thật mà nói thì trong lòng của tôi có nhớ
cô lắm. Mỗi lần tôi ghé lại quán cả nhà ai có mặt
bữa đó đều vui mừng. Thú thật là tôi chẳng thích ăn
thịt chó nữa, tôi tới quán chỉ vì thầm yêu cô con gái
lớn chưa chồng ở quán Hương Giang. Tôi chưa một lần
nói tiếng yêu với cô ấy. Tôi hiểu hoàn cảnh tan nát
mất hết đất đai nhà cửa của gia đình tôi, tôi không
biết dựa vô đâu để tính chuyện yêu đương cũng như
lập gia đình. Tôi sợ một khi nói ra lời tỏ tình yêu
thương sẽ là một “thảm họa” cho tôi và cô ấy, vì
không biết lượng giá… Tôi và cô ấy lâu nay chỉ là
một đôi bạn rất thân mật, thân tình! Tôi cảm nhận
cô ấy có thầm yêu tôi, cô yêu thầm lặng, là phận gái
làm sao dám thổ lộ. Tựu trung, tôi cũng chỉ là một
người "khách nhậu thịt chó hiền lành, thân
thiện"! Có những lúc ở bên nhau cô ấy
kể tỉ mỉ cho tôi biết về Huế; về dòng sông Hương
Giang với cây cầu Tràng Tiền, lăng tẩm và những câu
hò, điệu hát cung đình của xứ Huế.
Cuộc sống thời tao loạn, sống nay chết mai sau mỗi buổi sáng
thức dậy thấy còn sống là diễm phúc. Người con trai,
là người lính cũng giống người xưa, mượn rượu giải
sầu. Tôi có đọc bài thơ của thi sĩ Đỗ Mục thời
Trung Đường mà xót thương “nỗi buồn chiến tranh”
của ngày xưa có khác chi thời nay.
Khiển
Hoài - Đỗ Mục
Lạc
phách giang hồ tái tửu hành,
Sở
yêu tiêm tế chưởng trung khinh,
Thập
niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh
đắc thanh lâu bạc hãnh danh.
Trang
Y Hạ (Tạm dịch):
Khơi
Mối Cảm Hoài
(Lạc
nhịp giang hồ uống rượu say,
Eo
thon kỹ nữ nhẹ trong tay.
Mười
năm chợt tỉnh Dương Châu mộng,
Được
tiếng thanh lâu uổng danh thay).
Phải
chăng cuộc đời của tôi, của cha tôi cũng đã “lạc
phách” từ lâu trong cuộc chiến tranh dai dẳng?!
Bất
chợt cô bạn
gái hỏi tôi có muốn nghe cô hát không? Đôi mắt của cô
nhìn ra khung trời có khói sương của chiều tàn. Tôi chưa
kịp trả lời thì cô đã cất tiếng hát.
Cô
hát tiếng
nho nhỏ vừa
đủ cho
tôi nghe một vài ba ca khúc viết
về
xứ Huế mộng mơ của cô! Giọng cô ấm áp, cô trình bày
nhạc phẩm thật truyền cảm…! Tôi
chỉ nhớ có mấy câu:
"Hương
Giang, thuyền không chỗ đậu,
Ngự
Viên có bướm hoa vàng.
Hay
là hài xưa in dấu,
Đưa
người đẹp ấy sang ngang…" *
Cô
còn hát “Mưa Trên Phố Huế”. (Mưa trên phố Huế hay
là mưa ở trong lòng cô, trong lòng tôi). Tôi ngồi
nghe cô hát, cô hát như chưa bao giờ được hát. Giọng
Huế trong veo dập duềnh làm cho hồn tôi chao đảo…! Tôi
mường tượng về nơi xứ thần kinh với rất nhiều đền
đài, lăng tẩm, cung điện ở kinh đô "Chín Chúa Mười
Ba Vua" nhà Nguyễn. Tôi hối tiếc và tôi rất ân hận
là chưa thể, không thể "đưa người đẹp ấy
sang ngang" để cùng nhau đi cho trọn cuộc tình!
Chúng
tôi vẫn giữ tình bạn thân thiết của nhau cho đến ngày
tất cả đều rời bỏ KonTum, chạy xuống Pleiku, theo đoàn
quân "di tản chiến thuật". Sau ngày một chín bảy
mươi lăm, tôi bị "đày ải" nhiều năm. Ngày tôi
trở về tóc đã là “sương trắng miền quê ngoại”,
gia tài là tấm thân cách trí với hai bàn tay không - sinh
sống ở một nơi rất xa xôi khác và hơn nữa - trong lòng
tôi ôm một tâm trạng của con chim rừng sợ cây cong
không dám đối diện khung trời thơ mộng cũ ấy. Bây giờ
tình yêu sự nghiệp chỉ là giấc mơ xa vời vợi, nhưng
trong tâm lòng tôi luôn nghĩ về cô ấy; nghĩ về kỷ niệm
êm đềm như một bài thơ, bài thơ mà tôi đã từng làm
và ngâm cho cô nghe.
Bậu
còn ngồi xõa tóc ở trên đồi
se
se lạnh vuốt dung nhan đằm thắm
hoa
quỳ rựng một rừng vàng thăm thẳm
nét
kiêu sa lộng lẫy điểm chiều hoang
Hoa
quỳ lay gọi nắng dẫn lên ngàn
ngây
thơ gọi gió lùa rung bím tóc
hoa
cố nở bên triền đồi đá trọc
kỷ
niệm trôi về quanh quẩn bên chân.
Hàng
cây dã quỳ hai bên con đường Phủ Mô nơi nhà chị tôi ở, và nhà nàng ở - chắc hẳn
bây
giờ vẫn
còn nhớ người xưa mà nở rộ khoe
màu vàng lộng lẫy kiêu sa?! Kiêu
sa như người con gái mà tôi thầm yêu thuở trước! Tôi
nhớ cô ấy lắm! Không
rõ cô ấy bây chừ lưu lạc ở nơi mô? Chết hay sống?
Gia đình cô có còn ở lại KonTum hay là trở về lại nơi
xứ Huế thơ mộng? Và
cô đã có chồng con gì
chưa?
Biết
bao nhiêu câu hỏi mà nào có ai đủ thẩm quyền để
trả
lời cho
tôi.
Tôi lại nhớ mấy câu ca khi xưa cô đã từng hát cho tôi
nghe, trong những giây phút thần tiên mỗi khi được ngồi
bên nhau tâm sự.
" Hỏi
em rằng, em ở ngoài ấy ra sao
Má
xưa còn thắm, còn thắm hoa đào
Mắt
xưa còn xanh màu biếc
Nụ
cười có đẹp trăng sao…" *
Tôi
xin
được hỏi cô
một câu:
-
Em
có...
“Bao
Giờ Em Quên?*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét