Thư viện

9/11/24

ĐÊM TÀN BẾN NGỰ

 


Lời Phi Lộ.
     Trong gia tài sáng tác đồ sộ của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, phải nói rằng nhạc phẩm nào cũng để lại trong lòng người nghe một nỗi niềm thương cảm từ tình yêu, từ hình ảnh quê hương. Nhạc phẩm “Đêm Tàn Bến Ngự” là một nhạc phẩm tiêu biểu nhất đã diển tả được tâm trạng kẻ đi người ở trên bến sông nơi xứ Huế mà chính nhạc sĩ ngồi trên con thuyền ngược xuôi trên dòng Hương Giang ghi lại nỗi buồn xa vắng.

     Nhạc phẩm “Đêm Tàn Bến Ngự” đã được bốn người con xứ Huế trình bày trước năm 1975, đó là ca sĩ (Minh Trang, Hà Thanh, Thanh Thúy, Ngọc Cẩm).

     Hôm nay lại có thêm một người con gái Huế nữa đã trình bày nhạc phẩm “Đêm Tàn Bến Ngự” thành công – đó là Nghệ Sĩ Mộng Thu Ngâm Thơ. Giọng Huế của cô Mộng Thu phả vào từng lời nhạc đưa người nghe trở về với dòng Hương Giang nhấp nhô theo từng con sóng.

     “Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng / Nhớ chăng non nước Hương Bình / Có những ngày xanh lưu luyến bao tình /
Vương mối tơ mành…”.

Trang Y Hạ


1/11/24

MÙA CỦA NHỮNG HỒN MA

 



  "CÙNG ANH UỐNG CHÉN RƯỢU NGANG,
       VỢ ƠI, ĐỊA NGỤC THIÊN ĐÀNG CÁCH NHAU"
        Trang Y Hạ


22/10/24

LY BÔI

 



LY BÔI

Trang Y Hạ

     Ly bôi, là chén rượu cùng nhau uống lúc chia ly (ly là chia ly, bôi là cái chén để uống rượu). Theo [bộ giác] chữ “thương” cũng là cái chén để uống rượu. “Phủng thương thượng thọ”. (Nâng chén rượu chúc thọ). Và, Trường Ca của Khuất Nguyên (Thời Chiến Quốc), gồm 373 câu Ly Tao. (Ly - là chia ly. Tao - là buồn rầu lo lắng). Tao cũng là (hèm rượu). Từ đó “ly tao” cũng đồng nghĩa với “ly bôi”.

     Vậy “ly bôi” là nâng chén rượu uống lúc Biệt Ly. “Biệt ly nhớ nhung từ đây, chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay” * . Biệt ly - nỗi buồn kẻ ở người đi - người đi ra ngoài ngàn dặm quan san bằng chén rượu tiễn đưa trong cảnh lưu luyến không muốn rời. Chén rượu tiễn đưa không chỉ là ở các đấng nam nhi mà còn in đậm trong tình yêu, tình vợ chồng: Đoạn thơ tài tình tả rất thực, rất cảm động lúc bịn rịn chia ly của hai người: (Thúc Sinh và Nàng Kiều):

  “Người lên ngựa kẻ chia bào,
      Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san.
      Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
      Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
      Người về chiếc bóng năm canh,
      Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
      Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
      Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”. (Nguyễn Du).

     Thi hào Vương Hàn (Vương Hàn (687-735) với bài thơ “Lương Châu Từ” cũng đã để lại trong lòng người một nỗi buồn não nuột, não nùng khi phải uống vội vàng chén rượu để ra chiến trường:

       “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
      Dục ẩm tỳ bà mã thương thôi
      Túy ngoại sa trường quân mạc tiếu
      Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. (Vương Hàn).

Tạm dịch:
      (Rượu bồ đào, chén dạ quang
      Uống nhanh lên ngựa tiếng đàn giục đi
      Say nằm chiến địa cười chi
      Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về)! *

     Tuy nhiên, không phải lúc nào ly bôi cũng để chỉ chúc cho những người tráng sĩ đi ra chiến đấu ở ngoài sa trường. Có những chén rượu mà người tráng sĩ rót ra để mời: - Mời người vợ, người mẹ, người cha, người anh em ruột thịt bị chết và được vùi lấp sơ sài nơi vùng chiến địa. Tại mặt trận An Lộc – Thị Trấn An Lộc năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Một người lính địa phương tử thủ trong suốt thời gian bị vây hãm. Vợ con của người lính bị đạn cộng quân làm sập ngôi nhà và họ bị chết hết. Người lính đặt tấm hình của vợ trên mộ bia và cầm bi đông rót chung rượu tiễn linh hồn người vợ yên nghỉ nơi miền cực lạc. Người lính chỉ còn biết nhờ chung rượu nồng ấm nói thay cho tình vợ chồng đã nồng ấm bởi không còn giọt nước mắt để khóc.

     Thử tìm hiểu, rượu từ đâu mà có? Từ thời thượng cổ con người còn ăn lông ở lỗ chỉ biết săn bắn, hái cái cây ăn để tồn tại. Trái cây trong rừng quá nhiều ăn không hết chín rụng thành đống, thối rữa lên men nước chảy ra đọng thành vũng các loài thú hoang ngửi mùi thơm hăng nồng xúm nhau uống và say, cả con voi to lớn nhưng khi uống loại nước hăng nồng đó rồi cũng say đi nghiêng ngả.

     Con người từ khi đã biết dùng lửa, biết canh nông - đó là giai đoạn biết chưng cất rượu, làm men rượu. Men rượu làm bằng bột gạo ngào trộn với các loại thảo mộc [thuốc Bắc] giã nát vo tròn ủ kín. Thảo mộc gồm: cảm thảo, xuyên khung, uất kim, tiểu hồi, bạc hà, nhục đậu khấu, bạch truật, cam thảo… Người Trung Hoa có nhiều loại rượu nổi tiếng với những cái tên nghe rất kêu, như:

     (Động Đình Xuân Tửu – Kiếm Nam Xuân Tửu – Tường Vi Lộ Tửu – Hồng Lộ Tửu – Trúc Diệp Thanh Tửu – Ngũ Gia Bì Tửu – Nữ Nhi Hồng Tửu, còn có tên khác (Hoàng Tửu Thiệu Hưng) – Mao Đài Tửu…!).

Người Việt cũng có nhiều loại rượu nổi danh, như:

     (Kim Long Tửu - Mẫu Đơn Tửu – Kim Sơn Tửu – Bàu Đá Tửu – Gò Đen Tửu – Phú Lễ Tửu…)!

     (Kim Long Tửu, Loại rượu nầy thuộc vùng Quảng Trị đưọc người Pháp ưa chuộng, đã xuất cảng về Pháp và các quốc gia Châu Âu).
Ngoài ra: Ngày xưa còn có các loại rượu chưng cất để dành riêng cho vua chúa uống, gọi là Ngự Tửu. “Hoàng Triều Ngự Tửu”, là thứ rượu ngon dành riêng vua chúa uống. “Ba tuần ngự tửu, hai cành cung hoa” (Nhị Độ Mai). Thời xưa, quan tướng có công với vua, với nước đều được vua ban “Ngự Tửu” thưởng công! Tuy nhiên, không phải lúc nào được uống Ngự Tửu của vua ban cũng là vinh dự mà ngược lại (đôi khi) - đó là loại rượu ngâm độc được, uống vô hộc máu chết ngay tại chỗ.

     (Phương Tây biết tới rượu theo “Thần Thoại Hy lạp”.
      Phương Đông biết tới rượu từ “Hội Bàn Đào Tây Vương Mẫu”).

RƯỢU VỚI ĐÔNG Y:

     Thời Tam Quốc, có thần y nổi tiếng Hoa Đà đã dùng rượu và thảo mộc chế ra thuốc gây mê có tên là “Ma Phi Tán”, thuốc nầy khi uống vô làm cho người được “giải phẫu” ngủ say mê không biết đau. Thần y Hoa Đà đã từng chữa bệnh cho nhiều người có địa vị cao quý trong thời của ông, như: Quan Công, Tào Tháo, Lữ Bố, Trần Đăng… Cuối cùng ông bị Tào Tháo bỏ tù và chết ở trong tù. Sách thuốc của ông cũng thất truyền từ đó. Ông còn dùng rượu để ngâm dược liệu vì theo quan niệm Đông Y rượu dẫn thuốc nhanh [nếu biết uống rượu] và ngâm rượu với dược liệu để xoa bóp... Từ đó cho tới nay người ta dùng rượu ngâm thuốc chẳng những ngâm thuốc chữa bệnh mà còn ngâm nhiều loại hoa quả tạo ra nhiều loại rượu rất thơm ngon. Theo Tây Y thì lại cho rằng, rượu bia không tốt cho sức khỏe, các bác sĩ cấm uống bia rượu và khuyên đừng uống bia rượu.

RƯỢU VỚI BẠN HỮU:

     Bạn hữu mỗi khi gặp nhau - hạp tính tình, hạp tính cách - hơn nữa lại cùng một ý hướng [lý tưởng] thì dù xa xôi cũng tìm tới hàn huyên nâng chén uống tới mềm môi vẫn chưa say - dù có say cũng chỉ là say nghĩa, say tình bởi đó là “tri kỷ”, còn nếu như biết đờn, biết ca thì xem như “tri âm” - Bá Nha & Chung Tử Kỳ.
"Rằng: "Nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ"
Kiều (Câu 463 - 464)

Bài: Xuân Nhật Tây Hồ Ký (Âu Dương Tu).

     “ Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
     Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
     Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
     Năng ức thiên nhai vạn lý nhân”. […]

Dịch thơ:
     (Gặp bạn hiểu nhau ngàn chén ít
      Chuyện trò không hợp nửa câu dư
      Mới biết trên hồ cầm chén rượu
      Nhớ người vạn dặm buổi tạ từ.). *

     Và, cũng có khi chén rượu làm tan rã nghĩa kim bằng bởi một vài nguyên do chính trị không thể dàn hòa, hoặc hai bên chiến tuyến phải đối địch... Trong “Thuyết Đường”. Bài “Tống Tửu Đơn Hùng Tín”, có câu: “Chén rượu xưa kết tình bạn hữu, ly rượu nay dứt nghĩa kim bằng”. Người xưa nói: “Rượu tình, rượu nghĩa”, cho dù là như vậy, nhưng cũng phải tùy nơi, tùy cảnh, tùy trình độ hiểu biết và tha nhân...

     Ngoài ra, tửu lượng mỗi người mỗi khác, có người uống vài ba tĩn chưa say, có người uống vài ngụm đã say lúy túy nói năng mất kiểm soát.... Tính cách uống rượu cũng khác nhau, có người khi rượu vào thì nói huyên thuyên chẳng cho ai nói và cứ cho ý kiến của mình là đúng; có người rượu vào thì lại khóc lóc kể lể như con nít; có người rượu vào thì gây sự với bất cứ ai kể cả vợ con, cha mẹ, anh chị em, cô chú bác hàng xóm; có người khi rượu vào thì ngồi trầm ngâm tư lự, đuổi ruồi không bay; có người khi có rượu vào thì ngâm thơ, ca hát, kể đủ thứ chuyện rất vui!

     Người xưa nói mượn rượu giải sầu “Dục phá thành sầu duy hữu tửu”. Chỉ có rượu mới giải được nỗi sầu, như: “Sầu thất tình, sầu cuộc đời đổi trắng thay đen, sầu thất chí bởi thi rớt, sầu vì nợ nần, sầu vì vợ ốm con đau, sầu vì bị phản bội, sầu bị kẻ khác vu oan giá họa, sầu vì bị tù đày vô lý, sầu bị mất nươc, sầu vì ế chồng, ế vợ, sầu vì nghèo, sầu vì chiến tranh…”. Sự buồn rầu có căn tính, mãn tính như vậy thì dù có mượn chén rượu “giải vây” cũng chỉ là tạm thời - “Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu. Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu” (Rút dao chặt nước nước càng chảy. Nâng chén tiêu sầu sầu càng sầu). (Lý Bạch).

     Mượn rượu giải sầu càng sầu, một khi tỉnh rượu lại càng sầu thêm, bởi rượu là chất men (cồn) sẽ tan biến, còn nỗi buồn thì vĩnh viễn. Người buồn uống rượu càng nhiều sẽ làm tê liệt thính giác. Do tê liệt thính giác nên chính người say rượu khi phát âm họ không kiểm soát được tầng suất âm thanh quá lớn của họ, mà họ cứ nghĩ là mình đang nói chuyện bình thường. Phần nhiều kẻ say rượu họ cần phải nói lớn tiếng, nói lớn tiếng mà không biết rằng mình đã nói lớn tiếng. Người ngồi chung bàn cảm thấy khó chịu với tiếng hét chói tai đó tất nhiên phải phản ứng. Phản ứng cho dù là phản ứng lịch sự, tế nhị thì cũng bị cho là xúc phạm. Vậy là sinh ra cãi lộn ở nơi bàn nhậu - đôi khi mất bình tĩnh dẫn tới đánh đấm, xô bàn, đạp ghế - gây thương tích trầm trọng và mất mạng. Người say không kiểm soát được tư cách hành động lời nói dẫn tới mất luôn cả nhân cách.

RƯỢU VỚI THI NHÂN:

     Thi nhân, hầu hết họ là người học thức, có nhận thức, có hồn thơ lai láng nên trong tâm hồn luôn xao động như ngọn sóng lăn tăn trên mặt hồ với những chiếc lá vàng rơi trong làn gió nhẹ, cũng có khi giấu kỹ uẩn khúc nhân sinh quan quặn thắt mà đành chịu đựng để giải bày qua ngôn ngữ của thơ. Chung rượu, đối với thi nhân chỉ là chất cường toan pha loãng cháy ngầm - khơi dậy một cõi rất riêng lung linh huyền ảo mơ mộng và thực tại gào thét rồi từ đó cho ra: “Tài Tình”. Tài tình hay hơn cả “Thơ Tình”. Chính thi hào Nguyễn Du đã nhận thức cái “tài tình” đó qua câu thơ:
Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Thơ Tài Tình Hoàn Toàn Khác Với Thơ Tình.

     Đọc Truyện Kiều chắc ít ai nhận ra câu thơ “Tài Tình” của đại thi hào Nguyễn Du “Một gian nước biếc mây vàng chia đôi”. Câu (2419).

     Tài tình không phải tự nhiên mà có tài tình. Tài tình thuộc về “Siêu Nhiên” là của trời ban cho. Tài tình giỏi hơn tài ba. Có thể hiểu, đó là “Nhận Thức”. Nhận thức (Cognition và Cognition affluence) - sự giàu có về nhận thức - siêu giác quan (ngoài giác quan). Chính nhận thức đẻ ra kiến thức. Thơ tình chỉ là một mảng nhỏ thậm chí rất nhỏ ở trong tài tình. Không phải ai cũng nhận thức để được tài tình, nhận thức là dự cảm, thấu cảm sự việc chuyển động ngấm ngầm xuyên suốt - hiện tại, quá khứ, tương lai hầu tìm ra tinh túy từ trong vũ trụ mà trong mỗi con người là một vũ trụ thu nhỏ.

     Rượu với thi nhân như hình với bóng, trong cơn men lâng lâng người thi nhân tài tình nhận được một giác quan siêu nhiên nhập vô trong người, chữ nghĩa từ thiên cổ rủ nhau chạy về lung linh huyền ảo - đó là: (hồn thu thảo, - bầy xác sóng, - hồn nước mây, - trăng mỏng, - trăng vở, - trăng nghẹn…). Đó là ngôn ngữ rất riêng của thơ. Tuy vậy, thi nhân họ vẫn luôn (Tỉnh Táo), họ chỉ say bằng con tim nóng chứ không say bằng cái đầu nóng, họ chỉ say trong chất men ngôn ngữ huyền dịu và tài tình. Cho dù là ngôn ngữ của thơ nhưng tuyệt đối thi nhân không bao giờ vi phạm quy ước ngôn ngữ, như: viết sai văn phạm, viết sai chánh tả, viết sai ngữ pháp, viết sai mạo từ (cái ra con, con ra cái). Hoặc viết ngược, như: “vẹn nguyên, pha phôi, vọng vang, giản đơn, đáu đau…”!

     Quy ước ngôn ngữ vốn đã có từ lâu, từ rất lâu. Kẻ nào phản đối, phản kháng lại ngôn ngữ Hàn Lâm mà quần chúng đã công nhận Quốc Ngữ thì đó là một hành vi chính trị độc tài, sa đọa, giả dối và áp đặt.

     Một số tác giả ngày nay cố tình hay vô tình xài thứ chữ Việt quái đản, dị hợm đã góp phần làm rối rắm, dẫn tới - “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ”. Tựa bài văn của Tác giả: (Trịnh Thanh Thủy).
Chữ nghĩa hiện nay. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Tịnh Thy, Giảng Viên Chương Trình Giáo Dục Khai Phóng, nói:

     - “Nhà văn sai, nhà thơ sai, nhà giáo sai, nhà báo sai, nhà khoa học sai; cử nhân thạc sĩ sai, tiến sĩ giáo sư sai; sách vở giáo trình sai, đề thi đáp án sai, luận văn luận án sai, từ điển sai; âm nhạc sai, văn chương sai, báo chí sai, công văn sai… Tất tần tật đều có sai. Đặc biệt, các nhà báo, nhà ngôn ngữ, giáo viên, giảng viên dạy tiếng Việt và Văn học – những người sống bằng nghề chữ nghĩa và dạy người khác chữ nghĩa - mà cũng sai.”. Và, “…Tiếng Việt đã và đang sai đến mức quá sâu rộng, mười năm sau là đủ để cơn sóng sai phạm này phá huỷ tiếng mẹ đẻ của người Việt.”.

Và, cũng theo một vị cựu giáo sư văn chương, nói:

     - “Sai nhiều là ở trong các tác phẩm của các thi nhân, bởi [một số] chưa thấu hiểu, chưa cảm nhận để phân biệt đâu là ngôn ngữ thơ; đâu là ngôn ngữ Hàn Lâm Văn Chương Tự Điển. Từ đó các thi nhân “phịa” ra các thứ chữ quái đản, dị hợm, vô hồn, vô nghĩa, tối nghĩa rồi cho rằng đó là ngôn ngữ thơ; là nhân cách hóa, thậm chí viết còn sai "Mạo Từ" - Cái ra con và Con ra cái. Ví dụ như: "Con chữ, Con tuổi, con xe, con nhà... Cái trâu, Cái gấu, Cái gái..."!

     Thời Nhà Đường, các thi hào, thi bá cho thơ hòa chung với tửu, nhiều không kể ra hết. Tuy vậy, thơ tiêu biểu về rượu nổi danh có thể nói đó là Thi hào Lý Bạch, như bài:

Tương Tiến Tửu

       “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
      Mạc sử kim tôn không đối nguyệt
      Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
      Thiên kim tán tận hoàn phục lai”. (Lý Bạch ). 

Dịch thơ:
     (Người đời được dịp cứ vui vầy,
      Đừng để chén không dưới bóng nguyệt
      Trời sinh ắt đã có chỗ dùng
      Xài sạch ngàn vàng hẳn trở lại). *

     Đỗ Phủ – Lý Bạch hai người đã từng gặp nhau ở Lạc Dương, vì mến tài nhau mà kết thành đôi bạn vong niên (Đỗ Phủ nhỏ hơn Lý Bạch mười một tuổi). Đỗ Phủ, trong bài “Xuân Nhật Ức Lý Bạch”. Ông viết:

      “Vị bắc xuân thiên thụ
        Giang Đông nhật mộ vân
        Hà thời nhất tôn tửu
        Trùng dữ tế luân văn”.
Dịch thơ:
       (Bắc sông Vị cây mùa xuân lặng ngắm
        Giang Đông ngày lẫn bóng phủ mây chiều
        Hy vọng sẽ hội kiến nâng ly rượu
        Thơ văn ngồi bàn luận dưới trăng xiêu). *

      Và, Đỗ Phủ, năm bảy trăm năm tám [758] vùa ra tù. Ông đến Khúc Giang (Tây An, Thiểm Tây) vì quá túng quẩn phải đem cầm quần áo để sống. Đỗ Phủ buồn phiền nên sa đà với tửu để quên nỗi buồn thất sủng. Ông nợ tiền rượu chủ quán. Ông trút sự nhục nhã vào thơ: Trích: (Khúc Giang Trì).

     “Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
       Nhân sinh thất thập cổ lai hy”.

     Tạm dịch: (Nợ tiền uống rượu là chuyện thường, nhưng lại là chuyện hiếm hoi đối với một người đã bảy mươi tuổi). 

     Vậy đó, đã già (bảy mươi tuổi) đầu rồi mà còn nợ tiền rượu mới là chuyện hiếm thấy xưa nay! Ý chính là vậy, chứ không phải sống tới “thất thập cổ lai hy” mới là hiếm. Tuy nhiên, câu “thất thập cổ lai hy”, cũng là kính trọng người sống thọ (thời xưa). Ngày nay sống trăm tuổi là chuyện thường, “bách tuế vi kì”. (Trăm năm là giới hạn).

     Tào Thực, con trai Tào Tháo, ông từng làm bài thơ “Thật Bộ Thi”. (Bảy bước ra thơ), ông uống rượu rất khỏe. Ông viết: “Quy lai yến Bình Lạc - Mỹ tửu đẩu thập thiên”. (Trở về mở yến ở quán Bình Lạc, Rượu ngon uống mười ngàn đấu).

     Trong tác phẩm Lục Vân Tiên cũng có câu: “Cùng nhau kết bạn đồng tâm, khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi”. Rượu và thi nhân không thể tách rời “Dĩ tửu trợ văn, dĩ văn hội tửu” và “Phi tửu bất thành lễ”. Lễ đây là đối đãi phải lễ (qua lại) với nhau chứ không hẳn là “nghi lễ cúng bái”, cúng bái ông bà tổ tiên đôi khi không nhất thiết phải có rượu, chỉ cần một chén nước cũng đã tỏ rõ tấm lòng thành. Tuy vậy, người xưa cho tới ngày nay luôn dùng rượu trong các dịp “Quan – Hôn – Tang – Tế”.

     Truyện Thủy Hử, có Võ Tòng đánh hổ trên đồi Cảnh Dương, tửu lượng uống tới mười tám chén. Trong “Thiên Long Bát Bộ & Tiếu Ngạo Giang Hồ”, nhân vật Kiều Phong, Lệnh Hồ Xung, Tổ Thiên Thu là những hảo hán, tính tình hào sảng dùng rượu kết giao bằng hữu. "Ẩm tửu dung hòa đích quân tử". Họ coi rượu là Đạo Tửu, ở bất cứ nơi đâu họ đều uống các danh tửu: (Nữ Nhi Hồng Tửu. Trúc Diệp Thanh Tửu. Bách Thảo Mỹ Tửu).

RƯỢU: SỰ CHẾT & MẤT NƯỚC:

     Truyền thuyết phao tin thi hào Lý-Bạch say-sưa bên bờ sông Thái Thạch lờ mờ thấy trăng chìm đáy nước, vội vàng nhảy xuống vớt trăng lên để rồi chết đuối. Từ đó thiên hạ cho xây một cái đài, tên là “Tróc-Nguyệt-Đài” (Đài Bắt Trăng). Thật ra thì đã có bằng-chứng cụ thể là Lý-Bạch tự vẫn mà chết. Tuy nhiên, phần nhiều người mê thơ Lý Bạch không thích ông tự tử. Chính chuyện thêu dệt ôm trăng mà chết đã làm cho thơ của ông càng nổi tiếng hơn. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cho Từ Hải chết đứng cũng là vì thương đấng anh hùng nghe theo lời khuyên của giai nhân (Thúy Kiều) mà chết thảm thiết.
Đọc Tam Quốc [sách phần nhiều là hư cấu]. La Quán Trung hư cấu việc: Trương Phi say rượu, bị tên lính “thợ may” dưới quyền cầm cây kéo đâm chết, qủa thực vô lý. Thực tế [sử] là Trương Phi bị phục rượu độc mà chết một cách oan nghiệt. Thủ phạm chính là Gia Cát Lượng và Lưu Bị. Tuy rằng ba người (Lưu - Quan - Trương) có “kết nghĩa vườn đào” lúc chưa hình thành nước nước Thục, nhưng một khi Nhà Thục ra đời có danh chính ngôn thuận về mặt địa lý, có chính quyền hành chánh thực tế - thì cách cư xử, cách đối xử [thưởng, phạt], cách xưng hô chỉ là “bề tôi”. (Dưới con mắt vua chúa, tình ruột thịt còn bị tru di, huống hồ là tình kết nghĩa). Chuyện quốc gia đại sự thì không thể để tình cảm lấn lướt. Quan Vân Trường, chính là kẻ cản trở chính sách và chiến lược liên hoàn “địa lý, quân sự, chính trị” của Nhà Thục với Đông Ngô. Lưu Bị mượn tay Đông Ngô giết Quan Trường bằng lý do “hôn nhân chính trị”, nhưng đã quá trễ. Bề trái của lịch sử "ngầm" quả thật là kinh khủng.

     Trần Thúc Bảo (Trần Hậu Chủ) vị vua cuối cùng của Nhà Hậu Trần thời Nam Bắc Triều trong lịch sử Trung Quốc cũng vì mê uống rượu với giai nhân mà mất nước.

     Theo “Lĩnh Nam Chích Quái” vị vua Hùng Vương cuối cùng cũng vì mê uống rượu mà để đất nước rơi vào tay Thục Phán. Sử lịch xảy ra năm Giáp Thìn (257 TCN).

Theo: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.

     Vua Trần Anh Tông vị vua thứ tư của Triều Trần vì mê uống rượu “Xương Bồ” say không biết trời trăng mây nước. Thái Thương Hoàng (vua cha) ghé thăm mà không hay biết. Thượng Hoàng (Trần Nhân Tông) có tâm lòng nhân hậu đã bỏ qua sau khi nghe lời trần tình mà không truất phế ngôi vua. Vua Trần Anh Tông hối lỗi và bỏ hẳn uống rượu để chăm lo việc nước.

RƯỢU VỚI TÔN GIÁO:

Phật Giáo:

      Phật Giáo cầm uống rượu. Phật tử thọ giới Bồ Tát không được uống rượu. Kinh “Phạm Võng” uống rượu làm hư tổn bản thân, người nấu rượu bán rượu đồng lõa với tội lổi. Phật dạy “Người uống rượu sinh ra ba mươi sáu [36] thứ tội lỗi, đó là vô lượng tội”. Phật tử không nên dâng rượu cho Phật và cũng không thể uống rượu nếu không muốn lên Niết Bàn hưởng phú quý!

Thiên Chúa Giáo (Công Giáo).

     “Trong ngày Lễ Vượt Qua. Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, rồi tất cả đều uống chén rượu này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” (Mt 26,29).

     Theo luật, Linh Mục mỗi ngày phải dâng một thánh lễ, tất nhiên trong thánh lễ có rượu và bánh thánh tượng trưng (mình và máu) của Chúa. Do đó đạo Công giáo không hoàn toàn cấm rượu, chỉ khuyên giáo dân hạn chế tiêu thụ để gìn giữ sức khỏe.

     Cổ nhân uống rượu với một phong cách thoát tục (thần tiên) chứ không phải uống bừa bãi theo kiểu (trần tục) bạ đâu uống đó “buồn cũng uống, vui cũng uống, không vui không buồn cũng uống”, bạ đâu uống đó gọi là “nhậu”, nhậu nhẹt bê tha, say sỉn, la hét, chém giết nhau và nằm ngủ vất vưởng ngoài đường, ngoài chợ, quần áo bẩn thiểu, đầu tóc bù xù trông chẳng còn là con người. Tửu đối với thi nhân; các bậc anh hùng đại trượng phu, họ lấy rượu để bày tỏ chính khí, hào khí đầu đội trời chân đạp đất. Tào Tháo uống rượu cùng với Lưu Bị mà luận anh hùng là vậy đó. Tửu [rượu] cũng là một “định ước bất thành văn” kết nối giữa người với người; với bằng hữu; với quân thần “tửu vua ban” và người với thánh thần khi tế lễ trời đất, tổ tiên.

     Người xưa nói, chén thù, chén tạc là một hình thức tiêu biểu của sự tôn trọng và mến khách. Người chủ nhà nâng chén rượu chúc mừng khách, gọi là “tạc”. Người khách đáp trả lại gọi là “thù”. Tình cảm quý mến đó gọi là “thù tạc”.

     Ly bôi, tức là chén rượu uống trong lúc chia ly hay còn gọi là chén rượu tiễn đưa.

      “Hơi thở biệt ly tràn phế-phủ,
       Tiễn đưa lệ ngọc ẩn cung mây,
       Mộ lạnh miếu đền ai đó ngủ,
       Thức đi, hấp lại cảnh chia này” (Trích thơ: Trang Y Hạ).

     Rượu chia ly, – dù chia ly bất cứ lý do nào đều để lại nỗi buồn trong lòng người (đi và ở), nỗi thương nhớ cho cả hai bên không dễ gì một sớm một chiều mà có thể nguôi ngoai. Người thiếu phụ tiễn đưa chồng đi chinh chiến, để rồi đêm đêm ngồi bên ngọn đèn dầu tơ tưởng nhớ mong, lo lắng: “Chàng từ đi vào nơi gió cát. Đêm trăng nầy nghỉ mát nơi nao”? Đôi khi một lần tiễn đưa là xa nhau mãi mãi.

     Tạm trích hai câu thơ của (Trang Y Hạ) để dừng lại giây phút Ly Bôi!
     “Uống đi rượu sẽ giải bày,
       Hốt vài dúm nắng ấm tay tặng người”.

Trang Y Hạ, 2012.

* Trang Y Hạ. (Dịch Thơ).

Cước chú:

* Biệt Ly - Ca khúc của nhạc sĩ Doãn Mẫn


                    Bữa cơm đơn sơ ngoài chiến trường!


5/10/24

CỔ ĐỘ

 



CỔ ĐỘ

Thời gian nặng lướt ngang mày rớt lại
hoàng hôn dìu dáng lá nhẹ đêm gieo
trăng mùa cuối trăn trở khung trời nhạt
gió thinh thinh đưa đẩy mấy cánh bèo.

Se xe sợi mây vàng đan tấm áo
phủ gót hài cúi mặt lướt sang sông
trăng cổ-độ dây dưa tình cổ-độ
đáy nước im giấu tâm sự chất chồng.

Lòng cứ tưởng, tưởng rằng: Trương-Quân-Thụy *
Bậu sẽ là thục nữ: Thôi-Oanh-Oanh
đêm trí trá đổi ngày ra tăm tối
trường đoạn đau rát mấy nhịp dã hành.

Choàng áo bả, cát âm vang nhân thế
tiếng thở dài trầm bổng dội hiên song
bên yên ngựa nghẹn ngào câu từ tạ
giọng bịp kêu tan-tác cả một dòng.

Thiên-lý dặm âm thanh nào cộng-hưởng
kim chỉ nào lành lặn tuổi thơ ngây
ai cách bế, ai chân tình chẳng lẽ
xuồng gập lưng vớt sóng nuốt tháng ngày.

Cây giầm gãy, nguyệt cầm thôi không gảy
nửa đời xanh, còn chi nữa phôi-pha
trăng cổ-độ ngóng thiên hà phổ-độ
cảm giai nhân thương chiếc bóng la đà.

Mưa cổ độ ấm lạnh thâm đôi mắt
nghiệp dĩ như thử thử phận giai nhân *
sinh hữu tự lai lai cơn gió thoảng *
có trách chi, nay Sở với mai Tần.

Bến-Giằng xé tâm can cô Công Chúa *
nắng Đồ-Bàn không sưởi ấm Mỹ-Sơn
giàn hỏa sử giữ trái tim nguyên vẹn
trượng phu đâu, để phận gái dỗi hờn.

Xuất-Tái-Khúc, thấm đẫm nơi hoang mạc *
Lạc-Nhạn ư, có hổ thẹn dung nhan
hồn-cố-quốc, nặng lòng ngoài quan-tái
sông một dòng chia sóng vỗ hai đàng.

Trăng cổ độ gió mây về bến vắng
Phách-Hồ-Già, chở lệ ngọc hư vô *
giãi bày nỗi, giải nghĩa niềm u-uẩn *
nhụy tàn bông đau xót bước lộ-đồ.

Trang Y Hạ .

Chú Thích:
* Trong “Tây Sương Ký”.
* “Nghiệm dĩ như thử”. (Nghiệp đã như vậy rồi).
* “Sinh hữu tự lai”. (Sinh có từ đâu mà đến).
* Công Chúa Huyền Trân. Bến Giằng ở Quảng Nam.
* Nàng Vương Chiêu Quân.
* Nàng Thái Diễm (Thái Văn Cơ).
* “Con người là sinh vật chính trị”. (Aristole).

     “Kẻ nào nói không quan tâm tới chính trị, loại chính trị ra khỏi văn thơ, ra khỏi đời sống xã hội kẻ đó chính là con cháu của Diêm Vương”. (Trang Y Hạ).





27/9/24

NGÃ TƯ

 



NGÃ TƯ

Thơ: Trang Y Hạ

Trời mở mắt dựa hơi nàng Starbucks
tóc đa màu óng ánh điểm sớm mai
đôi sợi rối bức tranh thêu nồng ấm
ngực gồ-ghề êm-ái đã sẵn bày.

Treillis đượm hương cố lưu dấu tích
cà-phê mùi cuồn cuộn phủ Ba-Tây *
liếc mắt thử thế-nhân đà quen mặt
hợp phố đâu gom khoảnh khắc sum vầy. *

Ly đậy kín tưởng quan-tài đậy kín
người cõi âm có độc-thoại ân tình
bao uẩn-khúc; bao oán-hờn rệu-rã
cây nhang chờ lơ-lửng chở câu kinh.

Ngắm tiên nữ tay vân vê lap-top
có nhắn tin tìm quá khứ thâm đen
đầu chợt nghĩ về Bà Trưng, Bà Triệu
hồn voi già, biết có nhớ tiếng kèn.

Mưa nắng tiễn Cổ-Loa thành về đất
đấng anh hùng đang bồi đắp nghĩa nhân
gió Bắc độc, ải “Bắc Môn Tỏa Thược” *
Mỵ-Châu ơi - Cô để mất Nỏ Thần.

Trời mở mắt kề vai nàng Starbucks
tỉnh táo đầu, hú dĩ-vãng hỏi thăm
ngã tư rộn, vắng áo dài đau thắt
Bà-Ba đâu, ngồi im lặng chống cằm.

Bến Hải xoáy sóng ngầm theo hồn nước
khế-ước nào trưng cứu chốn thiên-đình
ai ủy-lạo, ai bãi buôi xứ lạ
đông nhớ mùa tê tái nẻo bình-minh.

Cô gái trẻ da vàng ngang qua cửa
nhánh tương lai hy vọng nở mai sau
thấp thoáng bóng, bóng Cô Giang, Cô Bắc
trang sử nguồn cội rễ chẳng phai màu.

Thôi đành ngắm, đôi gò nàng starbucks
nhìn ngã tư ngọt đắng rát bờ môi
cảm ơn Bậu sưởi bước chân lưu-lạc
rời quán quen lạ hoắc một phương người.

Trang Y Hạ
Chú thích:
* Starbucks, trồng cà phê ở Ba Tây (Nam Mỹ).
* “Biết đâu hợp phố mà mong châu về”.
* Bốn chữ có lưu trong ngôi đền ở Nam Định.
   Ngã tư Irving, Sunset, San Francisco, một ngày mùa đông với Trần Phước Hân.
  
Lời Gió Mưa:

     “Ở trong bất cứ trường hợp nào, đều cho thấy dân tộc của chúng ta bị chia thành ba nhánh (Russia – Ukraine – Belarus). Bởi tai họa khủng khiếp của cuộc xâm lược từ người Mông Cổ và bởi sự đô hộ của người Ba Lan… Tất cả người Nga chúng ta đều đến từ Kiev quý giá, - nơi mà từ đó “Đất Nga Bắc Đầu Hình Thành” (như Nestor đã ghi trong “Biên Niên Sử” của mình. Và từ đó chúng ta (người Nga) nhận được ánh sáng của Cơ Đốc Giáo”. Trích lời Văn hào người Nga (Slexander Solzhenist).

      Người Nga chưa Bao Giờ Thắng Phát Xít Đức.

      Trong thế chiến thứ hai (1939 – 1945). Năm 1943, Stalin đưa (mười triệu người) người Ukraina ra chiến trường. Và trên mười vị tướng soái lừng danh cũng là người Ukraina, chỉ huy khắp mặt trận (trên bộ, dưới biển). Đồng thời Stalin yêu cầu Mỹ viện trợ số lớn phương tiện chiến tranh gồm vũ khí các loại!

(Mỹ đã cấp cho Liên bang Soviet 14.795 máy bay; 7.056 xe tăng...).

      Hai mươi triệu [20] Hồng Quân tham gia cuộc chiến chống Phát xít, thì người Ukraine góp (Mười Triệu) tức phân nửa. Mười triệu còn lại chia ra cho Nga và mười ba nước trong Liên Bang SoViet. 

     Trích tài liệu khác: "khoảng 40.000 người Lính Mỹ gốc Ukraine. Năm 1944 đã tham gia đổ quân lên "Normandie” (Pháp) để giải thoát Châu Âu khỏi nạn Phát Xít. Người Ukraina đổ xương máu quá lớn trong thế chiến thứ hai.

      Putin không nhớ công lao của người Ukraine. Putin là một kẻ vô ơn với câu nói hỗn láo "Nếu Không Có Công Lao Của Người Ukraine Thì Chúng Ta Vẫn Chiến Thắng Phát Xít”. Putin quên rằng: Không có vũ khí Mỹ và người Ukraina thì làm sao mà thắng Phát xít…?

     Văn hào người Nga (Slexander Solzhenist) đã nói đúng. Ông chỉ trích Stalin và ông bị loại ra khỏi nước Nga làm người lưu vong. Tác phẩm “Quần Đảo Ngục Tù” (the Gulag Archipelago) và “Một Ngày Trong Cuộc Đời Ivan Denisovich” (One Day In The Life Of Ivan Denisovich) của ông nổi tiếng khắp thế giới. Ông nhận được giải Nobel Văn Chương.

Trang Y Hạ – Trần Phước Hân (ST)



25/9/24

NGÀN NĂM THĂNG LONG

 



NGÀN NĂM THĂNG LONG

Thơ: Vyvy Lan. Tặng: Trang Y Hạ

Thăng Long hỡi tôi mơ hồi trống trận,
Phá xâm lăng cường bạo báo hồng ân.
Nhớ thành xưa của những Lý-Lê-Trần
Cờ phất phới tiễn đoàn quân chiến đấu.

Tôi mơ lắm tự thuở còn thơ ấu
Chuyện Rồng bay huyền thoại đã truyền rao.
Mơ Quân Vương trao kiếm báu năm nào,
Sau trận mạc hoàng bào vương máu giặc.

Mơ sống lại trái tim Bà Trưng Trắc,
Phận nữ nhi cũng lược giắt trâm cài.
Hán Quân kia từng khiếp đảm thần oai,
Dòng sông Hát, tuyền đài soi bóng ngọc.

Ngàn năm trước Thăng Long còn trong trí...
Tiếng quân reo ngựa hí đuổi quân thù.
Cổ thành xưa nền cũ bóng tàn thu
Mà chẳng thấy đoàn sĩ phu đất Bắc.

Thần Kim Quy thanh kiếm vàng đã cất,
Biết trao ai dũng khí đất Thái Hà?
Năm cửa ô nay chờ đón Phục Ba!
Còn ai nhớ trận Đống Đa, Kỷ Dậu?

Giờ Thăng Long đỏ tươi tanh cờ máu.
Quỷ Vương sao cũng biết khoác Long bào?
Chểm chệ ngồi trên chín bệ ngôi cao,
Mặc lê thứ kêu gào trong khổ ải...

Ngàn năm sau Thăng Long buồn tê tái,
Rứt thịt da...chia biệt Ải Nam Quan!
Biết khi nào lấy lại đảo Hoàng-Trường,
Trang Sử Việt lật những chương buồn bã...!

Quốc Tử Giám sầu thương từng bia đá,
Nơi Ba Đình vất vưởng những hồn ma
Nước không thông dòng không chảy, Nhị Hà
Như cũng muốn cùng dân hòa máu lệ.

Đã giết chết bao đời trai thế hệ,
Đã vùi chôn bao phận gái ê chề
Cả em thơ cũng sống cảnh bùn nhơ.
Còn kiêu hãnh Thăng Long Ngàn Năm Thế!

Vyvy Lan, 2010

Lời Gió Mưa:

     Lý Thái Tổ (974 – 1028). Ông đã thành lập triều đại Nhà Lý (hậu lý). Tiền Lý là Lý Nam Đế. Ông dời đô từ Hoa Lư về Đại La năm 1010 về sau đổi tên thành Thăng Long. (Tức Hà Nội ngày nay). Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên, rồng bay lên là điềm lành đem lại sự bằng an và cuộc sống sẽ vươn lên như rồng. Vậy mà mấy ngàn năn qua dân Việt không thể bay lên nổi nên cứ mãi nghèo đói triền miên... Và, theo truyền thuyết thì dân tộc Việt sinh ra bởi mẹ Âu Cơ và cha là Lạc Long Quân. Mẹ Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng trong một bọc, do đó mới gọi là “Đồng Bào”. Ngày xưa đẻ như vậy là linh thiêng, còn ngày nay y học cho đó là “quái thai”. Bởi do Cha rồng, Mẹ Tiên nên sinh ra xung khắc đành phải “ly hôn”. Mẹ Âu Cơ dẫn năm mươi đứa con đi lên rừng. Cha Lạc Long Quân dẫn năm mươi con xuống biển. Con Tiên, Con Rồng đâu có biết nghề ngỗng gì quanh năm chỉ biết phá rừng để sống, bắt cá để ăn. Do đó, cây rừng mọc không kịp, cá cũng lớn không nổi.

     Bầy con quái thai lớn lên lại tranh giành lãnh địa. Từ dưới biển kéo nhau lên rừng; từ trên rừng kéo nhau xuống biển, hai bên “xáp-lá-cà” - gà nhà bôi mặt đá nhau - tới u đầu sứt trán triền miên... Tệ hơn nữa lại còn chia lãnh địa ra làm mấy khúc. Cuối cùng con bên mẹ Âu Cơ chiến thắng, đuổi con cha Lạc Long Quân chạy xuống biển đành phải đi tỵ nạn khắp bốn phương trời.

     Trót mang họ “Lạc”, nên con cháu mấy ngàn năm nay cứ mãi ly hương.

                                         ***

     Tôi nhận được bài thơ của thi sĩ Vyvy Lan gửi tặng. Đó là: “Ngàn Năm Thăng Long”. Nội dung trong bài thơ, thì ý thơ đã trình bày quá đủ sự kiện, địa danh rồi chẳng cần phải bàn luận gì thêm. Bài thơ tác giả viết bằng cả tấm lòng cho quê hương tổ quốc:

     “Ngàn năm sau Thăng Long buồn tê tái,
        Rứt thịt da, chia biệt Ải Nam Quan!
        Biết khi nào lấy lại đảo Hoàng-Trường,
       Trang Sử Việt lật những chương buồn bã...!”. (Vyvy Lan).

       Trước đây, tôi có đọc bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh”

      "Đất nước mình ngộ quá phải không anh
        Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
        Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
       Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…”. Tác giả: (Cô giáo Trần Thị Lam).

      Bài thơ của cô giáo Lam như những lời hiệu triệu kêu gọi lương tri của hàng ngàn Việt khắp nơi.

      Thi sĩ Trần Tử Ngang (661 – 702) thời Nhà Đường nói “Làm thơ là để gửi tấm lòng vô thiên cổ, chứ không phải lưu danh nhất thời”. Gửi vô thiên cổ đó chính là gửi vô lịch sử. Thơ văn tức là viết giùm cho từng giai đoạn lịch sử, cho những chuyện bất công áp bức, cho sự nghèo đói, cho sự chia ly; cho yêu thương giữa con người với con người chứ không hẳn chỉ có tình yêu trai gái, hay “than thân trách phận, hờn giận cuộc đời”.

       Trong "The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói: - "Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh tái diễn lịch sử". Ở trong Tiếng Việt, chữ nói về “Tương Lai” có năm chữ [5]. Chữ nói về “Hiện Tại” có bảy chữ [7]. Chữ nói về “Quá Khứ” có mười tám chữ [18]. Như vậy, quá khứ định hình cho tương lai. Chúng ta luôn nhìn về quá khứ để đi đúng hướng.

     “Quốc kêu tê tái san hà,
      Ta kêu dĩ vãng thức ra nhớ nguồn” (Trích thơ: Trang Y Hạ)

     Cảm ơn thi sĩ Vyvy Lan. Chúc thi sĩ luôn an vui, sức khỏe!

Trang Y Hạ



20/9/24

NGƯỜI CHƯA HỀ GẶP MẶT

 


NGƯỜI CHƯA HỀ GẶP MẶT

Trang Y Hạ

     Người xưa nói: “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”. Đó là ngày xưa, chứ thời đại “internet” thì chuyện thấy hình là quá đơn giản. Trực tiếp gặp nhau để nâng chén hàn huyên, đàm đạo thơ văn nhạc họa thì mới khó khăn. Khó khăn bởi công ăn việc làm bận rộn hoặc ở quá xa xôi nơi đất nước Hoa Kỳ quá rộng lớn.

     Người chưa hề gặp mặt - nhưng quen biết nhau qua điện thoại – đó là tôi và anh nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân. Tôi chưa bao giờ gặp mặt nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân. Tôi chỉ biết anh Tân qua thi sĩ Trạch Gầm, khi anh Trạch Gầm viết bài thơ tặng tôi với tựa đề “Gửi Trang Y Hạ”. Bài thơ đó là thi sĩ Trạch Gầm “hồi âm” lại khi anh đọc bài thơ “Tâm Sự Người Thương Phế Binh” của tôi. Bài thơ “Tâm Sự Người Thương Phế Binh” được anh Nghệ Sĩ Minh Trí “CLB Tiếng Thơ Người Việt Xa Quê” trình bày:

      https://www.youtube.com/watch?v=0aa-_ExkjrU

      Bài thơ của thi sĩ Trạch Gầm cũng đã được nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân phổ nhạc với cái tựa đề khác: “Cảm Ơn Mày, Cảm Ơn Chị”. Tuy nhiên bên dưới tựa đề mới của nhạc phẩm, anh Tân vẫn ghi “Gửi: Trang Y Hạ”. Nhạc Phẩm:

      https://www.youtube.com/watch?v=oq03EfoTDCM

     Ngày xưa, tôi cũng đã có biết sơ qua về anh nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân, từ chương trình phát thanh Sài Gòn qua “Bài Ca Ngông” của anh. Nghe nói đó là tác phẩm đầu tay của anh. Tôi còn nghe ca sĩ Hoàng Oanh ca bài “Ngày Xưa Em Nói” cũng của anh được thu âm qua Sóng Nhạc. Ngoài ra tôi cũng biết sơ về: Ban Nhạc Trẻ “BOY” của anh nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân. Boy, là viết tắt: “Black, Orange và Yellow”. Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân giữ vai trò đờn Guitar Lead trong ban nhạc. Nhạc sĩ còn cộng tác với “Ban Nhạc Joe Mac Coy” tại vũ trường Queen Bee, “Ban Nhạc Huỳnh Hoa” tại vũ trường Gemini đường Công Lý, và vài Club của quân đội Mỹ.

     Tôi biết anh nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân định cư ở Hoa Kỳ, nhưng tôi chưa biết anh ở tiêu bang nào? Vào một buổi sáng anh gọi cho tôi (không biết ai cho anh số điện thoại). Anh nói với tôi là anh có đọc bài thơ “Đôi Nạng Gỗ Đã Què” do anh thi sĩ Huỳnh Tâm Hoài chuyển và anh cho biết là trong bài thơ có nhạc và nội dung bài thơ khí khái và cảm động - nếu tôi đồng ý anh sẽ phổ rồi anh hòa âm và trình bày. Còn làm YouTube trang trí hình ảnh thì đó là phần việc của thi sĩ Huỳnh Tâm Hoài. Vậy là nhạc phẩm phổ thơ đã ra đời như sau: https://www.youtube.com/watch?v=Des3lZENWN4&t=114s

     Một thời gian sau anh Tân còn phổ cho tôi một bài thơ nữa, nhưng anh không hòa âm.

     Từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gọi hỏi thăm qua lại... Tôi và anh cùng năm sanh, tính tháng thì anh lớn hơn tôi hai tháng. Anh cũng là sĩ quan, sau ngày mất nước anh cũng bị tập trung đi tù “cải tạo”. Năm 1995 anh tỵ nạn chính trị theo chương trình “H.O”. (H.O – 19) và định cư ở Sacramento. California… Quê ngoại anh ở Gò Công còn anh sinh ở Sai Gon.

     Anh phổ thơ của thi sĩ Trạch gầm nhiều nhất – hai mươi bốn bài [24], và thi sĩ Huỳnh Tâm Hoài... Ngoài ra nhạc sĩ còn làm CD nhớ về Gò Công quê ngoại: Gò Công Thương Nhớ - bằng hai nhạc phẩm “Gò Công Trong Lòng Tôi” & Tình Trái Sơ Ri”. Và nhạc sĩ còn được “giải nhì” trong của (Hội Khuyến Học Santa Ana) với nhạc phẩm “Em Đến Trường”, phổ thơ của thi sĩ Hoài Việt. Biệt tài có một không hai của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân là khi anh phổ thơ thành nhạc anh không sửa lời thơ, cắt bỏ lời của bài thơ. Nghĩa là bài thơ có bao nhiêu chữ là anh phổ hết.

     Nhạc sĩ còn có nhạc phẩm “Từ Đâu? Vì Sao?”. Nội dung của hai nhạc phẩm nhằm nhắc nhở lớp trẻ người Việt sinh ra tại Hoa Kỳ phải biết là từ đâu mà tới.

     Về thơ, anh có cho tôi biết anh cũng có làm thơ với bút hiệu “Thiết Bình Nương Tử”. Có thời gian anh làm Phó Chủ Tịch Văn Bút Hải Ngoại Vùng Tây bắc Hoa Kỳ.

     Người chưa hề gặp mặt, nhưng đã gặp mặt qua điện thoại. Chúng tôi “tâm sự” với nhau về đời lính, về những năm tháng ở trong tù “cải tạo”; về sáng tác thơ văn nhạc; về cuộc mưu sinh ở trên xứ Hoa Kỳ xa và lạ nầy. Thôi thì, mượn thơ thi hào Lý Bạch “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, Mạc sứ kim tôn không đối nguyệt”. Tạm dịch: (Đã là người khi vui thì cứ vui. Đừng để chén không dưới ánh trăng).

     Người chưa gặp mặt trực tiếp thì nhiều. Có điều tuy chưa gặp mặt thậm chí chưa gọi hỏi thăm nhau một lần nhưng lại rất gần thậm chí cùng chí hướng. Đó chính là những bài thơ, bài văn, nhạc phẩm, họa phẩm, giọng hát...

     Khi hay tin anh qua đời. Tôi rất buồn, buồn vì anh chưa thực hiện hết những dự tính, dự định để hoàn thành... Người xưa nói “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Anh về với trời ở tuổi bảy mươi lăm [75] cũng là phúc thọ. Anh nhạc sĩ đã để lại cho đời, cho văn thơ Việt một gia tài đồ sộ mà như thi sĩ đời Nhà Đường là ông Trần Tử Ngang, nói: “Làm thơ là để gửi tấm lòng vô thiên cổ, chứ không phải lưu danh nhất thời”.

     Tôi viết vài dòng về anh Nguyễn Hữu Tân và cũng là viết cho tôi. Người “bên thua cuộc” lưu lạc nơi xứ người. Tôi trích hai câu thơ của Trang Y Hạ để tặng cho anh nhạc sĩ.

    “Quốc kêu tê tái san hà, Ta kêu dĩ vãng thức ra nhớ nguồn”.

     Sống tỵ nạn nơi xứ người, chết đi rồi hồn có về nơi cố quốc hay quanh quẩn nơi chân trời góc bể? Có lẽ bây giờ cả anh, cả tôi và hết thảy mọi người bỏ tổ quốc ra đi đều đã hiểu.

     Thôi, tạm ngưng – bởi: “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí”. Nghĩa là: (Tướng thất trận thì không nên nói mạnh. Quan để mất nước thì đừng có nói khôn).

      Cầu mong linh hồn anh an vui nơi miền cực lạc!

Trang Y Hạ. San Francisco – 2024.

LỜI GIÓ MƯA:

Im lặng không có nghĩa là không có sóng, chính sự im lặng mới nghe có sóng dữ dội hơn”. (Trần Phước Hân).

Chữ Quái Đản, chữ Quái Dị.

Bây giờ người ta viết, nói nhiều thứ chữ - quái đản, dị hợm.

Nào là: "Con nhang, Con nắng, Con tuổi, Con facebook, Con chữ, Con học sinh, Con nhà, Con Xe, Con sân khấu, Con iphone, Con đặc sản...". Viết ngược Mạo Từ (Cái - Con). Câu văn, Câu thơ, Câu hát, Câu ca, Câu Ca dao, Câu hò, Câu vè…, thì gom chung lại nói "Câu chữ"... ".

Nguyên vẹn thì nói “Vẹn nguyên”. Ngôn ngữ thì lại nói “Ngữ ngôn. Xót xa thì lại nói “Xa xót”. Vang vọng thì nói "Vọng vang… Nói ngược.

Thỉnh thoảng thì viết “Thi thoảng”. (Chữ thi trong tiếng Hán có âm khác là xác chết, "cương thi"). Mệt mỏi, chán nản, buồn chán, thì nói “Hoang hoải”. Qua lại, trao đổi thì nói “Tương tác”. Theo Hán Tự, trong chữ tương có: tương tư, tương trợ, tương lai... Còn: tác là làm, tác là đánh, tác là nối lại, hợp lại... Vậy nói “tương tác” thì hiểu theo nghĩa nào? Bữa tiệc thịnh soạn thì nói “Bữa tiệc hoành tráng”. Theo Hán Tự - Hoành tráng theo (bộ miên). Hoành = To tác, rộng rãi. Hoành là ngang "Hoành giáo giang san cáp kỷ thu" (Thơ Phạm Ngũ Lão). Hoành là Hoành Phi ... Trong toán học. Hoành là trục hoành "Tung độ, hoành độ". Theo (Bộ sĩ). Tráng = Mạnh mẽ, người tới ba mươi tuổi gọi là Tráng. Nghĩa là cái gì khỏe mạnh, lớn lao đều gọi là tráng. Như vậy, nói "Bữa tiệc hoành tráng, Đám cưới hoành tráng” & Tùm lum hoành tráng" là chẳng có ý nghĩa gì. chẳng ăn nhập gì hết. Ngày nay bất cứ chuyện gì cũng nói "hoành tráng".

Còn nhiều nữa. Tôi sẽ tuần tự trình bày trong những lần sau.

Buồn là các ông bà thi sĩ, văn sĩ đã ngồi dưới mái trường miền Nam (VNCH) mà lại đi xài thứ quái đản, dị hợm đó.

Trần Phước Hân - Trang Y Hạ.




10/9/24

KHỔNG NHO & NHỮNG MÂU THUẪN

 



KHỔNG NHO & NHỮNG MÂU THUẪN

Tác giả: Trang Y Hạ

Khổng Nho, nội dung tư tưởng chứa đầy mâu thuẫn đã để lại hậu quả lâu dài cho người Trung Quốc; cho những quốc gia dựa vào tư tưởng của Khổng Tử làm phương châm giáo dục để rồi tự chuốc lấy hậu quả, là - nền giáo dục trì trệ, lạc hậu không thể theo kịp kỷ nguyên khoa học, công nghệ tiên tiến như các nước Phương Tây.

(Tại sao gọi là Khổng Nho? Bởi Nho Giáo có trước Khổng Tử. Khổng Tử sinh sau, mới làm hoàn thiện thêm và làm cho phong phú thêm).

Trong bài nầy, tác giả không cố ý “chỉ trích người xưa”, mà chỉ phân tích lời dạy của Khổng Nho nhằm phân tích, những “mâu thuẫn, hậu quả” của Khổng Nho để lại mà các nhà khoa bảng trí thức danh tiếng thế giới cũng đã phê phán cốt để suy nghiệm chọn lọc hầu chấn chỉnh lại nền giáo dục cho phù hợp với thời đại công kỹ nghệ đang trên đà phát triển không ngừng. [Phải hiểu rằng, cho dù là danh nhân, danh sĩ thì họ cũng có những sai sót và khuyết điểm của người xưa chứ không là toàn mỹ]. Từ lâu một số các quốc gia theo Khổng Nho, lấy “tư tưởng” đó làm phương châm giáo dục đã nhận thức và mạnh dạn chối bỏ để tiếp nhận khoa học kỹ thuật nhằm đưa đất nước giàu mạnh, như: Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Nam Hàn và ngay cả Trung Hoa lục địa ngày nay cũng vậy.

Tiếp nhận “Một nền văn minh, khoa học kỹ nghệ”, không phải là xóa bỏ sạch hết các: Định đề; phạm trù đạo đức (nhân bản vốn có) hoặc nền nếp văn hóa cố định gọi là “truyền thống”. Tuy nhiên, đôi khi chính văn hóa truyền thống cố hữu truyền từ đời nầy sang đời khác qua mấy ngàn năm trong lũy tre làng đã tạo ra (thói quen lười biếng, sợ hãi) không dám dấn thân, không dám xê dịch, nghi ngại không dám tìm tòi cái mới, không dám thay đổi... Điển hình là “Bản Điều Trần” canh tân đất nước của ông Nguyễn Trường Tộ khi ông qua Pháp đã tận mắt chứng kiến sức mạnh – quân sự, kinh tế… Bản điều trần, bị vua quan Triều Nguyễn xóa bỏ. Từ đó, nước Pháp mới có cớ để đô hộ Việt Nam gần cả trăm năm. Nhà triết học Ấn Độ (Krishnamurti) khẳng định rằng “Truyền thống cố hữu chính là nguyên nhân của nỗi sợ hãi”. Bởi quá sợ hãi cho nên không dám phá bỏ cái cũ, mặc dù cái cũ đã “rách nát”... ! Tệ hơn nữa là đám quan lại hủ lậu cố giữ khư khư định kiến vì lo sợ nếu thay đổi theo trào lưu khoa học thì sẽ mất hết quyền hành, tài sản…

Tiếp nhận “khoa học kỹ thuật” là thoát ra khỏi cái kén, thoát ra khỏi lũy tre làng để nhìn thấy bầu trời cao rộng hơn, con người khôn ngoan hơn và cuộc sống sung túc hơn.

Nhà Khai Sáng Nhật Bản, (Fukuzawa Yukichi) đã trình bày trong “Thoát Á Luận”. Ông luôn khẳng định rằng: “Khổng Nho chỉ dạy cho con người hư hỏng, mất ý chí, áp đặt và thụ động…”.

Văn hào Lỗ Tấn (Trung Hoa), nói: “Nho giáo là thuốc độc của tinh thần”. Và ông còn nói tiếp: “Các giai cấp phong kiến Trung Quốc trong lịch sử, dùng Đạo Khổng (Trung, Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) để làm hòn đá gõ cửa nhà người ta. Một khi chủ nhà nghe gõ, mở cửa cho vào thì nó lấy hòn đá đập vô đầu chủ nhà”. Đọc truyện ngắn “Khổng Ất Kỷ”, hoặc “Trường Minh Đăng” của Văn Hào thì sẽ biết ngọn ngành.

Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên), Trung Hoa, là người đưa ra chủ nghĩa Tam dân: “Dân Tộc, Dân Quyền, Dân Sinh”. Ông cũng cho rằng: “Khổng Giáo là trở ngại cho sự phát triển giáo dục, trở ngại cho sự thịnh vượng quốc gia cũng như không đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Người dân không được dạy về quyền con người; không được dạy về lòng yêu nước; không được dạy về cách làm cho phát triển kinh tế, nông nghiệp và công nghiệp”.

Ông Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) làm quan thời Nhà Nguyễn, ông đã cực lực phê phán: “Ý thức hệ Khổng Nho đã lỗi thời cần phải dẹp bỏ để tiếp nhận ánh sáng văn minh Phương Tây”.

Ông Phan Chu Trinh nói: "Không bỏ Chữ Hán (Khổng – Nho). Thì Không Cứu Được Nước Nam".

Ông Mao Trạch Đông, nói: “Những người như chúng tôi chống Khổng Tử có rất nhiều lý do khác. Khổng Học độc quyền bá chiếm Trung Quốc, làm cho tư tưởng của chúng tôi không được tự do, phải buồn khổ làm nô lệ cho thần tượng này suốt hai nghìn năm, thì cũng đã không thể không phản đối.”.

Văn sĩ kiêm Nhà Tư tưởng Khang Hữu Vi 1858 – 1927). Và, Nhà Dịch Thuật kiêm Ký Giả Lương Khải Siêu (1873 - 1929), nói rằng: “Bất cứ loại hình văn hóa truyền thống nào như: - “Nho, Đạo, Pháp, Mặc...” - đều không thể cứu được Trung Quốc, hơn nữa là một gánh nặng hoặc vật cản. Lối thoát duy nhất là từ bỏ hệ tư tưởng truyền thống, cải cách duy tân, học theo văn minh phương Tây, hiện đại hóa Trung Quốc về mọi mặt”.

Tiếc thay, đề xướng của hai ông thất bại thảm hại.

Khổng Tử suốt đời chạy tới nước nào thì “nịnh bợ” vua chúa nước đó để mong được giữ một chức quan, nhưng khi đã nhận được chức quan thì không hoàn thành nhiệm vụ. Sai lầm của Khổng Tử là cho rằng: “Vua chúa và dân chúng có cùng chuẩn mực đạo đức ngang nhau”. Do đó, xài chữ “NHÂN” tùy tiện. Không rõ có phải đó là một phương thức dạy học cách riêng của Khổng Nho thời đó hay không? Khổng Nho tùy theo từng bản tánh của từng đệ tử mà truyền dạy. Đối với đứa ham ăn, ham uống, thì dạy: "Quân tử thực bất cầu bảo". Nghĩa là (Người quân tử ăn không cầu no). Đứa hay gây sự, quậy phá, bướng bỉnh, thì dạy: "Quân tử hòa nhi bất đồng". Đứa nói năng huyên thuyên bừa bãi không đầu không đuôi, thì dạy: "Tiểu biện hại nghĩa, tiểu ngôn phá đạo". Đứa hay bêu xấu người khác, moi móc chuyện đời người khác, thì dạy: "Nặc nhân chi thiện, sở vị tế hiền; dương nhân chi ác, tư vi tiểu nhơn". nghĩa là: (Giấu điều tốt đẹp của người là dìm kẻ hiền; chỉ phô bày điều xấu của người là kẻ tiểu nhân). Cách dạy “xé lẻ” đó theo quan điểm ngày nay là không phù hợp.

Khổng Tử suốt đời chỉ mong làm quan; mong các vua chúa dùng (lễ nhạc) của mình để “bình thiên hạ”. Ông dùng mọi cách khuyến dụ nhưng chẳng ai thèm nghe, thậm chí còn xua đuổi. Từ đó mà Khổng Tử cảm thấy chán nản đành trở về quê cũ... Ông tự than: “Đời đục cả, ta trong với ai”. Qua câu than thở đó đã đủ cho thấy Khổng Nho không hoàn hảo, và hơn nữa là các bậc vua chúa cũng không (mặn mà) mỗi khi “Thánh” Khổng Tử răn dạy. Ông buồn chán mà than thở: “Cô đơn, mệt mỏi như con chó không nhà”.

Tuy nhiên giới Nho gia, Vua chúa độc tài, quan lại tham những thì đã nhìn ra thuyết Khổng Nho rất có lợi cho họ trong việc đè đầu, đè cổ dân chúng. Khổng Nho chính là sợi “dây thừng” giúp họ siết cổ dân đen, biến dân đen thành những con cừu ngoan ngoãn chui vào trong cái rọ: “Trung, Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”, và một khi đã chui vào rọ thì mãi mãi trung thành tuyệt đối mà không có ý niệm thoát ra hay chống cự.

Chủ thuyết của Khổng Nho là lấy “Lễ Nhạc” để giới thiệu cho các vua chúa cách trị dân. Nhưng thật ra đó chỉ là “mị dân” hòng nhằm ru ngủ đám dân chúng nghèo đói, ngu dốt... Chính đời sống xã hội nghèo đói, loạn lạc hằng ngày đã chỉ rõ ra rằng: (Một khi con người và xã hội rơi vào hoàn cảnh bần cùng thì tất nhiên sẽ sinh ra loạn lạc, giặc dã nổi lên khắp nơi!). Điển hình, như: Loạn An Lộc Sơn, đời Nhà Đường. Giặc Khăn Vàng (Hoàng Cân), thời Hậu Hán hay Thái Bình Thiên Quốc thời Nhà Thanh”, đã quy tụ được hàng chục triệu người nông dân theo họ nổi dậy làm binh biến…! Trong các cuộc nổi dậy đó đã làm dân số giảm đi rất nhiều…! Văn hào Lỗ Tấn, nói: “Lịch sử Trung Hoa là lịch sử ăn thịt người”. Nghĩa là Trung Hoa luôn có chiến tranh (tự chém giết nhau). Từ đó, nghèo khổ triền miên, - đó là chưa kể thiên tai lũ lụt…! Ai cũng biết “Bần cùng sinh đạo tặc”, hoặc “Có thực mới vực được đạo”. Vậy thì “lễ, nhạc” đối với người bần cùng nằm dưới đáy xã hội thì phỏng có ích gì?

Người xưa nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Một khi đời sống no ấm mới có thể tổ chức giỗ quảy cho ông bà, cha mẹ, anh chị em... Đất nước giàu mạnh, kinh tế phát triển thì mới đủ kinh phí tổ chức các “lễ hội truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tưởng nhớ tới các bậc anh hùng có công giữ nước”. Khổng Nho không dạy cho người dân làm giàu để có cơm no áo ấm mà lại lấy “lễ nhạc” để trị họ. Dạy như vậy là sinh ra loạn lạc, cướp bóc. Giả dụ rằng thứ “lễ, nhạc” đó là hình luật được công nhận trong xã hội phong kiến cũng như bây giờ thì cũng không đủ sức răn đe để giữ trật tự xã hội.

NHỮNG CÂU DẠY: BẤT NHẤT, MÂU THUẪN

- Đối Với Người Dân:
Khổng giáo khinh thường người dân:
Ông Khổng Tử nói: (Hình phạt không được dùng cho quan lớn). “Hình bất thướng đại phu”. Vậy là vua chúa, quan lại, phú hào, bá hộ... được quyền “kim bài miễn tử” không phải chịu bất cứ hình luật nào. Lấy lễ nhạc trị nước mà nói: (Lễ không kể đến bọn thứ dân). “Lễ bất há thứ dân”. Vậy là Khổng Nho chỉ nhằm phục vụ cho quyền lợi vua chúa, quan lại là chính. Lấy lễ đối nhân xử thế vậy mà lễ không kể đến bọn thứ dân. Bởi vậy vua chúa, quan lại phong kiến gọi người dân là: “Bọn thứ dân, đám bần dân, con dân, con đỏ”, một cách miệt thị. Vua chúa “vi hành” người dân phải quỳ lạy, cúi đầu chứ không được nhìn mặt. Dưới thời phong kiến, người dân phải nai lưng đóng đủ các thứ thuế để cho guồng máy quan lại hủ bại hưởng thụ. Ngược lại mỗi khi có thiên tai dịch bệnh hay chiến tranh, nghèo đói thì không biết kêu ai. Vậy “lễ nhạc” không đem lại an bình cho xã hội!

Ngày nay (thế kỷ hai mươi, hai mươi mốt), những thế kỷ của kỹ nghệ khoa học, con người rất thông minh và văn minh... Vậy mà một số quốc gia “độc tài” vẫn khư khư ôm hồn ma Khổng Nho làm phương châm giáo dục thì chỉ làm khổ người dân và đất nước càng chậm tiến. Đại Việt (Việt Nam), hơn bốn ngàn năm vẫn ôm khư khư Khổng Nho làm nền tảng giáo huấn mà bị nô lệ phương Bắc hơn một ngàn năm, và rồi “bế môn tỏa cảng” nên bị người Pháp đô hộ gần trăm năm, cho tới hôm nay vẫn chưa thoát ra được, đã vậy còn tròng thêm chủ thuyết Cộng Sản cùng “đồng chí” với Trung Cộng.

Sách sử ghi chép rằng, sau khi Khổng Tử mất, “Lục Kinh & Kinh Nhạc” đã bị thiêu huỷ hoàn toàn. Học trò của Khổng Tử xúm nhau tìm tòi ghi chép lại. “Tam sao thất bổn” thử hỏi có còn chính xác hay không? Đời Nhà Tần “Đốt sách, giết học trò”, thì sách của Khổng Tử cũng bị mất đi khá nhiều.

- Đối Với Phụ Nữ:
Khổng Nho khinh thường phụ nữ:

Khổng Nho đối xử không công bằng với phụ nữ, đã vậy lại còn ràng buộc phụ nữ bằng các thứ giáo điều rất khắc khe tới nỗi vô lý và bất nhân. Những người con cùng cốt nhục do chính cha mẹ sinh ra mà lại phân biệt giới tính (trai, gái) theo cách “Trọng nam, khinh nữ”. Khổng Nho xem con gái là ngoại tộc, bằng câu nói: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Nghĩa là: (một đứa con trai thì coi là có, còn mười đứa con gái cũng coi là không). Thật là bất nhân. Hoặc: “Nữ sinh ngoại tộc” (Con gái sinh ra là con nhà người khác). Vậy mà Khổng giáo còn nói: “Phu phụ tương kính như tân”. Nghĩa là: (Vợ chồng phải kính trọng nhau như một người khách). Khổng Nho, nói hay như vậy thì tại sao lại bắt người phụ nữ phải: “Xuất giá tòng phu”. Nghĩa là: (Một khi đã lấy chồng thì phải phụ thuộc hoàn toàn người chồng). Kính trọng lẫn nhau như khách, mà lại bắt người vợ suốt cuộc đời phải cúi đầu nghe chồng phán bảo mà không được phép cãi lại?! Vậy là người phụ nữ một khi đã lấy chồng thì chẳng khác gì “nô lệ”, chẳng khác gì một người “giúp việc & sinh con” mà không được trả lương?! Nghĩ ra, thật là quá mâu thuẫn.

Lại nữa, đã tôn trọng lẫn nhau, tại sao lại cho đàn ông được quyền: “Nam hữu tam thê tứ thiếp”. Nghĩa là: (Đàn ông được lấy nhiều vợ)! Còn người phụ nữ thì: “Gái chính chuyên chỉ thờ một chồng”? Lại nữa, là: Tình vợ chồng thiêng liêng cùng thề nguyền sống với nhau suốt đời, sống tới “răng long đầu bạc”, đồng cam cộng khổ lo nuôi dạy bầy con nên người, thì bảo là: “Phu thê như y phục”. Nghĩa là (vợ chồng như quần áo), muốn cởi bỏ lúc nào cũng được. Dạy như vậy có khác gì xem phụ nữ là một món hàng để mua bán, trao đổi…?! Trong khi đó anh em ruột thì nói: “Huynh đệ như thủ túc”. Nghĩa là (Anh em như thể tay chân)?

Nghĩ thử xem, anh em ruột chỉ sống chung nhà với cha mẹ khi còn bé, nhưng một khi đã trưởng thành tất nhiên phải lập gia đình rồi tách ra riêng mỗi người sinh sống mỗi nơi, phận ai nấy sống chẳng ai lo cho ai được. Tục ngữ, nói: “Của cha của mẹ thì ham, của anh của chi ai làm nấy ăn” đó thôi. Anh em ruột có khi nào sống chung suốt đời như vợ chồng được đâu? Vợ chồng vốn vì tình yêu (trai, gái) lấy nhau để “truyền giống”, vì nghĩa ân mà nương dựa vào nhau lúc - bệnh hoạn, lúc khó khăn, thì lại xem nhẹ, khinh thường…!

Đau đớn hơn nữa là Khổng Nho, tròng vô cổ người phụ nữ bằng cái gông: “Tam tòng, tứ đức”. Suốt cuộc đời họ lệ thuộc hoàn toàn vô người đàn ông, đó là: [Cha, Chồng, Con Trai]. Khổng Nho bắt buộc phụ nữ học: “Công, Dung, Ngôn, Hạnh”, đó cũng là cái gông tròng vô cổ phụ nữ nhằm phục vụ chồng và nhà chồng. Người phụ nữ chỉ lẩn quẩn ở trong nhà, may vá thêu thùa và sinh con, còn chuyện ngoài xã hội không được quyền tham gia.

Khổng Nho quan niệm rằng: Chỉ có: “Nam nhi đại trượng phu”, “Nam nhân quân tử”. Nghĩa là: Người con trai mới là đúng là bậc quý phái được tôn vinh; con trai mới làm nên việc lớn và đáng gọi là chính trực. Do quan niệm như vậy mà trong mọi nghi lễ chỉ có phái nam mới có quyền đứng ra chủ trì việc cúng tế từ trong nhà ra ngoài xã hội, còn người nữ mệt nhọc lo việc bếp núc để phục vụ thì chỉ loanh quanh ở dưới bếp, ăn uống sau bếp chứ không được quyền bước lên nhà trên! Khổng giáo dạy: “Nữ nhân ngoại tộc”. Đã ngoại tộc thì suốt đời người phụ nữ theo chồng cũng ngoại tộc, chỉ là được tiếng “con dâu”. Người xưa nói: “Thương chồng mới lụy bà gia, Gẫm tôi với mụ chẳng bà con chi”! Một khi người phụ nữ bị chồng, bị nhà chồng đánh đập, ruồng bỏ thì chỗ dựa duy nhất là cha mẹ ruột. Vậy thì tại sao nói phụ nữ là ngoại tộc? Khổng Nho dạy: “Tam niên vô tử bất thành thê”. Nghĩa là: (Ba năm không sinh con không phải là vợ). Không sinh được con, đâu phải là cái tội của người vợ gây ra? Tại sao lại quy tội cho một phía? Mắc mớ gì Khổng Nho tự đưa ra cái “luật” vô lý nhằm chia rẽ tình chồng vợ, làm tan nát tình vợ chồng đang sống êm ấm?! Khổng Nho, tạo tiền đề cho đàn ông có quyền ruồng bỏ người vợ đầu ấp tay gối đã được hai bên dòng họ cưới hỏi và được chính quyền công nhận bằng “giấy giá thú”. Khổng Nho quả thật độc ác!

Khổng Nho dạy: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán”. Nghĩa là: (Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó giáo dưỡng, thân thiết với họ thì họ tự cao, lạnh nhạt với họ thì họ bất mãn). Khổng Nho không hiểu tâm lý và bản chất con người, bởi ở trong con người thiện ác luôn đối chọi để tiến tới “Chân – Thiện – Mỹ”. Vì không hiểu biết nên đã phân biệt, khinh khi phụ nữ.

Khinh thường phụ nữ, cho họ “dơ bẩn nguyệt lịch”! Vậy mà tất cả đàn ông đều chui ra từ (chỗ dơ bẩn nguyệt lịch) ấy của phụ nữ. Bà Đoàn Thị Điểm, nói: “Giai do thử đồ xuất” quả là quá đúng! Hạ thấp giá trị người phụ nữ là hạ thấp phân nửa nhân loại.

Khổng Nho xem thường tiểu nhân. Giả dụ, không người tiểu nhân thì làm gì có người quân tử? Không lẽ con người khi sinh ra là biết làm người quân tử? Nếu được như vậy thì nơi trần gian ô trọc chẳng khác gì chốn Thiên Đường! Ông Tào Tháo ngày xưa đã tin dùng người tiểu nhân, ông còn nói: “Dùng người tiểu nhân đúng chỗ họ sẽ làm được rất nhiều việc hay”.

Trong “Thiên Tự Văn”. Thiên Tự Văn là một cuốn sách ghi chép các điều về giáo lý chính thống của Nho Giáo, như sau: “Ngoại thụ phó huấn, nhập phụng mẫu nghi”. Nghĩa là: (Ra bên ngoài nghe lời thầy dạy, về nhà nhớ lời mẹ). Câu nầy mới nghe thì như có vẻ khen ngợi, nhưng thực ra là áp đặt người phụ nữ nghe lời mà không được tự ý phản kháng. Tuy vậy, Khổng Nho cũng có nhiều câu nói giá trị. Điển hình, như: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Nghĩa là: (Cái gì mà mình không muốn thì đừng bao giờ làm cho người khác).Dưới thời phong kiến vốn dĩ xem phụ nữ không ra gì. Do đó Khổng Nho cũng không dám cất tiếng nói để bênh vực phụ nữ. Đã không dám bênh vực lại còn đổ thêm dầu vô lửa. Tuy nhiên, trong lịch sử Trung Hoa vẫn có những bà mẹ có học thức đã dạy con của họ trở thành bậc tài danh, như: Âu Dương Tu, Tô Thức

Dưới thời phong kiến vốn dĩ xem phụ nữ không ra gì. Do đó Khổng Nho cũng không dám cất tiếng nói để bênh vực phụ nữ. Đã không dám bênh vực lại còn đổ thêm dầu vô lửa. Tuy nhiên, trong lịch sử Trung Hoa vẫn có những bà mẹ có học thức đã dạy con của họ trở thành bậc tài danh, như: Âu Dương Tu, Tô Thức (Tô Đông Pha), Chu Tất Đại… Ngoài ra cũng có một số phụ nữ được cha mẹ cho ăn học và trở thành văn thi sĩ, như: Thi sĩ Thái Diễm trong thời Tam Quốc phân tranh mà Tào Tháo rất coi trọng tài văn thơ cũng như trí nhớ của bà. Tác phẩm “Hồ Già Thập Bát Phách” của bà vẫn còn lưu truyền trong nền văn học Trung Hoa cho tới tận ngày nay. Nữ thi sĩ Tiết Đào (768 – 831) nhà Đường. Bà để lại tập thơ “Cẩm Giang Tập”. Nữ thi sĩ Lương Ý Nương (Nhà Đường) để lại bài thơ “Trường Tương Tư” rất nổi tiếng.

- Đối Với Nam Nhi:
Đối với con trai, thì một mặt Khổng giáo khuyên: “Nam nhi chí tại tứ phương”. Nghĩa là (Làm trai phải có ý chí ở khắp bốn phương trời). “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. (Chinh Phụ Ngâm). Vậy mà lại ràng buộc một câu quá mâu thuẫn: “Phụ mẫu tồn bất khả viễn du”. Nghĩa là: (Cha mẹ còn sống thì không được đi xa). Ngày xưa chính Hàn Tín cũng vì câu nói đó mà cứ lẩn quẩn ở bên mẹ và mả mẹ, nên đã trễ nãi chuyện tiến thân dù tài năng quân sự của ông rất giỏi, thậm chí còn phải chịu “lòn trôn giữa chợ” để có lý do được ở lại quê nhà. Bởi vậy, sử sách Trung Hoa thời trước và thời sau chưa bao giờ khinh khi Hàn Tín chuyện “lòn trôn”. Và khi Hàn Tín làm tướng nhà Hán, ông trở về quê nhà báo ơn người bán thịt heo “bắt” ông lòn trôn giữa chợ.

Khổng Nho, dạy: Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Câu nói nầy ngày xưa là “kim chỉ nam” cho các đấng nam nhi. Thời phong kiến luôn áp đặt thì làm gì có tề gia? Vua chúa lập “Tam cung, lục viện”. Quan lại, Địa chủ lập nhiều thị tỳ thê thiếp. Đàn ông thường dân cũng có quyền năm thê bảy thiếp... ? Cuộc sống gia đình đa thê như vậy, tất nhiên những người vợ và con cháu của họ, dòng tộc bên ngoại của họ sẽ đấu tranh để giành ảnh hưởng, quyền lợi. Và gia đình sẽ luôn - xào xáo, bất ổn, bất an triền miên kể cả đối chọi nhau ngấm ngầm... ! Vậy thì làm sao mà tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cho được đây?

- Đối Với Quan Hệ Vua Tôi:
Khổng Nho dạy: “Thượng bất chính, hạ tất loạn”. Nghĩa là (Ở trên không chính trực thì bên dưới sẽ loạn). Vậy mà lại dạy: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” là hết sức tàn nhẫn, độc ác! Những người có tâm lòng ngay thẳng góp ý kiến xây dựng thì không dám nói, mà có nói ra kế hoạch canh tân đất nước, can gián nhà vua hoặc nói lên sự thật thì nhà vua cũng không nghe lại còn ghép tội “khi quân”, bị “Tru di tam tốc, Tru di cửu tộc”. Đã vậy còn dạy: “Quân dĩ dân vi bản”. Nghĩa là: (Vua lấy dân làm gốc). Nhưng lại dạy: “Một tấc đất là của nhà vua, hột lúa, ngọn rau là nhờ ơn của vua ban cho”. Trong khi đó vua chúa, quan lại “ăn bám” của dân mà sống.

- Đối Với Tình Cha Con:
Khổng Nho dạy: “Phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. Nghĩa là (Người cha bắt con chết thì người con phải chết, người con không chịu chết là bất hiếu). Người xưa có câu: “Hổ dữ còn không ăn thịt con”, huống hồ là con người! Tại sao lại dạy cho “người cha” mất đi nhân tính như vậy? Người cha nào có phải quan tòa đâu mà xử án giết chết con ruột của chính mình? Luật lệ của vua chúa đặt ra để làm gì? Từ đó, ngươi cha lộng hành rồi trở thành “Gia Trưởng”, có toàn quyền sanh sát - bắt vợ con phải tuân theo ý mình bằng không sẽ bị giết; bị đem đi bán cũng như lập nhiều thê thiếp mà không dám cãi…! Khổng Nho dạy con người trở thành “ngu trung” – trung thành một cách mù quáng – mọi sự phản kháng đều bị ghép tội.

- Đối Với Vua Chúa, Quan Trường:
Khổng giáo với tham nhũng:
Trung Quốc tụt hậu so với Phương Tây nhiều năm về - chính trị, giáo dục, công nghệ, kinh tế, quân sự - cũng vì cố bám theo Khổng Nho. Do đó các học giả Trung Quốc sau nầy đã nhận thấy nguyên do tai hại của sự tụt hậu và mạnh dạn từ bỏ. Khổng Nho có liên quan trong vấn đề “tham nhũng, gia đình trị”. Lý do là dạy con người chỉ biết nghe theo một chiều, chỉ chấp nhận hiện tại - cho dù có chịu cảnh túng thiếu nghèo đói; cho dù chịu ngu dốt; cho dù bị đàn áp; cho dù bị ly hương... - mà không hề dám nhìn về tương lai, không dám phản kháng để mặc cho bọn tham quan cấu kết, lộng hành… Hiện nay căn nguyên đó vẫn đang còn ảnh hưởng.

Nhìn Chung:
Khổng Nho xây dựng hệ thống tư tưởng dựa theo vòng quanh chữ “Nhân” để đề ra phạm trù đạo đức: “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, nhằm áp đặt niềm tin tuyệt đối, có thể nói là “bắt buộc”. Bắt buộc bách tính tuyệt đối trung thành với Vua Chúa - cho dù vua chúa, sai phạm, hủ bại thậm chí làm mất nước vẫn u mê trung thành mà không dám hé răng phản ứng, đối chất… Sự áp đặt đó đã làm thui chột trí tuệ, làm mất đi sự sáng tạo, khai phóng canh tân trong mọi lãnh vực của đời sống, từ: kinh tế, khoa học, chính trị, xã hội, giáo dục, nghệ thuật - đồng thời làm mất hết nhuệ khí, nghị lực của tuổi trẻ. Tệ hơn nữa là làm cho người dân tê liệt sự phản kháng, sự phê phán cái xấu của kẻ độc ác, độc tài.

Thật ra những phạm trù đạo đức Khổng Nho đề ra chỉ là gom lại các mối liên hệ nhân bản tự thân đã có sẵn trong tâm lòng ở mỗi con người; cũng như các hình thái đối nhân xử thế giữa người với người; với chòm xóm láng giềng. Mối liên hệ nhân bản tự thân chính là lẽ sống tràn đầy yêu thương đã có từ lâu - đã có từ rất lâu, trước khi Khổng Nho xuất hiện. Nhân ái, nhân bản luôn luôn có sẵn trong mối giao hảo trước khi “Chữ Nhân” ra đời.

Chữ nhân “chữ viết” ra đời chỉ là để hoàn thiện, để làm sáng tỏ ý nghĩa “Hàn Lâm Văn Chương” hầu truyền lại cho các thế hệ sinh sau bằng văn bản, chương hồi... Chữ Nhân () gồm bộ thủ nhân (), và bộ nhị (). Hai “bộ thủ” hợp chung lại thành một chữ Hội Ý. Vậy “chữ nhân” có nghĩa là đại diện diễn tả làm sáng danh phẩm chất đạo đức trong quan hệ trực tiếp giữa người với người bằng hai bộ chữ nhân lồng ghép vào với nhau. Nghĩa là: “hiển nhiên” có hai người là hình thành ở trong một nhóm; hình thành một gia đình. Từ đó khởi sự cho một hình thái xã hội quần thể. Chữ Nhân chính là cách sống nhân bản, nhân ái đối xử trong tình thương yêu, san sẻ đùm bọc. Con người khi tượng hình từ trong bào thai thì “nhân” đã có từ đó rồi, chứ không phải đợi cho tới khi có (chữ nhân) mới biết rằng có nhân.

Tóm Lại:
Chẳng thà không biết gì hết, còn hơn là biết mà biết toàn chuyện sai lầm. Tư tưởng sai lầm sẽ gây ra sự đau khổ cho quê hương, đất nước và cho nhiều thế hệ con cháu. Thậm chí cho toàn nhân loại... Nguy hiểm hơn là làm tay sai cho giặc dẫn tới mất tổ quốc, làm nô lệ cho ngoại bang. “Chủ thuyết sẽ mất đi nhưng dân tộc thì trường tồn”. Ở vào thời buổi công kỹ nghệ mà quốc gia nào còn đeo bám Khổng Nho làm kim chỉ nam cho giáo dục là dẫn đất nước đi thụt lùi về mọi mặt.

Trong bài viết nầy không đề cập tới chuyện “Đúng, Sai”. Sự thật vẫn là sự thật, sự thật không phải dùng để chỉ trích - (người nầy sai, kẻ kia đúng). Nhưng, phải thấu hiểu sự thật thật sâu xa bằng với các sự việc “khác nhau”; ở trong một sự kiện khác nhau; ở trong một thời điểm khác nhau; ở trong một chủ thuyết ngoại lai du nhập sai lầm. Nhận thức bằng cách tự đặt lại vấn đề, tự vấn lại lương tri hầu làm sáng tỏ... Từ đó, đừng hùa theo số đông nhằm “phong thánh” cho một ai đó, cho một chủ thuyết không tưởng mà bị mắc lừa. ./.

Trang Y Hạ.
(Trần Phước Hân)
Viết tại San Francisco, 2009.