Thư viện

11/3/12

Trên Con Đường 7 B


                                   

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Văn Sâm sưu tầm



 












Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn, tên nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy rằng mất, tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; riêng lo nghèo khó.
Chẳng quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chĩn biết ruộng trâu, ở trong làng hộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói Mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này nguyện ra tay bộ hổ.

Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thơ, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;
Trong tay một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa hổ đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém đặng thằng quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống thúc, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho Ma-tà Ma-ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng pháo nổ.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà làm binh đánh giặc cũng cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Bởi nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo của đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân t ả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính Ma tà, chia rượu chát, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Chẳng thà còn mà chịu chữ hàng Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong nhà;
Não nồng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan;
Ngàn năm tiết rõ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác đặng trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mến.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi!Thương thay!
Ai ôi! Thảm thay!.
Nguyễn Đình Chiểu
 

Nguồn: Nguyễn Văn Sâm sưu tầm
(Dò chỉnh theo bản Quốc ngữ Văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa, trang 41-43 trong quyển Gia Lễ của Hoàng Tịnh Paulus Của, bản in Sàigòn, 1904 và bài Tế Nghĩa Sĩ Văn viết năm Tự Đức thứ hai mươi sáu, tháng ba của Nguyễn Đình Chiểu, trong tập văn Nôm viết tay chép một số bài nổi tiếng của Miền Nam thế kỷ 19, sưu tầm của Nguyễn Văn Sâm.)


                                                nhớ lại tháng 3.1975

  
  Lui binh từ vùng một
  im lìm bỏ vùng hai
  đường 7 B nắng đốt
  nằm sông Ba khổ thay!

  lưng đeo đầy súng đạn
  xe pháo chạy rầm rầm
  trên đoạn đường di tản
  từng bước chân âm thầm...

  giặc chưa đến đã chạy
  quân số còn giữ nguyên
  biết ai thắng ai bại
  sao chẳng giữ trận tiền!

  thuở mùa hè đỏ lửa
  địch vây hãm liên miên
  phố Kontum: mất nửa
  ghìm súng giữ - bình yên!

  thương một đời lính trận
  quyết chiến đấu kiên cường
  nuốt vào lòng uất hận
  nhìn sông núi tang thương

  vẫy tay chào nắng hạ
  Cao Nguyên đất đỏ ngầu
  bổng dưng thành kẻ lạ
  xé nát cả lòng nhau!

  nay làm cá mắc cạn
  cố vùng vẫy thoát ra
  địch đuổi - đánh liều mạng
  khúc khải hoàn ai ca!

  7 B - vào tử lộ
  tiếc cho đời chiến binh
  ngàn máu xương đã đổ
  đâu phải chuyện vô tình!

  vợ con chạy phía trước
  chồng bảo vệ phía sau
  sông Ba đành dừng bước
  nhìn núi thẳm kêu gào

  dân thường chạy theo lính
  chết thảm tội nghiệp chưa!
  đêm Trường Sơn u tịch
  mùa hạ nhỏ màu mưa…

Trang Y Hạ
tháng 3.1975 -  đã đi trên đường 7 B

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét