NHỮNG KHOẢNH KHẮC CHƯA QUÊN
Trang Y Hạ
Tôi rời Kontum từ ngày mười sáu, tháng ba, năm một nghìn chín trăm bảy mươi lăm trên con đường 7B - từ Cheo reo về Củng Sơn, Tuy Hòa. Và, tôi đã ghi lại trong "Đêm Bên Bờ Sông Ba" nói lên tình cảnh "Di Tản Chiến Thuật" của quân và dân Kontum, Pleiku - đã âm thầm và hỗn loạn rời khỏi Cao Nguyên trong nuối tiếc và bất lực! Máu, mồ hôi và nước mắt đổ xuống trên con đường mòn 7B. Bên dòng sông Krong Pa. Dòng sông chứng kiến cảnh ngậm ngùi chia ly và thất lạc nhau mà cho đến mãi tận bây giờ, những người trong gia đình chạy theo cuộc "di tản" năm xưa đó vẫn chưa tìm được người thân cho một lần đoàn tụ!
Trên
đoạn đường gian nan và máu lửa đó. Tôi và một số
người dân may mắn thoát vể thành phố Tuy Hòa vào một
chiều ngày mười chín tháng ba. Đêm ấy, chúng tôi ở
tạm trong nhà một người dân tốt bụng ven Thị Xã.
Người chủ nhà là một người đàn ông khoảng năm mươi
tuổi vẻ mặt hiền lành. Ông ta rất là bình thản với
công việc hằng ngày, không thấy có vẻ gì lo âu hay
chuẩn bị di tản như chúng tôi. Ông chuẩn bị cơm nước
cho chúng tôi thật chu đáo, và sắp xếp chỗ cho chúng
tôi ngủ - dù là ngủ ngoài hiên, vì nhà ông cũng quá
nhỏ. Thỉnh thoảng, ông ta thở dài, nói với chúng tôi:
"Hòa bình sắp đến rồi, chạy đi đâu cho khổ hở
bà con?". Đối với những người phụ nữ và trẻ
con thì họ không hiểu lời ông ta nói, nhưng đối với
tôi - câu nói của người chủ nhà thật sự làm cho tôi
lo lắng! Và suốt đêm đó tôi ngồi chờ trời sáng.
Quốc
lộ một, đoạn Tuy Hòa trong những ngày tháng ba người
dân và quân đội di tản từ những tỉnh miền ngoài đổ
vào Nam – gồm
xe
quân sự, xe dân sự kể cả người đi bộ chật không
còn chỗ chen chân. Ai cũng túm tụm một giỏ hành lý bên
người. Khổ nhất là những người phụ nữ! Tay xách
nách mang..., con thơ khóc ngằn nghặt bởi khát sữa, mỏi
mệt... Nhất là, không khí oi bức của nắng nóng miền
Trung. Vậy mới biết dù sống trong cảnh thanh bình người
phụ nữ vẫn khổ bởi làm lụng nuôi con, nuôi cha mẹ,
thay chồng đi giữ nước. Chiến sự xảy
ra... Người phụ nữ càng đau khổ nhọc nhằn gấp hàng
trăm lần! Chúng tôi khó khăn lắm mới thuê được chiếc
xe "Dahatshu"
với cái giá khá cao để chạy vô Nha Trang. Nhưng
người chủ xe ngần ngừ "sợ" không muốn chạy.
Ông ta nói: " Vô Nha Trang sợ bị kẹt đường không
trở ra được bởi gia đình cũng chuẩn bị xuống ghe
nhà, đi di tản". Chúng tôi năn nỉ quá ông mới miễn
cưỡng chạy. Vô tới
Nha
Trang, chúng tôi thấy bến xe đò vẫn còn tấp nập nhưng
không hỗn loạn, giá cả có nhích lên chút đỉnh, chẳng
qua là khan hiếm xăng dầu chứ thật ra không có cảnh
"chặt chém". Người dân Nha Trang cũng rục rịch
đi tản như chúng tôi nhưng không có gì gấp gáp.
Đến
Phan Thiết, tôi ở tạm nhà bà con mấy hôm, tình hình
trong thị xã vẫn còn yên tỉnh, người dân đổ xô ra
ngân hàng rút tiền. Tôi lại nghe: tin cộng quân đánh lớn
ở ngã
ba Bình Tuy, ngã
ba Ông
Đồn cũng bị Cộng quân chặn. Như vậy đường bộ về
Sài Gòn coi như không thể đi được. Người bà con của
tôi, họ
sống lâu đời tại thị
xã Phan
Thiết bằng nghề đánh bắt cá nên quen biết nhiều chủ
ghe buôn hàng, từ: Sai Gòn - Phan Thiết và ngược lại.
Vậy là, một chuyến đi đường biển cho tôi vô Sai Gòn
được người bà con sắp xếp cẩn thận. Tôi ăn mặc
như người dân đi buôn. Đúng sáu giờ sáng tôi xuống
ghe và lênh đênh trên biển, hai ngày sau ghe cập bến
Chánh Hưng, quận Tám.
Tôi
chạy về nhà xưởng ông anh ở Cầu Tre, trên đường
Hương Lộ 14, để báo tin... Sau đó, tôi về trình diện
Bộ Nội Vụ. Nơi đây phối trí tôi ra Làng Đại Học
Thủ Đức - làm công tác tiếp cư. Làng
Đại Học Thủ Đức xây dựng chưa xong, nhiều nơi còn
ngổn ngang cát đá... Người chạy loạn các nơi chạy về
được "Tổ Tiếp Cư" chúng
tôi tiếp
nhận cho vào ở trên các tầng lầu, đồng bào tạm cư
được phát chiếu, thùng nhựa đựng nước và thực
phẩm. Chỗ ăn ở rộng rãi thoáng mát. Nhưng rồi
đồng
bào chạy loạn đỗ về càng ngày càng đông, thành ra
chật chội, ngay cả hành lang, cầu thang cũng chật
kín
người - nằm ngồi la liệt... Ruồi, muỗi và không khí ô
nhiễm bắt đầu tấn công. Toán tiếp cư chỉ lo thực
phẩm đã không xuể, còn nhân lực đâu mà tính đến
chuyện khác. Hằng ngày, đồng bào - từng giờ lắng nghe
đài BBC đưa tin về chiến sự - tất cả tin tức từ đài
nầy loan đi đều bi quan: "Nay mất tỉnh nầy, mai mất
vùng nọ..."! Một đồn mười, mười đồn trăm, gây
một nỗi
hoang mang trên từng khuôn mặt mỗi người. Họ lo lắng,
họ
sợ
sệt vì gia đình nào cũng có người thất lạc hoặc
bị thương, bị mất tích và chết!
Một
buổi chiều ngày 21.4. 1975, mọi người quây quần để
theo dõi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đọc diễn văn từ
chức. Họ lắng nghe say sưa, mặt người nào người nấy
lộ vẻ đăm chiêu, thở dài... Những đôi mắt nhìn nhau
như vô hồn. Khi Tổng Thống đọc bài diễn văn xong. Mọi
người thẫn thờ bước đi loanh quanh - mang theo một tâm
trạng chán chường, hoang mang. Hình như đồng bào đã
linh cảm một cái gì đó ập xuống trên đầu mà không
biết lúc nào? Tôi và mọi người còn nghe tin nói rằng:
"Sẽ chia đôi miền nam, từ Tuy Hòa trở ra Huế là
của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Còn từ Tuy Hòa trở
vào là của Việt Nam Cộng Hòa". Do đó, đồng bào
bằng mọi giá phải theo Quốc Gia vô địa phận Nha Trang
cho chắc chắn. Dù bằng đường bộ hay đường biển
cũng phải chạy.
Thế
rồi, Cộng quân tràn vô Sai Gòn! Sáng ngày 30.4.1975, đồng
bào chạy loạn tại Làng đại học Thủ Đức kéo nhau vô
Sai Gòn tìm xe về quê. Còn người trong nội ô
Sai Gòn thì ùn ùn kéo nhau đổ trở ra. Một cảnh kẹt xe
khủng khiếp ngay tại ngã
tư Hàng Sanh.
Tại quân cảng - cầu Tân
Cảng,
(sau
1975, gọi là cầu Sai Gon) kho
gạo và thực phẩm khô tại đây bị phá, mặc cho mọi
người hôi của. Tuy nhiên, chẳng tìm đâu ra được một
nụ cười trên môi. Mấy ông cách-mạng-ba-mươi, trên tay
đeo băng đỏ - mặt mày "lên đời, rất ư là nghiêm
nghị, miệng luôn quát tháo..."!
Tôi
trở về nhà ông anh, thân xác mệt mỏi lẫn chán nản,
không biết số phận của mình trong những ngày sắp tới
sẽ ra sao. Ngoài đường người ta treo cờ "Mặt trận
giải phóng, cờ đỏ sao vàng" còn các thanh niên cũng
tự tìm việc gì đó để làm, nhằm bày
tỏ
"tấm lòng tha thiết" đối với cách mạng. Trong
nhà ai có đồ đạc quần áo dính líu đến Mỹ Ngụy
như: Sách vở, muỗng inox, đồ lính trận... tất cả đều
đem ra đường bỏ hoặc giấu kỹ. (một
số dụng cụ inox có khắc chữ VNCH). Các
cô gái, lo cắt cụt hết các móng tay vì nghe đâu cách
mạng vô sẽ rút móng, nếu cô nào còn để móng tay dài,
mỹ phẩm son phấn cũng đem ra đường vứt bỏ. Tin khủng
khiếp là ép gả các cô gái cho thương binh cách mạng!
Những người làm việc cho "chế độ cũ"
thì phập phồng lo sợ! Hễ nghe ở đâu đó có "cán
bộ cách mạng" họp dân... Dù không ai mời, cũng lăn
xăn chạy đến nghe ngóng "chính sách khoan hồng của
cách mạng" như thế nào? Để biết số phận của
mình được định đoạt ra sao? Nhà cửa có bị tịch thu
không? Đi tù
lâu hay mau? Hàng trăm câu hỏi đặt ra mà không ai biết
để trả lời. Chỉ đoán già, đoán non... ! Thời gian cứ
lấp lửng chầm chậm trôi qua trên những khuôn mặt lo
lắng...
Tại
Tổng Y Viện Cộng Hòa, những anh chị em Thương Bệnh
Binh được "ưu ái mời ra đường", dù trên người
mang lỉnh kỉnh dây truyền dịch, bông băng... Tất cả bò
lê, bò lết tìm đường về quê. Ai không có quê, không
có người thân thì lang thang trông chờ người hảo tâm...
Nhưng trong bối cảnh "hỗn quân, hỗn quan" nầy
ai cũng lo cho bản thân và gia đình. Tấm lòng nhân ái
không phải không có. Mọi người chỉ giúp đỡ trong
khoảnh khắc nào thôi. Tất cả vô nhà Thờ, nhà Chùa để
tạm sống. Không riêng gì tại Tổng Y Viện Cộng Hòa ở
Sai Gòn mà có lẽ hầu hết các Quân Y Viện trên toàn
miền Nam đều cùng chung một số phận như vậy!
Tôi
đến trình diện "Ủy Ban Quân Quản" tại tỉnh
Hành Chánh Gia Định. "Chính quyền cách mạng" tại
đây cấp cho tôi miếng giấy to cỡ bẳng bốn ngón tay,
có
chữ ký của ông Cao Đăng Chiếm.
Người cấp giấy nói: "...về nhà chờ gọi đi "học
tập... !". Nhìn những người Bộ đội ở trần, đầu
đội nón cối nấu ăn phía sau tòa
nhà hành chánh.
Họ nói cười vui vẻ! Thật đúng là một ngày "Hòa
Bình Thống Nhất" của họ! Trong lòng tôi không thấy
thống nhất? Hoàn toàn xa lạ và hụt hẫng, mất mác!
Những khuôn mặt người
lính chúng tôi cũng như người dân - thất
thần, hoảng sợ - bước nhanh qua đường như chạy trốn
- chạy trốn nơi đâu mới được chứ?
Ông
anh tôi làm kỹ thuật cơ khí cho xưởng "Nhựa Bao Bì"
ở cầu Tre. (Hương
Lộ 14). Ông
chủ xưởng là người Hoa, cũng là anh em kết-nghĩa với
ông anh của tôi. Ông chủ lấy vợ Việt, người ở
Cần
Thơ hay
An Giang…?
Vợ chồng ông
ở
với nhau lâu ngày mà không có con. Gia đình bên vợ ông ở
dưới quê khó khăn và
mất an ninh
nên trai gái đều dồn hết lên làm công nhân trong xưởng
nhựa. Trong số đó có cô em vợ của
ông rất
xinh. Gia đình cố ý dàn xếp cho cô nầy làm vợ ông chủ
(hai chị em lấy chung một chồng), sinh được hai trai, hai
gái. Cô nầy có người anh trai tên Hóa,
dáng người to lớn, vẻ mặt hiền, tính tình vui vẻ dễ
bắt chuyện. Anh ta giữ chức vụ điều hành công nhân
trong một phân xưởng. Công nhân đa phần người Việt.
Hồi
còn ở Kontum. Hàng tháng vào ngày hai mươi mốt tây, mỗi
tháng, tôi ôm hồ sơ lương về Sai Gòn nộp và nhận chi
phiếu tại Tổng Nha Tài chánh trên đường Nguyễn Huệ.
Sau đó, đem về Ngân Khố tỉnh KonTum,
lãnh
tiền phát lương cho đơn vị. Thời gian đi về theo
Sự-Vụ-Lệnh là bảy ngày, đi bằng đường Hàng Không
Dân Sự, đôi khi cũng đi bằng máy bay quân sự: C 47,
Caribu. Công việc tài chánh nhanh thì khoảng chừng ba ngày
là xong, thời gian còn lại tôi đi chơi hoặc vô Thư
Viện...
Vợ
chồng ông anh tôi và những người ở dưới quê lên làm
công đều ăn ở tại xưởng. Mỗi lần tôi về Sai Gòn,
tôi đều ở nhà anh chị trong xưởng. Tối đến, tôi
thường uống bia với anh Hóa, hoặc đánh cờ tướng với
anh Sồi Chảy. Anh Sồi Chảy là người Hoa, anh ấy rất
ghét ông Tổng Thống Thiệu (có lẽ vì xu hướng hay cảm
tính...?). Cuộc biểu tình của sinh viên nào anh cũng bỏ
công việc đi tham gia - mặc dù anh chẳng phải là sinh
viên. Nhưng anh lại có cảm tình với tôi, dù biết tôi
là viên chức của chính phủ VNCH. Tôi cũng được ông
anh (bỏ nhỏ) : "Đừng có nói nhiều...(?)".
Ngày
Cộng
quân chiếm Sai Gon,
tôi thấy anh Hóa,
mặc đồ Bộ đội. Còn anh Sồi Chảy và một số ít
anh
chị em công nhân trong xưởng nhựa mang băng đỏ suốt
ngày chạy ngoài đường. Nào là
đi
đón Bộ đội ở Dinh Độc Lập! Nào là
mừng lễ ngày lao động một tháng năm! Nào là lo ăn uống
cho gần mười anh Bộ đội miền Bắc đang ở trong xưởng.
Nhìn chung cái xưởng giống
y như là
"cơ sở cách mạng" đã có từ lâu nay, bây giờ
mới đường hoàng lộ diện (tôi nghĩ vậy). Đối với
tôi, "họ" vẫn vui vẻ như ngày nào, nhưng
hình như có cái gì đó, lạ... lạ,... Ngăn
cách mà cũng như không ngăn
cách...
Xưởng
nhựa vẫn hoạt động cầm chừng, công nhân tự động
về quê chỉ còn lại khoảng mươi người - toàn người
trong gia đình. Ông chủ suốt ngày uống rượu, trông ông
tiều tụy, chán nản. Bà chủ nhỏ cùng anh trung úy bộ
đội trẻ "quản lý" công việc...
Ông
anh tôi,
phụ
trách về kỹ thuật nên ông được lệnh cho chạy
máy làm
việc.
Xưởng hoạt động cầm chừng, rỗi rảnh, anh tôi ngồi
uống bia cùng với mấy ông bộ đội miền Bắc. Đôi khi
tôi cũng tham dự và nghe các ông ấy nói:
"Ngoài
miền Bắc chúng tôi đã tiến nên chủ nghĩa xã hội.
Được sự giúp đỡ vô cùng to lớn của ông Liên xô,
ông Trung Quốc... Do đó, người dân miền Bắc chúng tôi
- đời sống - nói chung - rất "nà" sung sướng!".
Chúng
tôi chỉ biết nghe, và nghe, chẳng hiểu "chủ nghĩa
xã hội" là cái chủ nghĩa -chi chi - mà sao sung sướng
quá vậy...?
Những
tòa nhà chính phủ VNCH, những nhà dân bỏ đi "di tản"
- Bộ đội chiếm đóng, các ông đập hết các cánh cửa
gỗ, lấy củi nấu ăn khói bay mù trời... Chúng tôi để
ý thấy mấy ổng không bao giờ đi lẻ tẻ, lúc nào đi
cũng ba bốn người với nhau. Trẻ nhỏ bu quanh xem các chú
bộ đội đông nghịt. Tôi thấy có người đàn ông già
nua lật tìm trong những đống sách vứt bỏ ngoài đường,
và gom lại - đem đi? Tôi cũng thấy có người mẹ già
nua gom giày, quần áo của lính - đem đi? Tôi cũng thấy
có người chị gom những tấm hình các loại còn rất đẹp
- đem đi? Tôi cũng thấy có người đưa quan tài ra Nghĩa
Trang hay đi đâu không biết nữa...!
Tôi
đi tù,
hay còn gọi là đi "học
tập cải tạo" trở về! Thời gian bảy năm trôi qua
kể ra cũng quá lâu! Những đổi thay bên ngoài như: Đổi
tiền, đánh tư sản, kinh tế mới, vượt biên, và nhất
là tin "chiến tranh biên giới Việt Trung, năm
1979"
chúng tôi hoàn toàn không hay biết. Có biết chăng chỉ
nghe loáng thoáng qua sự rỉ tai của một số anh em tù
"cải
tạo viên" nhạy bén bắt được thông
tin
của người thân trong lúc thăm nuôi. Dù tam sao thất bổn,
nhưng cũng rất là: quí
báu. Ngày
còn ở
trong trại tù,
khi được
"thăm
nuôi". Tôi nghe mẹ, nói - “Anh
tôi vẫn còn làm việc trong xưởng nhựa như cũ. Xưởng
không bị tịch thu trong lần đánh "tư sản mại bản,
công thương nghiệp". Tôi
nghe mẹ nói, nhưng không hình dung “đánh tư sản” là
đánh ra sao, đánh như thế nào?
Ngày
tôi thả
khỏi trại tù, tôi rất
háo hức đi vô Sai Gòn thăm vợ chồng anh chị, các cháu,
và những nơi tôi đã từng đi qua - những nơi hò hẹn
tình yêu, bạn hữu... Nhưng khổ nỗi không có tiền đi
xe, quần áo cũng không có. Suốt tuần ở trong rẫy - cưa
củi, đốt than, xẻ gỗ bán. May ra cũng chỉ đủ ăn mà
thôi. Một phần còn bị quản chế. Chiều thứ bảy, thồ
nông sản hay than củi về nhà, sáng chúa nhật đi dự lễ
nhà Thờ. Sáng thứ lại phải
vào
rừng. Ngày ngày, cứ nối đuôi nhau cuốn hút trôi đi
không thể tách ra được.
Rồi
dịp may cũng đến! Cha Carat chính xứ họ đạo Diên
Bình của
tôi ngày xưa. Năm 1972, mất
quận DakTo,
Cha
Carat
dẫn người
dân,
chạy từ Tân Cảnh, Diên Bình đi về thị xã KonTum. Cha
bị Cộng
quân
chặn
bắt
ở
khúc cua làng Kon Hơnong.
Cha
được
trả
về
Pháp sau năm 1975. Từ bên Pháp, Cha gởi cho một ký thuốc
Tây (ba tháng cho một lần, mỗi lần một ký). Anh em cúng
tôi,
ai có gia đình cũng nhận được quà của Cha, kể
cả mẹ tôi.
Vậy là gia đình tôi được nhà
cầm quyền xã xếp
vô "diện có thân nhân ở nước ngoài", hơn nữa
là dân Thiên Chúa Giáo, nên
xã
"quản lý" đặc biệt. Mỗi khi thấy ông bưu tín
viên, đem giấy báo nhận quà đến nhà - cả nhà ai cũng
mừng rỡ! phải lo tiền "làm quà" cho ông ấy, và
cảm ơn rối rít...!
Sau
ngày
30.4.1975,
tất cả xe đò đều chuyển qua chạy than, thứ than củi
người dân đốt đem ra bán, trong đó có tôi. Xe nào cũng
đeo phía sau cái thùng than
thật
to.
Than
được đốt lên để làm sức đẩy cho xe chạy thay
cho xăng dầu,
kiểu như xe lửa chạy bằng hơi nước ở vào đầu
thế
kỷ thứ 19 vậy.
Anh lơ xe lúc nào cũng ngồi gần bên
thùng
than – anh
ta vừa
đón khách, vừa thu tiền, vừa "chăm sóc" thùng
than. Xe trèo dốc, hơi yếu lửa
là
anh ta lấy cục canh bánh xe, gõ... gõ... mạnh vào thùng
than. Hành khách ngồi trên xe mặt mày, quần áo dính đầy
bụi than. Chúng tôi ở Căn Cứ, phải đón xe lên Long
Khánh. Từ Long Khánh muốn đi "thành phố Hồ Chí
Minh" cũng phải xếp hàng mua vé. Vé ưu tiên cho: "Bộ
đội, gia đình có công với cách mạng, cán bộ đi công
tác”, được
ưu tiên mua
vé trước.
Cuối cùng mới đến người dân - mua được vài người
là hết vé! Lại phải chờ chuyến sau!
Nhận
được ký thuốc Tây,
phải
đi vô "thành phố Hồ Chí Minh" bán, đi và
về
mất hai ngày công. Nhà nước quy định số quà "Việt
Kiều" gởi cho thân nhân ở trong nước - khoảng - năm
đến bảy ký gì đó? Tôi không nhớ rõ cho lắm. Quá số
ký ấn định sẽ bị phạt nặng hoặc bị nhà nước
tịch thu. Một lần tôi thấy anh cán bộ Bưu Điện có vẻ
vui vui! Tôi bạo miệng nói: Dạ thưa anh cán bộ! Ở trong
tù
“cải
tạo”, tôi được nghe cán bộ chính trị trại nói "Tụi
đế quốc Mỹ tàn ác, xâm lăng, đi chiếm đất khắp thế
giới, trong đó có Việt Nam chúng ta... Nhưng đồ dùng của
nó tốt lắm. Như vậy, thì tại sao nhà nước hạn chế
nhận quà?” Anh cán bộ bưu điện vui vẻ nói "Chính
vì, nó... quá tốt ! mới hạn chế! Nhà nước ta là nhà
nước - “Đỉnh Cao Trí Tuệ” của nhân loại, đã thấy
được điều đó. Nếu không hạn chế, dân chúng sẽ ỷ
lại có
tiền quà của bọn đế quốc mà không chịu - tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc
lên Chủ nghĩa xã hội. Ở Liên xô, Trung Quốc, Đông Âu,
kể cả miền Bắc nước ta họ đã lên... hết rồi! Còn
miền Nam chúng ta đi trước lại về sau - thật buồn!
Trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, Nhân dân ta
chỉ có: giáo,
mác, tầm vông đã đâm cho bọn Mỹ rớt toàn bộ B - 52,
Thần sấm, Con ma, Cánh xập cánh xòe...". Cán bộ nói
chuyện vui quá! "Đúng như thế đấy chứ! Bằng
chứng là đế quốc Mỹ cuốn cờ chạy trối chết về
nước, còn bọn ngụy bán nước như các anh được cách
mạng khoan hồng, không giết - cho đi học tập cải tạo.
Các anh phải đời đời biết ơn...".
Tôi
thầm nghĩ - anh cán bộ bưu điện nầy rất là thuộc bài
vở. Vậy mà, tại sao ổng lại làm việc ở ngành phát
thư nầy không biết?
Tôi cùng gia đình đứa em gái thứ bảy, nhận quà cùng một đợt. Tôi rủ người em rể xuống xã xin "giấy phép tạm vắng" ngày hôm trước, để sáng hôm sau đón xe đò đi thật sớm cho kịp giờ đứng xếp hàng ở bến xe Long Khánh chờ mua vé. Chúng tôi đem bán thuốc tây ở trên đường Hai Bà Trưng, gần nhà thờ Tân Định. Thuốc còn hạn xử dụng thì có giá. Thuốc hết hạn xử dụng "Nhà thuốc" vẫn mua, nhưng giá mua chỉ còn phân nửa. Trung bình mỗi lần bán ký thuốc cũng kiếm được từ - tám trăm đến một ngàn hai trăm đồng là quá mức. Nói thật lòng, cũng nhờ món quà từ ông Cha Carat mà gia đình tôi thoát qua cơn khốn khổ một thời gian dài.
Tôi
ghé thăm ông anh. Anh em ôm nhau bồi hồi xúc động. Gia
đình ông anh không còn ở trong xưởng như trước, nay đã
mua nhà ở bên quận Tám. Tôi trở lại Sài Gòn sau hơn
bảy năm xa vắng. Tôi như người từ cung trăng mới
xuống... Cái gì cũng "lạ !" - lạ nhất là đường
phố có nhiều xe đạp. Ông anh tôi đạp xe hằng ngày từ
đường Hưng Phú quận Tám qua Cầu Tre Hương Lộ 14 để
làm việc. Nhìn chỗ nào cũng thấy vựa cây, củi, thang
tre, tiệm mộc.. Nhà
ở cũng làm bằng gỗ, gác gỗ. Nấu nướng bằng củi.
Đường phố nào cũng thấy "tiệm mộc" và sản
phẩm mộc bày bán nhan nhản lấn ra cả ngoài đường.
Bữa cơm tối gia đình được dọn ra. Nhìn vô mâm cơm đặt dưới nền xi măng. Tôi thấy có tô canh cá lóc. Hình như hiểu cái nhìn của tôi, chị dâu tôi buộc miệng nói: "Hôm nay, anh chị đãi chú mà! Anh chị vẫn còn nhớ chú thích món canh chua cá lóc ! "Bảy năm rồi phải không chị? Tôi nói trong sự xúc động đến nghẹn lời! Em cảm ơn anh chị đã không quên thằng em khốn khổ nầy”. Anh tôi nói nhỏ gì đó, vào tai đứa con gái út. Nó mới mười hai tuổi đầu. Con bé bỏ cái "bi đông" vô trong cái giỏ đi chợ, xăng xái xách giỏ đi đâu đó...? Chừng hai mươi phút trở về - đi thẳng ra sau bếp. Anh tôi nói “Hồi chiều anh đã "đăng ký tạm trú, tạm vắng" cho chú rồi đó! Chú đừng có sợ!". Anh tôi vừa nói vừa đổ bi đông rượu vô cái ấm bằng đất có vòi và đậy nắp lại. Anh quay ra đóng cửa chính, kéo màn cửa sổ. Anh nói tiếp "Anh được ưu tiên làm lại xưởng cũ nhưng xưởng bây giờ là "Công Tư Hợp Doanh" do nhà nước quản lý. Lương, khi có khi không! Đôi khi họ trả lương bằng thực phẩm, hay sản phẩm của mình làm ra rồi tự đem đi bán lấy tiền. Lời ăn lỗ thì chịu. Không như ngày xưa đâu, khổ sở lắm! Vợ chồng anh chị biết chú ở trong tù rất cực "Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại" mà! Nhưng những người ở ngoài "xã hội mới..." cũng không sướng hơn bao nhiêu đâu. Cũng "lao động là vinh quang"; cũng ăn mì lác, bo bo, cũng họp tổ dân phố, cũng bình bầu người tốt, việc tốt...". Ôi, thôi đủ thứ chuyện trên đời. Ban đêm giấc ngủ cũng chẳng yên! Mấy ổng - Công an khu vực muốn xét "hộ khẩu" lúc nào thì xét. Gõ cửa ầm ầm cả xóm đều thức. Có điều trái ngược là - ai cũng gắng tập: "nói gian, nói dối" để luồn lách kiếm miếng cơm sống qua ngày. Tập nói gian, nói dối riết đâm ra... chẳng biết mắc cỡ hay xấu hổ gì ráo, cứ "vô tư" vui vẻ mà nói, thậm chí với cha mẹ, vợ con, bạn bè cũng nói dối tuốt luốt”!
Anh
tôi,
lấy
ra ba cái chén đất rót ra ba chén rượu. Anh bưng một
chén đặt trên bàn thờ..., rượu màu nâu nhạt, khói
nhang
quyện lung linh đầm ấm. Anh nói "Rượu Cây-Lý đó
chú! Thứ rượu nầy ngày xưa chưa từng biết để uống.
Bây giờ quý như vàng! Và uống cũng phải "trùm mền"
mà uống chứ không dám uống công khai!". Hai anh em
cụng chén! Tôi run run bưng chén rượu uống một hơi hết
sạch! Bất chợt hai hàng nước mắt chảy dài... Đứa
cháu gái đi mua rượu hồi nãy thấy vậy vội buông đũa
nhào lại ôm tôi khóc rấm rức...Không biết đứa cháu
gái khóc thương cho cuộc đời của chú nó, hay khóc vì
sợ tôi uống thứ rượu "Cây Lý" không được?
Hồi tôi đi tù
"cải
tạo", cô bé mới năm tuổi, đâu có biết gì! Đêm
đó chị dâu tôi giăng mùng cho hai anh em tôi nằm ngủ
dưới cái nền xi măng.
Ngày
hôm sau hai anh em tôi chở nhau trên chiếc xe đạp đến
xưởng làm - cái xưởng mà ngày xưa mỗi lần đi công
tác về sai Gòn, tôi thường ở lại chơi cùng anh chị và
các cháu vài ba bữa. Tôi gặp lại anh Hóa
tại xưởng. Anh sững sờ, lọng cọng rơi cái "cờ
lê" trên tay xuống đất. Tôi nghĩ chắc anh không ngờ
tôi còn sống từ trại tù "cải tạo" trở về.
Trông anh có vẻ bơ phờ, vợ anh cũng chạy ra đon đả...
Anh cho biết bốn đứa con anh, hai đứa lớn nghỉ học ở
nhà trông em và phụ giúp việc nhà. Vợ chồng anh cũng
mua được căn nhà nhỏ trong hẻm.
Tôi không nhắc lại chuyện ngày cũ,
(chuyện
anh làm cách mạng), nhưng
anh thở dài, tự
nói
"Đất guộng nhà cửa của
mình
ở dưới quê, không "theo"
cũng không được. Mấy năm dzô "tập đoàn, tập
thể"! Dzồi cũng trắng tay " !
Hôm
sau, anh Hóa
xin
nghỉ một ngày dẫn tôi đi xem phim ở trên đường "Châu
văn Liêm", (trước
là đường Tổng Đốc Phương).
Tôi thấy người ta xếp hàng rồng rắn để mua vé. Đứng
đợi gần một giờ mới mua được! Tôi đâu còn tâm trí
để xem phim Liên Xô, ở trong tù có
coi
tập
thể trên
truyền hình cũng đã chán lắm rồi! Chẳng qua đi để
cho anh vui lòng. (Hình
như anh cũng chẳng chú ý đến phim).
Tự dưng anh nói: "Bây giờ mà VNCH quay trở lại thì
mấy tay Việt
Cọng
không biết trốn vào đâu? Rừng bây giờ phá sạch
hết...". Giọng anh nói oang...oang...! Tôi sợ điếng
người, lấy tay đập vào đùi anh mà nói: Tui đi
tù
mới về, đừng nói lung tung - ngán lắm! Anh cười nói:
"Sợ gì mà sợ, ai cũng biết dzậy mà! Sự thật vẫn
là sự thật mà!".
Tôi
hỏi anh về Sồi Chảy hiện giờ ở đâu? Anh cho biết:
"Hắn ngày xưa ghét ông Thiệu lắm. Không biết tại
sao nữa? Cha mẹ hắn cũng khá, có tiệm buôn bán ở trên
đường Lục Tỉnh. Hắn nghe ai xúi...? Chứ tôi không khi
nào "móc nối" hắn. Tính hắn như ruột để
ngoài da, ai mà dám bàn chuyện chính trị với hắn. Khi bộ
đội miền Bắc chiếm Sài Gòn, hắn nhào ra lập công,
tay đeo băng đỏ - đem tài lực ra đón Cách Mạng. Chừng
hai tháng sau tôi nghe tin hắn nằm ở Bệnh Viện Quảng
Đông. Mặt mày sưng húp, còn cái mỏ sưng chù vù, rụng
mấy cái răng cửa ...?! Gặng hỏi năm lần, bảy lượt...
Hắn chẳng chịu nói lý do tại sao ra nông nổi? Sau đó
hắn vượt biên cùng với gia đình! Hiện nay hắn có vợ,
có con và sống ở Canada. Thỉnh thoảng hắn có gởi về
một trăm đô la cho anh em cũ trong xưởng "liên hoan"
một bữa... Kể ra tính tình của hắn xốc nổi, bộc
trực - nhưng cũng còn có chút tình cảm đối với anh em.
Khối thằng hiện nay "tự dưng giàu sụ"... Ăn
trên ngồi trước mà có thèm nghĩ đến ai đâu...!".
Anh
Hóa
có còn nhớ anh Sĩ - mần thợ hồ không? Tôi hỏi? "Tôi
nhớ chứ! Anh ấy là người có học; bụng đầy chữ
nhưng không may, không phùng thời mới đi mần thợ hồ.
Chứ hồi đó mà may mắn, phùng thời chắc bây giờ cũng
đi tù!”
(cười) ! Anh ấy về Hồng Ngự mần guộng,
nghe đâu cũng tạm đủ sống, đứa con trai đầu, học
rất giỏi.
Năm
1973, tôi được đại diện đơn vị tỉnh KonTum,
đi
về Thủ Đô Sai Gòn dự đợt "Chiến Sĩ Xuất Sắc".
Mấy thằng bạn nói: “Tao nghe trong Dinh Độc Lập có tấm
thảm dày bốn phân, trải trên thềm lối đi
vào
Dinh... Mầy bỏ trong túi một cây ghim hồ sơ - khi vào đó,
mầy ghim xuống thử có đúng là dày như vậy không nha?
Lúc ngồi trước thềm Dinh Độc Lập để chờ Tổng
Thống Thiệu
đến,
tôi lén rút cây kim giấy ghim trong túi áo (Cây ghim dài
2,5 phân) ấn xuống tấm thảm. Cây kim không đủ dài, tôi
rút cây kim giấu vô túi. Đến khi gặp Tổng Thống, nghe
Tổng Thống nói chuyện và sau đó là dự
tiệc
thân mật - nhận quà! Tôi nhận được một cây viết máy
có khắc câu : "Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu Thân
Tặng" cùng một số tặng phẩm khác khi đi thăm xí
nghiệp dệt - Vinatexco; Bưu Điện Sai Gòn, một vài
Restaurant trên đường Đồng Khánh, Tản
Đà
và các nơi khác...
Cây
viết có chữ đề tặng của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu, tôi tặng lại cho anh Sĩ. Người trí thức đi mần
thợ hồ nuôi con. Anh mừng và hãnh diện... Sau ngày mất
Sai Gon, anh vẫn giữ và mang về quê. Sau nầy tôi có gặp
đứa con đầu của anh ấy trong một bữa giỗ. Hiện nay
cháu nó đang hành nghề Bác Sĩ. Nó nói "Chú ơi, cây
viết đó con giấu kỹ lắm! Nhưng qua mấy lần dời nhà,
cây viết, đó... "hư" rồi! Nhưng con không bao giờ
quên hình dáng cây viết ngày xưa chú đã tặng cho Ba
con". Tôi nói “Vật có thể hư, nhưng hình ảnh và
kỷ niệm in vào trong tâm lòng không... bị hư mới thật
là đáng quý gấp vạn lần đó cháu! Chú cảm ơn cháu
còn nhớ cây viết ấy”!
Tôi
muốn tự mình đi vòng vòng thăm lại những nơi mà ngày
xưa đã từng đi qua... Anh tôi chạy mượn ở đâu đó
cho tôi một chiếc xe đạp đầm. Tôi đạp xe ra
bến đò La-Kay, bến phía bên quận Tám là vựa bán cây
bạch đàn, tầm vông, lá dừa nước chằm lợp nhà... Qua
đò ngang, sang bên quận Năm, đầu đường Nguyễn Tri
Phương là vựa bán cây, củi các loại rất lớn. Lòng
con kênh Tàu Hủ cạn đáy, dòng nước đen ngòm. Tôi chạy
một vòng qua Đại Thế Giới, Hào Huê, quay trở lại Đồng
Khánh - Trần Hưng Đạo. Tôi chạy đến Nhà
Ga
Hàng Không Việt Nam cũ nơi đầu đường Phạm Ngũ
Lão, gần bùng binh chợ Bến Thành. Ngày trước từ Kontum
tôi công tác về Sai Gòn, xuống phi trường Tân Sơn Nhứt
là có xe của hãng Hàng Không Việt Nam đưa về đây, và
mua vé cũng tại đây. Mỗi lần về Sai Gòn ông anh tôi
chạy xe Suzuki ra đón, trên đường về hai anh em tôi hay
ghé đường Lục Tỉnh ăn lẩu cá. Hay chạy tuốt qua bên
chợ cá Trần Quốc Toản, trên đường Trần Quốc Toản,
ăn cháo trắng với hột vịt muối.
Tôi
bồi hồi nhớ lại cô bạn gái "Tìm bạn Bốn
Phương", ngày nào, nàng
ngơ ngác trước ga Hàng Không Việt Nam để tìm "ký
hiệu" nhận ra nhau trong
lần gặp gỡ đầu tiên...
Ngày xưa, tôi công tác tại DakTo,
trên đường tỉnh lộ 512, qua khỏi dốc làng Dakmot, bên
tay trái có cái làng
Thượng - tên dài thòng - Yanglokơram, nằm khoảng
giữa
làng
Dakmot và Ben Hét. Thằng bạn đưa cho tôi tờ báo có mục
"Tìm bạn..." và nói: - "Có cô nầy làm ở
Phòng Thư Lưu Trữ Bưu Điện Sai Gòn. Mầy viết thư làm
quen với cô ấy đi. Cô ấy nói “sẽ trả lời dù thư
đến muộn". Sau nầy có dịp vô sai Gòn sẽ có người
hướng dẫn...! Thật
ra, thời ấy đi Sai Gòn là chuyện trong mơ, mặc dầu
tôi có người dì ruột và ông anh ở đó. Viết thư là
viết để tìm chút ấm áp, nơi "Em gái hậu phương,
còn anh tiền tuyến". Nhưng chuyện đời cái gì cũng
có thể xảy ra. Năm 1971, tôi bị thương trong lúc di
chuyển ở bên bờ sông Pơko. Được chuyển về tỉnh
điều trị... Sau khi bình phục tôi được bố trí ở lại
làm việc tại tỉnh luôn!
Chúng
tôi hẹn gặp nhau trong chuyến công tác đầu tiên! Cô ấy
đón tôi tại Nhà
Ga
Hàng Không Việt Nam, Sài Gòn. Chúng tôi gởi trước
cho
nhau một vài tấm ảnh mới nhất để dễ nhận diện.
Chúng tôi nhận ra nhau dễ dàng. Sau đó, cô ấy đề nghị
vô rạp Eden xem phim. Lúc nầy rạp Eden đang chiếu phim Hải
Âu Phi Xứ dựa theo tiểu thuyết "Hải Âu Phi Xứ"
của nữ văn
sĩ
Quỳnh Giao. (Đặng
Quang Vinh và Chân Trân)
thủ vai chính. Hai diễn viên đẹp, trẻ trung nầy diễn
rất là... tình tứ! Hai chúng tôi ngồi trong rạp cả
ngày. (Ngày
xưa nếu không có bận việc gì, chỉ cần mua một vé vô
cửa, một ổ bánh mì là vô rạp hát coi phim suốt ngày).
Tối đó, chúng tôi đi ăn tối và hẹn hôm sau gặp lại.
Tôi tặng cho cô ấy một bài thơ và cái "Nhà Rông"
nhỏ. Cô ấy tặng tôi cuốn sách "Khung Trời Nhỏ
Hẹp" của (Somerset
Maugham).
Tôi
nhìn vô rạp Eden, giờ đây hoang vắng, còn nhà ga Hàng
Không Việt Nam cỏ mọc xanh um. Hình ảnh cô bạn gái hiện
ra trong tâm tưởng. Nhìn lên những ngôi nhà lầu trên các
đường phố, quần áo phơi giăng ngổn ngang. Từ ngày
Cộng quân vô chiếm Sai Gon, những thứ xa xỉ phẩm như:
Phim ảnh, bia, thuốc lá ngoại, bi da, nhảy đầm, vũ cầu,
ping pông, kem đánh răng Hynos, kem đánh răng lena kem trắng
chỉ hồng, xà bông Cô Ba 72% dầu, cà vạt, áo vét, áo
dài, mỹ phẩm, nước hoa... "trốn" đi đâu mất
biệt? Kể cả xe nhà binh GMC, xe Deep, xe lam cũng không thấy
bóng dáng?! Còn sách vở, nhạc vàng và tiếng Anh, thì cho
là "văn hóa đồi trụy, phản động" – Đem đốt
hoặc cấm tiệt ! Tôi đi trở lại nhiều chỗ, để tìm
lại dư hương ngày nào. Nhưng tất cả đều đổi thay.
Những con người Sai Gon thuở trước, giờ nầy họ đang
ở đâu? Sống hay chết? Họ có biết tôi đang đi tìm lại
hình ảnh và kỷ niệm trong sáng tuyệt vời ấy hay không?
Ai là người có trách nhiệm trả lời tôi đây?!
Tôi
nhìn qua phía Dinh Độc Lập, bổng nhớ đến mấy người
bạn khi xưa nhờ tôi ghim thử tấm thảm để
biết độ
dày bao nhiêu? Ngày ấy tôi trả lời với họ là tấm
thảm có độ dày cỡ bốn phân (?!). Hàng trăm người
mang giày đi trên tấm thảm nhưng mặt tấm thảm vẫn như
cũ - không để lại một dấu vết xơ xác nào. Mặt tấm
thảm,
trông óng ánh êm dịu và đẹp mắt! Nếu được nằm
trên tấm thảm mà ngủ một giấc thì sướng biết bao!
Không biết bây giờ tấm thảm ấy có còn không?
Tôi
đứng trước Nhà Thờ Đức Bà, tôi đọc kinh... Chậm
chậm dắt xe đạp qua đường Nguyễn Hậu bên hông Bưu
Điện, để
tìm lại “dư âm ngày cũ”. Đường Nguyễn Hậu
trước
kia có
dãy "Hộp Thư Lưu Trữ". Ngày xưa mỗi lần về
Sai Gòn tôi thường đến đây – hẹn
cô bạn gái đi chơi. Và, có lần tôi
không cho cô ấy biết trước rẳng
tôi vô Sai Gòn công tác.
Cô ấy nhìn tôi sững sờ "Anh về
Sai Gon mà anh không
cho
em hay, không hẹn
em
thì
làm sao mà xin
phép để đi
chơi được?”. Nhưng
cuối cùng chúng tôi cũng ở bên nhau.
Mái tóc "Demigarcon" với cái răng khểnh, tà áo
dài trắng tinh! Hình ảnh Thiên-Thần ấy đã hút hồn tôi
trong những tháng năm tràn đầy thơ mộng.
Tôi
bàng hoàng đứng nhìn giây lâu... Mất hết rồi! Mất hết
rồi! Sài Gòn bây giờ không có còn là của ta nữa rồi!
Đâu rồi những sinh viên bỏ học xuống đường hô hào
chống Mỹ Diệm; Chống Mỹ Ngụy,
chống
Thiệu,
Kỳ? Đâu rồi những đoàn biểu tình của
sư sãi chống
chiến tranh, hát nhạc phản chiến, đốt cờ Mỹ, đốt
xe Mỹ? Đâu rồi đám ký giả xuống đường đi ăn mày
đòi
công lý?
Đâu rồi những ông Cha, ông Sư thích làm chính trị? Đâu
rồi những ông bà trí thức cấp tiến, và đam mê lý
tưởng Cộng Sản? Bây giờ các người ở đâu vậy hử?
Dân đói khổ tù đày, vượt biển... ! Mà sao, chẳng thấy
các người
xuống đường đi biểu tình? Sao các người
không làm báo Tư-Nhân, lập
đảng để bênh
vực cho lẽ phải? Hiện nay các người
ở nơi mô, mà không thấy một
ai
lên tiếng vậy...?!
Có
lần tôi và cô bạn gái đứng trên cầu vượt trước
chợ Bến Thành ngắm dòng
người và xe trôi qua. Cô ấy quay lại hỏi tôi “Con gà
nó ăn thứ gì vậy anh?”. Tôi nói “Con gà nó ăn ngũ
cốc!” Cô ấy lắc đầu, nói
"Nó
còn thích ăn thịt nữa đó anh !". Và cô ấy nói tiếp
"Ở ngoài vùng chiến sự, anh đừng ăn thịt gà chạy
rong nhé! Nó ăn xác chết đấy!". Tôi tưởng cô ấy
ngây thơ nói chơi cho vui. Nhưng tôi hiểu ra: "Gà"
cũng thích ăn thịt! Nó cũng như con người, cái gì cũng
ăn. Con người hơn con gà là biết chọn thứ để ăn.
Tôi
dắt xe ra đường Hai bà Trưng, chạy ra bến Bạch Đằng,
bến phà Thủ Thiêm đông nghẹt người. Tiếng hát khàn...
khàn…, hòa theo tiếng đàn guitar đứt đoạn vọng lại
trên bến phà:
"Người
đi, đi ngoài phố bóng
dáng xưa mịt mù. Thành ghế đá chiều công viên. Ngày
xưa đã hết rồi. Người đi đi ngoài phố chừng bỡ ngỡ
bơ vơ. Người đi đi ngoài phố mấy dấu chân lạc loài.
Hình bóng cũ, người yêu xưa còn đâu còn đâu. Tình
duyên đã lỡ rồi".
Tôi
đủ tỉnh táo để nhận ra, họ là ai. Những anh chị em
Thương-Bệnh-Binh, Thương
Phế Binh
sau cuộc chiến bị xô đẩy ra ngoài đường, mất nguồn
tài trợ dù là ít ỏi. Với thân thể đầy
vết tích chiến tranh như thế nầy,
họ làm gì được để mà
sống?
Một số có vợ con thì theo gia đình lên "kinh tế
mới" ! Số còn lại đơn thân độc mã hay gia đình
quá khốn khổ, vì
sự sinh tồn buộc họ phải lang thang đầu đường xó
chợ, trên bến phà, trên bến xe... ngửa tay ăn mày chút
tình thương của đồng bào... Đối với "xã hội
mới" họ hoàn toàn bị bỏ rơi và khinh miệt ! Vật
chất, tinh thần đều mất trắng! Cấp chỉ của họ đã
"di tản trước và di
tản trong
ngày 30.4.1975. Số còn lại thì bị
người bên “thắng cuộc” bắt bỏ
tù hay
còn gọi là "cải
tạo". Bạn đồng đội lo cho thân mình còn chưa xong,
làm sao có thể cưu mang cho ai? Gặp nhau mũi lòng nhín nhịn
quăng cho vài đồng…, coi
như san
xẻ tình cố cựu rồi quày quả quay đi nuốt cảm xúc vô
trong lòng không dám để cho ai nhìn thấy. Sai Gòn "Hòn
Ngọc Viễn Đông"! Phải chăng đã chết rồi? Cây
phượng vĩ trong sân trường ngậm ngùi nở hoa. Xác cánh
phượng hồng còn nằm trơ vơ ra đó! Tà áo dài tha thướt
mất
hút theo
gót hài, giờ đây chỉ còn nghe văng vẳng tiếng
ve sầu trong
nắng chiều xa vắng. Những ai thích
lượm xác phượng hồng, giờ này đang ở nơi mô? Sài
Gòn ngày nay quá đỗi
đời
thường, trần trụi mang dáng dấp nhà quê. Nhưng không
còn vẻ
đơn
sơ mộc mạc..! Ngoài phố người đi vô tình như mây bay,
không để lai chút bóng râm cho những bước chân lãng
tử... Họ hối hả từng bước chân đi về đâu? Không
tiếng cười, có cười chăng là nhếch môi và cái nhún
vai lắc đầu...! Tôi quẹo xe qua đường Hàm Nghi, chạy
thẳng tuốt về nhà nằm thở!
Anh
chị tôi biết ngày mai là ngày tôi hết hạn "tạm
vắng, tạm trú". Gia đình lại làm bữa cơm chia tay.
Nhìn mâm cơm tôi thấy có: sườn heo ram, rau sống và một
đĩa nhộng bóp gỏi với bắp chuối. Tôi định mở
miệng, nói " chị mua chi đồ ngon tốn kém như vậy?".
Thì chị dâu tôi hiểu ý, vội vàng xua tay: "Chú đừng
nghĩ, ngày nào nhà anh chị cũng có thịt heo để mà ăn
đâu. Chờ nửa tháng, hôm nay mới lấy được cái tem
phiếu đem ra "Cửa Hàng Tươi Sống Phụ Nữ". Họ
phân phối cho chị được một ký: Nửa thịt mỡ, nửa
thịt sườn! Chú có lộc ăn đó!".
Anh
tôi chui đầu dưới gầm giường moi ra một cái bao? Nghe
tiếng lổn cổn... Tôi hỏi “Cái
gì đó vậy anh?”. Anh đưa tay ra dấu bảo tôi ra ngoài
đóng cửa chính và kéo tấm màn cửa sổ lại. Rồi anh
nói "Mai chú về quê. Anh chị đãi chú chầu bia"!
Tôi ngạc nhiên hỏi “Bia
gì vậy?”. Anh nói "Bia lên men hiệu (Hòa
Bình),
nguyên
liệu làm bằng trái cây. Nói trái cây cho nó "ngơm"
vậy, chứ
thật ra là vỏ trái thơm trong nhà máy “Hợp tác Xã”
thải ra. Họ tận dụng ủ lên men, lọc sạch bơm
khí
ga
và
cho
cồn
vô.
Vậy là thành... "bia", uống thoải mái! Uống
nhiều cào ruột, cào gan dữ lắm. Nhưng phải uống để
hồi tưởng một thời huy hoàng nay còn đâu? Hay hổ
nhớ rừng ấy mà! Dân nhậu hiện nay kêu là "bia
lên cơn"... Còn một vài loại bia nữa,
như:
Bia,
Con
Cọp Gò Vấp, Bia
36... Ngoài ra, còn có rượu nhẹ có ga hiệu Chương Dương.
Anh cũng có mua mỗi thứ vài chai đây. Chú uống thử cho
biết với người ta".
Tôi
sực nhớ ra, là mẹ có gởi cho anh chị và các cháu, hai
ký nếp và một ký đậu xanh. Tôi lật đật lôi cái giỏ
lác ra, nói “Anh chị ơi! Mẹ có gởi nếp, đậu lên cho
anh chị nè - mà em quên mất! Mẹ cho nếp, đậu để dưới
đáy giỏ đựng quần áo của em và mẹ may thêm một lớp
đệm lác nữa phủ lên. Mẹ giấu kỹ lắm! Mẹ sợ đến
trạm Trảng Bom bị họ lục xét lấy mất!”. Chị Dâu
và hai cháu gái lấy dao xúm lại rạch lớp đệm trút hết
nếp và đậu xanh ra cái mâm bằng nhôm. Cô cháu gái út
mừng rỡ, nhao... nhao…, lên "Cháu cảm ơn bà nội...
! Cháu cảm ơn bà nội..."!
Tôi
cứ tưởng lòng anh tôi là sắt đá... Ai dè, anh đưa tay,
cào... cào... mấy hột nếp lẫn lộn với đậu xanh trên
cái mâm. Nước mắt anh ứa ra...! Chị Dâu cũng vậy...!
Anh chụp lấy ly bia "lên cơn" uống một ngụm cho
trôi đi nỗi nghẹn ngào vào lòng ! Anh nói "Thời...
Ngăn-Sông-Cấm-Chợ! Thiệt, là... khổ..."! Hình như…,
anh nói giọng trầm trầm vừa đủ cho hai đứa con gái
của anh nghe, thì phải...?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét