CHIÊM NGHIỆM
Lên thiên đình tấu với trời
lòng cung dưỡng đã có lời cõi xa
xuống địa-ngục vẫn cứ là
lòng cung dưỡng vốn nở hoa đón chào.
Ông Trời ngước mắt vì sao
Diêm Vương cúi mặt, đi vào đi ra
thân tâm, quán-trọ-ta-bà
chắp tay chiêm-nghiệm thấu ba bốn chiều.
LỜI GIÓ MƯA:
“Con
người là sinh vật chính trị”. (Aristole).
Do đó, những ai không
quan tâm tới chính trị, tránh né chính trị là tự làm
hại chính mình.
Các bậc Cha Mẹ sinh
con ra đời đã yêu thương nuôi dưỡng và cho học hành
nên người, công ơn đó người con phải có trách nhiệm
lo phụng dưỡng khi cha mẹ trở về già nhằm đền đáp
công ơn sinh thành. Đó gọi là “ĐẠO” làm
con. Tất cả sinh vật trên trái đất cần phải ăn uống
mới tồn tại, con người cũng vậy, dù (đi tu hay không
đi tu). Đối với Chư Tăng thuở xưa mỗi khi đi khất thực bá
tánh cảm nhận ra rằng phải có (trách nhiệm thiêng
liêng) cung cấp thực phẩm, hoa quả, đồ dùng cho các vị.
Các vị đi chân trần, mặc áo Cà Sa màu vàng trang
trọng, tay bưng Bình Bát, (Bình Bát) là vật dụng thiết yếu chỉ được làm bằng gốm, kim loại thường. Không được làm bằng trái bầu, sọ người, vẽ hoa văn và phải có nắp đậy. Chư tăng một khi đã về
già hay viên tịch, có thể truyền "y bát" cho đệ tử thân tín
tiếp tục hành đạo.
Chư Tăng đi khất
thực, đi trong âm thầm lặng lẽ, mặc cho: - mưa, nắng,
gió, sương... Bá tánh cho thứ gì các
vị nhận thứ nấy chứ không mở miệng yêu cầu và chỉ nhận
vừa đủ. Hành khất là suy nghiệm chứng kiến nỗi đau của thế nhân “Dục yêu nhân bất tử, tiên tác hoạt tử
nhân”. Nghĩa là (Muốn thành kẻ bất tử, trước hết
hãy sống như người chết). Bá tánh cung dưỡng là “thiện
nguyện, thiện tâm” chứ không hề ràng buộc, bắt buộc
với bất cứ điều luật nào của đạo và đời. Bá
tánh cung dưỡng chỉ chắp tay cúi đầu, chứ không quỳ
lạy Chư Tăng ở bất cứ nơi nào. Tại sao phải chắp
tay cung kính? Bởi các Chư Tăng đi “khất thực” là đại
diện cho tinh thần - “chánh đạo, chánh tín,
chánh niệm” nhằm thấu hiểu nỗi khổ đau từ kiếp
nhân sinh, vì lý do đó bá tánh không nên vì quá "ngưỡng mộ" đi theo gây trở ngài cho các vị. Đi khất thực khác với đi “ăn mày”. Bá
tánh cung dưỡng, bố thí phải có thiện tâm, có lòng cảm
thương. Người xưa, nói: “của cho không bằng cách cho”. Nghĩa là chính “cách cho” đã giữ lại ơn nghĩa đã
cho chứ không phải là của cho nhiều, cho ít.
Ngày xưa bá tánh đem
thực phẩm cho Chư Tăng hành khất, (Theo Hán Tự) gọi là
“Cung Dưỡng”. Chư Tăng thời xưa không được phép
nhận tiền.
***
Ngày nay, Chư Tăng
được phép nhận tiền là phải kể từ thời Nhà
Đường. Thời Nhà Đường, ngài Tam Tạng đi thỉnh kinh
ròng rã mười bảy năm cơ cực ở bên Thiên Trúc, Ngài
đã mang rất nhiều bộ kinh Phật trở về nước. Vua
Đường vui mừng đón Ngài Tam Tạng tại kinh đô. Nhà Vua
liền cho tập trung các nhà khoa bảng, các vị cao tăng để
phiên dịch tất cả các pho kinh, pho giáo lý Phật Học ra
Hán Tự để mọi người dân theo Phật đọc được nội
dung mà hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của kinh kệ… Đồng thời
Nhà Vua cho lập ra phái Thiền Tông. Phái Thiền Tông phát
triển rất mạnh ở Trung Hoa thời đó và truyền bá ra
khắp nơi.
Đại Việt theo phái
Thiền Tông từ khá lâu, đời Nhà Trần có Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử, tất nhiên là có ảnh hưởng nguyên tắc
Thiền Tông nhà Đường. Ngày nay cung dưỡng được gọi
là “cúng dường”. Bá tánh cúng dường bằng thực
phẩm, hoa quả nếu Chư Tăng hành khất, bằng như Chư
Tăng không hành khất thì bá tánh sẽ cúng dường bằng
cách chuyển khoản, tức là tiền được chuyển từ “tài
khoản” cá nhân qua Ngân hàng tới người nhận cũng có
mở “tài khoản”, rất thuận tiện, nhanh chóng.
Tuy nhiên, chớ nên hô
hào, vận động, ép buộc, hù dọa bá tánh (giàu, nghèo)
phải vét hết tiền bạc gia sản kể cả (nhẫn cưới)
đem đi “cúng dường, cúng sao, cúng
giải hạn, cúng vong...” nhằm mưu cầu hạnh phúc giàu
sang ở một kiếp (tương lai) nào đó rất mơ hồ viễn
vông..., thì thiết nghĩ là không nên.
Không nên, bởi bá
tánh (hiện tại) phần nhiều đời sống còn nghèo khổ,
thậm chí quá nghèo khổ, phải tha phương cầu thực, phải
lam lũ làm lụng mới có cái ăn, cái mặc, lại còn phải
chịu đựng đủ các thứ lệ phí, đủ các thứ thuế!
Hơn nữa người nghèo, lúc bị bệnh tật chuyển vô bệnh
viện phải đóng “viện phí” mới được chữa bệnh,
bằng không có tiền thì chịu chết! Con cháu đi học phải
đóng “học phí” cho nhà trường thì mới cho học, bằng
không có tiền thì đành thất học ở nhà đi lượm ve
chai, đi bán vé số...! Kể thêm nữa là: thiên tai, nhân
họa đổ ập xuống đầu của họ, con cháu của họ. An
sinh xã hội thì chẳng có, mà nếu có cũng không thấm
vào đâu. Tình trạng như vậy họ biết kêu ai để cứu
vớt đây? Họ biết dựa ai để cầu mong sự giúp đỡ,
che chở đây?!
Những người nghèo
đói, người bị loại trừ, người tàn tật, người ăn
xin, người bị mất nhà cửa đất ruộng, người bị tù
oan, người tù chính trị, người đi bán vé số, người
nông dân bị hạn hán, lũ lụt mất mùa. Tất cả họ,
tất nhiên sẽ dựa Thần Thánh! Họ cầu xin sự an ủi,
sự may mắn và mong ước thoát khỏi cảnh khó khăn. Dựa
thần thánh cũng phải có tiền, để mua: (heo quay, bông
hoa, trái cây, nhang đèn, tiền đô la, vàng mả, nhà lầu,
xe gắn máy, xe hơi, iphone...). Thứ “qùa cáp sang trọng" dành cho người cõi âm, cho người cõi trên, giá bán không
hề rẻ bao giờ, và cũng không hạ giá cho người nghèo,
người có lợi tức thấp. Trong khi đó ở trong nhà thì
thờ ông thần tài (!?).
***
Trong giáo lý các tôn
giáo luôn dạy điều “hiếu nghĩa” lên hàng đầu. “Thứ
nhất thảo kính cha mẹ…”. Hiếu thảo với đấng
sinh thành là một việc “Thiện” lớn nhất mà không
một việc thiện nào có thể so sánh cho bằng được. Vậy
người con phải có lòng hiếu thảo, lo để dành tiền
bạc nuôi dưỡng cha mẹ già yếu cho tròn đạo làm con.
Đạo lý đó, thiết nghĩ có khác chi “tu
tại gia”?! Câu tục ngữ “Tu
đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ bằng ba tu chùa”.
Giữ cho tròn đạo làm con thì Thần Thánh đã hiện diện
ở trong tâm hồn và được nhận ơn phúc từ Thần Thánh.
Triết
gia người Ấn Độ (Krishnamurti), nói: "Bởi
khi
trái tim chúng ta đã héo tàn, nên Thượng Đế mới
trở nên quan
trọng".
Hãy
suy gẫm câu nói của triết gia! Thi sĩ Nguyễn Du cũng nói
“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng
nhiều” đó
thôi.
Con
người là một vũ trụ thu nhỏ, hãy khám phá ra điều
huyền diệu ở trong vũ trụ thu hẹp đó trước
khi nhờ trời giúp đỡ.
Bậc
chân
tu
hành đạo
là
đã
hiến
mình
ép
xác,
ăn
uống kham khổ
ngồi
thiền
ở
nơi
tĩnh mịch
vắng
vẻ; chấp
nhận
sống
đời
khổ hạnh
- không khoa trương vọng
tưởng.
Chân
phước, chân tu xuất phát từ
(chánh
đạo, chánh
niệm, chánh tín) và
“từ
bi, bác ái” cứu
nhân độ thế thoát cảnh trầm luân tội lỗi -
chẳng
lạm dụng lòng tin (nơi
một số người)
bằng
sự
“mê
tín dị đoan”...! Chẳng
là gánh nặng, rối rắm đạo đời. Phật
dạy: “Không
xuống địa ngục, không trở thành Phật”.
Nghĩa là không chịu gánh khổ nạn, không nhận ra kiếp
nạn ở
trên
cõi đời tạm
nầy
thì
chẳng
thể
thành Phật.
Đi
tu chứ nào có phải đi làm quan đâu
mà
mong “công, hầu, khanh, tướng”, phú
quý giàu sang, ăn trên ngồi trước.
Ông
Phạm Trọng Yêm (989
– 1052), người
nước Tống thuở bé
còn
hàn vi sau lên làm Tể Tướng. Có câu nói nổi tiếng
“Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi
lạc”. Tạm
dịch: (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của
thiên hạ). Đó là tấm lòng nhân bản, nhân ái của người
làm quan thanh liêm.
Đức Phật, dạy
rằng: “Đặt điều nói xấu người khác, cũng
giống như hành động của kẻ nằm ngửa phun nước miếng
lên trời”.
“Hãy tự đặt vấn
đề, cớ gì phải để kẻ khác xỏ mũi dẫn đi tới
chân trời góc bể mà tưởng rằng chân lý”. (Trần
Phước Hân).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét