BOA TUI
(Tiếng
Quảng Nôm)
Boa
tui cô rố đệp trưa,
Rất
lòa phang độ, nhìn ưa dễ gần.
Siêng
neng, dũa dén, chiên cần.
Cham
lo con cứa, đỡ đần iu thương.
Cụt
đời nhiều nỗi tưa ương,
Dầm
mưa dửa néng, đêm sương chẻng moàng.
Núa
neng thì rất đoàng quoàng,
Vui
tươi, hừa hước nhiều noàng phoát mê.
Lứa
xe thì hết chỗ chê,
Chại
Nôm, chại Béc, không chê chỗ nồ,
Chúng
tui thì rất tự hồ,
Có
boa dũa thế, đứa nồ cũng ưa.
Cụt
đời nhiều lúc néng mưa,
Nhưng
boa vui vẻ, cũng chưa bùn phiền,
Lo
toan cơm ố gộ tiền,
Đồng
lương ít ủa, chẻng phiền vui tươi.
Gập
ưa chồ hủa núa cười,
Tươi
như hoa rứa, nụ cười tiệt lun.
Ưa
ưa cũng mến boa lun,
Người
choa yêu dấu, con lun nhớ nhiều.
Boa
tui về với thiên triều,
Bốn
mươi chín tủi, còn nhiều tương lưa.
Boa
tui thoát cảnh bi ưa,
Về
cùng thiên quốc, hẹn mưa Nước Trời.
BA TÔI
(Dịch sang tiếng Việt)
Ba tôi cao ráo đẹp trai,
Rất là phong độ, nhìn ai dễ gần.
Siêng năng giỏi giắng, chuyên cần,
Chăm lo con cái đỡ đần yêu thương.
Cuộc đời nhiều nỗi tai ương,
Dầm mưa dải nắng, đêm sương chẳng màng.
Nói năng thì rất đàng hoàng,
Vui tươi hài hước, nhiều nàng phát mê.
Lái xe thì hết chỗ chê,
Chạy Nam, chạy Bắc, không chê chỗ nào.
Chúng tôi thì rất tự hào,
Có ba giỏi thế, đứa nào cũng ưa.
Cuộc đời nhiều lúc nắng mưa,
Nhưng ba vui vẻ, cũng chưa buồn phiền.
Lo toan cơm áo gạo tiền,
Đồng lương ít ỏi, chẳng phiền vui tươi.
Gặp ai chào hỏi nói cười,
Tươi như hoa vậy, nụ cười tuyệt luôn.
Ai ai cũng mến ba luôn,
Người ba yêu dấu, con luôn nhớ nhiều.
Ba tôi về với thiên triều,
Bốn mươi chín tuổi, còn nhiều tương lai.
Ba tôi thoát cảnh bi ai,
Về cùng thiên quốc, hẹn mai Nước Trời.
LỜI GIÓ MƯA:
“Quảng nam nội ngoại xa tầm
lìa xa núm ruột giọt đầm đìa tuôn
Bao nhiêu năm với nỗi buồn
Mờ mờ nhân ảnh từng khuôn mặt hiền
Ta đi ta vẫn ưu phiền
Và nghe chân mỏi qua miền viễn du.”
Trích thơ “Nhớ Quảng Nam” của (Trang Y Hạ).
TRẢ ƠN
Vào
đầu thế kỷ 20, một người nông dân Scotland đang trên
đường về nhà thì bất ngờ nghe thấy tiếng kêu cứu
từ một đầm lầy. Vội vã chạy đến nơi phát ra âm
thanh, ông Hawkins tìm thấy một cậu bé bị mắc kẹt
trong bùn lầy, đang vật lộn để giữ mạng sống. Người
nông dân nhanh chóng chặt một cành cây, vươn ra và kéo
đứa trẻ hoảng sợ lên chỗ an toàn. Cậu bé, ướt sũng
và run rẩy, cảm ơn người cứu mình nhưng khăng khăng
phải trở về nhà vì bố cậu sẽ lo lắng.
Sáng
hôm sau, một cỗ xe ngựa sang trọng dừng lại trước
ngôi nhà khiêm tốn của người nông dân. Một quý ông ăn
mặc lịch sự bước ra và hỏi: “Có phải ông đã cứu
sống con trai tôi ngày hôm qua không?”. “Đúng vậy,”.
Người nông dân trả lời. “Tôi nợ ông bao nhiêu?”.
Người đàn ông hỏi. “Ông
không nợ tôi gì cả,”. Người nông dân kiên quyết nói.
“Tôi chỉ làm điều mà bất kỳ ai cũng nên làm.”.
Nhưng người quý ông vẫn khăng khăng muốn trả ơn. Người
nông dân lại từ chối. Người quý ông để ý đến cậu
con trai nhỏ của người nông dân đang đứng gần đó.
“Đây là con trai ông à?”. Ông ta hỏi. “Đúng vậy,”.
Người nông dân tự hào trả lời. “Vậy hãy để tôi
đền đáp ông theo cách khác”. Người đàn ông nói. “Hãy
để tôi đưa cậu bé đến London và chi trả cho việc học
của cậu ấy. Nếu cậu ấy có phẩm chất như cha mình,
cả hai chúng ta sẽ không hối tiếc về quyết định
này.”.
Nhiều
năm sau, cậu bé ấy là Alexander Fleming, trở thành nhà
khoa học phát hiện ra penicillin.
Không
lâu trước thế chiến thứ hai, con trai của người quý
ông giàu có đó mắc bệnh viêm phổi nặng. Mạng sống
của cậu được cứu, không phải nhờ tiền bạc hay địa
vị, mà nhờ penicillin.
Cậu
bé được người nông dân cứu sống trong đầm lầy năm
xưa đã trưởng thành và trở thành Winston Churchill, Thủ
tướng tương lai của nước Anh. Có lẽ chính chuỗi sự
kiện này đã khiến Churchill sau này nói: “Những gì bạn
cho đi sẽ trở lại với bạn.”
Trang
Y Hạ – Sưu Tầm.
(Nguồn:
Muhammad Sattar Aághar).