Thư viện

Hiển thị các bài đăng có nhãn hồn quê. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hồn quê. Hiển thị tất cả bài đăng

29/8/25

UỐNG RƯỢU VỚI CỤ - KHƯƠNG-TỬ-NHA & CỤ - TRẦN CAO VÂN.

 



UỐNG RƯỢU VỚI CỤ - KHƯƠNG-TỬ-NHA & CỤ – TRẦN-CAO-VÂN.

       “Thanh hạ mỗi tồn tông xã niệm
       Liệu tri mộng mị đáo Thăng Long.” [1]
                               Thơ: (Trần Nguyên Đán)


Vị-Thủy chảy xuyên qua đầu Khương-Thượng [2]
ngư phủ câu giấu trong bụng lưỡi câu
Vương bá mộng tựa sợi tơ vương vướng
thế sự tình nhân-bản cấu nát nhàu.

Sông ôm ấp vì sao chờ cất vó
ngủ bao năm mê ngủ chẳng quên mơ
địa lợi tới thiên thời dồn cổ võ
nhân vị hòa kề vai luận cuộc cờ.

Hội thề để nối nỗi tình lạc quốc
chốn thiên đình giả điếc chẳng thèm nghe
chiến tranh dựa trên những điều không thực
kẻ gian manh là một lứa cá mè.

Đêm trừng mắt nghĩ suy tầm dịu kế
hoa tàng long ngọa hổ tứ tán phương
rừng núi hiểm bọn hung thần cách bế
biển sông ngăn chặn kín mọi nẻo đường.

Vân-Lâu rọi Trần-Cao-Vân câu cá [3]
ngóng thời cơ thành bại ý do thiên
Hương-Giang xót An-Hòa thương Vĩ-Dạ
Hải-Vân-Quan linh khí tỏa mọi miền.

Đền tháp cổ nhìn nước non ngơ-ngác
chí sĩ ngồi ngó cần ngập suy tư
ngự đất tổ thân đâm ra luân-lạc
vọng tương lai hai đầu gối mỏi nhừ.

Đất tổ ở, cớ chi không kiến-địa
lục thân chừ còn mất có vãng lai
bóng “tang du mộ cảnh” nghiêng tứ phía
hình “nhân sinh triêu lộ” lại sẵn bày.

Sông tịch mịch lòng sông âm ỉ sóng
tướng Yết-Kiêu chăm-chỉ đục đáy thuyền
nắng chiều vẽ hoàng-kỳ hừng hực nóng
đất không bằng nội thân giữ bằng yên.

Đò lủng đáy độ hà sơn bỉ ngạn
hầu định hình phẳng lặng một đại dương
mù chân-lý khai nguyên chân lý sáng
thắng trong tâm đâu sợ bị lạc đường.

Giả câu cá đợi “thời lai phong tống”
dẫu có là xương gãy hãy còn gân
nghiệm “hải giác thiên nhai” yêu lẽ sống
sở-cứ nguyên chương sử hết lạc vần.

Tửu chưa rót “đạo đồng” say bí tỉ [4]
tĩn “phủng thương thượng thọ” kính vĩ-nhân
chí sắt đá lộ đồ tung vó ký
đếch ngại chi nay Sở với mai Tần.

Trang Y Hạ.
Cước Chú:
1- Dịch thơ:
(Tuy nhàn hạ lòng vẫn lo việc nước
Liệu biết hay đêm mộng tới Thăng Long.)
2- Ông Lã Vọng tức Khương Tử Nha, Khương Thượng, tuổi đã tám mươi [80], ngồi câu cá trên sông Vi Thủy là khai quốc công thần nhà Chu (diệt nhà Thương) thế kỷ 12 (TCN).
3- Trần Cao Vân (1866 – 1916). Người Quảng Nam. Ông cùng vua Duy Tân khởi nghĩa chống Pháp, thất bại bị người Pháp xử tử tại An-Hòa (Huế). Tưởng nhớ Trẩn Cao Vân. Thi sĩ: Ưng Bình Thúc Gia Thị, đề thơ:

Chiều chiều trước bến Vân-Lâu
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”.
(Ưng Bình Thúc Gia Thị).
4- “Đạo bất đồng bất tương vi mưu”.
5- "Tang dâu mộ cảnh". (Bóng dâu ngã về chiều). Ý là cảnh già nua.
6- "Nhân sinh triêu lộ". (Đời người như giọt sương buổi sáng).

LỜI GIÓ MƯA:
     Trong "The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói:
- "Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh tái diễn lịch sử".
Và:
     “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục. Tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Thi sĩ: (Gamzatov, thuộc quốc gia Daghestan).

Trần Phước Hân, (Sưu tầm)!




26/8/25

HỒ TRÊN NÚI SAN FRANCISCO


HỒ TRÊN NÚI SAN FRANCISCO


     “Hoành giáo giang san cáp kỷ thu”
                                     (Phạm Ngũ Lão).

Mò lên đỉnh sờ mặt hồ sẩm núi
đèo đá đeo bánh chè rã rời ra
hơi thở dốc sương tỳ vai đếch phủi
thông chọc trời mây chụm đứng hít hà.

Phành con mắt bóng Xuân-Hương, Than-Thở
ngắm Đồi-Cù róc rách thác Cam-Ly
Prenn vọng Tuyền-Lâm lòng rộng mở
đờn hết ngân, còn đứng đó làm gì.

Bên tai rót mật mùi lời Bao-Tự
mới hiểu rằng nàng ngậm miệng bấy nay
mới giật mình Phong-Hỏa-Đài đâu hử
rà châu thân thiếu chút cận ăn mày.

Cô vịt múa Khúc-Nghê-Thường làm dáng
cổ nghĩ rằng đồng chủng tộc Thiên-Nga
thôi đừng chấp, đã vô hình vạn trạng
vịt hay nga hoán-vị cũng vậy mà.

Bình-minh bận hầu chầu lão Thái-Thượng
cây cỏ mừng thưởng thức sữa sương thơm
xa bậu miết tưởng đứt dây tơ vướng
óc ngây-ngô xoa tóc muối bờm-xờm.

Nửa đời lổ nửa đời da loang-lỗ
chờ phủ phê oan khuất gánh phũ-phàng
tốt cái mã tìm nơi đâu mả giỗ.
sâm sẩm màu sẫm tối biết hỏi han.

Trót gá-nghĩa đất xa hàm-hồ trất
dàn trải lòng khế-ước định bao lâu
di-phương đượm hương thầm chưa thể mất
đả-đía lâu toác-hoác nửa cái đầu.

Hồ yên ắng hòa sớm mai tịch-mịch
não đinh ninh dậy sóng Bạch-Đằng-Giang
lính vốn dĩ răm-rắp tuân hiệu lịnh
tức thương thay bác Từ-Hải quy hàng.

Dạo thăm thú giật mình chim đực liệng
chợt hiểu ra, long hổ ngọa nơi đây
trút tâm sự vỗ về thời chinh-chiến
xương ngựa già cung kiếm mục nơi nầy.

Quay ngược để lên trời dòm Thượng-đế
quay xuôi nhằm lén ngó lão Diêm-vương
xót hai nẻo đi về đều hoang-phế
đành khai-hoang mở cõi ấm một đường.

Trang Y Hạ

Cước Chú:
Trong “Golde Gate Park” San Francisco,
trên đỉnh núi cao có một cái hồ rộng và dài.

Lời Gió Mưa:
Cho dù rồng có mạnh tới đâu cũng không thể ép được con rắn dưới đất”. (Trần Phước Hân).




23/8/25

MÙA THU SAN FRANCISCO

 



MÙA THU SAN FRANCISCO

       “Ngoài năm mươi tuổi ngoài chân thế,
        Ắt đã tròn như nước ở bầu”. (Nguyễn Trãi).

Quăng than-vãn, liệng sầu mây khóc gió
điện-thoại nâng sờ thu nét phôi-pha
tự khởi thủy vòng hợp tan vò-võ
mắt Huyền-Trân vọng cố-quốc chưa nhòa.

Quý-Ly cạn rượu khan trên đất giặc
lá rơi hồ vận nước sóng có lay
đêm lắng tiếng thở dài im phăm-phắt
ủ hơi men ấm quê đoạn tháng ngày.

Lòng canh cánh bóng chim thời luân-lạc
ướp thời gian, chừ nội, ngoại lai hy
hồi tồng-ngỗng bến thơ ngây chất-phát
nguyệt chở rằm ký-ức rạng nhu mì.

Cầm điện-thoại tâm bồi-hồi quá thể
bậu trong thơ men ủ tuổi hai mươi
Thái Bình Dương gợn bao điều muốn kể
nhận diện ra môi héo nở hoa cười.

Golden Gate Park tứ mùa lá vẫn [1]
ngoắt bóng người lai vãng điểm dung-nhan
cổ-thụ mỏi mầm chồi chờ hướng dẫn
hoa dại trêu chú bướm đực mơ-màng. [2]

Ôm dây rún mẹ nhủ rằng cõi tạm
lời triết nhân, lời ấy thấm cõi sâu
cảo-nhân rạ ước mơ nào có dám
áo bả choàng xếp xó mộng công hầu.

Ngồi ghế gỗ lạnh-cẳng hoài phương-bối
đã cận lâm không hiểu điểu đậu bay
đã cận thủy chẳng biết đường ngư lội
đành chịu ngu giữ trọn kiếp dại này.

Thu hồi tống rêu phong vườn thu cũ
hồn lá vàng phất-phới rộn từ tâm
thơ văn lạc mỏi chân tầm câu cú
trang thiên-cơ đời đợi có đợi lầm.

Dây tầm gửi tủi lòng treo cổ thụ
nắng thu chiều gom sáng vẽ màu đêm
thông gìa bóng phủ thông non nhắn nhủ
đồ viễn trường nhật mộ cố kiếm tìm.

Trang Y Hạ

Cước Chú:

1- Công viên rừng già San Francisco.

2- “Vườn xuân hoa nở đầy giàn,
Ngăn con bướm lại kẻo tàn nhụy hoa”. (ca Dao).




27/5/25

ĐẤT NGHẸN

 



ĐẤT NGHẸN


      “Cử đầu vọng minh nguyệt, 
       Đê đầu tư cố hương.”,
                       (Lý Bạch).

Không phải tới giờ mới thấy thương quê
đã biết yêu quê từ thuở vừa sang sáu
tuổi thơ ngây, tập-tễnh tập mặc quần dài
thử đón tết, thử ngửi mùi nhang ăn bánh ú.


Mỗi ngày đoán giờ, qua bóng cây cau cây đu đủ
sáng gầy lờ, chiều tối cha ở ruộng về đan [1]
đan cho đặng sớm mai mẹ đem ra chợ
mới sáu tuổi đầu, biết chia khổ với mẹ cha.

Dựa gối gầy lờ, bụng ỏng trông đám ruộng xa
bóng mẹ tỏ mờ, giống bà tiên hiều hậu
bánh đúc xẻ hình thang, chấm mắm cái mẹ mua
ăn ngấu-nghiến, còn hơn nem công chả phụng.

Đói phân, cây sắn gắng gượng cao ngang bụng
con bò, con trâu không dám gặm trụi cỏ đồng
mùa lúa chín, rơm rạ theo người về nhà sum-họp
thằng bù nhìn buồn xo, xuôi tay ngó bầy chim.

Tháng chạp, đám mía khoe cờ lau đứng lặng im
vắt vẻo lưng còng chuyển về lò ép lấy nước
đường bát đối mặt, quấn rơm khô nằm thúng
gánh đi bỏ mối lấy tiền sắm tết, đón giao thừa.

Sông Rù-Rì, mùa cạn ngong ngóng cơn mưa [2]
tự biết bơi, lặn lần theo từng con cá bé
trong veo nước, hột phù-sa trôi về phương nào
bóng mây trắng lộn nhào theo cát trắng.

Mẹ mỗi ngày ngồi dệt, mẹ thèm hơi nắng
khung cửi ôm chân hòa nhịp tiếng thoi đưa
mẹ dệt thuê lấy gạo, khắp cả nhà người
vải đẹp cho đời, tấm áo mẹ vá tả tơi.

Cha vật lộn mảnh đất nhỏ “hương-hỏa”, xói đời
đất nghẹn không thể nào cho chi thêm nữa
cơm nồi đất, tụ hội bạn bè vui sắn khoai
khoai sắn, cũng cân đo đong đếm chi li.

Ngồi đánh vần mơ ước mệt mỏi ngủ li bì
trong mộng-mị, bảng ghi danh đỗ trạng-nguyên
thức giấc, mẹ cầm tay đồ theo từng nét chữ
chữ nho, cha dạy rúi nùi như đan như lát.

Cha mẹ, lìa quê lên miền cao-nguyên lưu lạc [3]
bỏ gầy lờ, gầy tương lai da đỏ sậm ba-dan
đất lạ đãi người mới, ruộng vườn xanh mướt
chuông nhà thờ dội tan sương báo tin mừng.

Ánh sáng chính là thuốc khử trùng trên từng
bông mai vàng nở lại, rõ “phúc họa tương tinh”
cuộc đời có vết nứt, ánh sáng mới lọt qua
móng nhà đổ nát phải chăng chỉ vì con kiến.

Mưa nắng hai mùa, cha mẹ dành vốn liếng
gió núi khói sương lạnh cóng, chẳng nề hà
đôi chân, chân cứng đá mềm chưa than-thở
hy-vọng hai thân dồn hết về những đứa con.

Bầy em sinh sau, chịu cảnh tản-cư mỏi mòn
trở lại thăm lại, nơi sinh ra cùng hơi núi
cao-nguyên giữ nguyên trạng, cho người về nhớ
mùi nắng, mùi mưa, mùi hy-vọng, mùi chia ly.

Cuộc đời ai cũng có nhiều tiếc nuối
thôi đành ôm nuối tiếc bước theo thủy-triều.

Chạy được hòa thượng, không chạy khỏi miếu
đám thảo-khấu ùa về cướp hết cả công-lao
đất nghẹn nhìn người bỏ quê, đi lánh nạn
cha mẹ ly-hương lây qua đời con tha-phương.

Ngụ ở bên này bờ đại-dương,
sóng vỗ lòng đau, tơ tưởng đoạn đường làng
mẹ dẫn đi chúc tết bà con trong xóm
cha dẫn đi chạp mả, trời đông gió bấc mưa phùn
dạy con, lòng ngay không sợ bóng nghiêng.

công lao cha mẹ, nối tiếp các bậc tiên-hiền
ngậm ngùi lìa quê, còng lưng khai-cơ lập-nghiệp
để lại cho con, - xin lỗi chúng con đành để mất
đất nghẹn, tới khi nào hết nghẹn cho đây.

Trang Y Hạ
San Francisco, 2008

Cước chú:
1- Lờ là một dụng cụ bắt cá đồng.
2- Sông Rù-Rì ở Xã Sơn-Xuân, Quế-Sơn, Quảng-Nam. Sông còn có tên Ly-Ly.
3- KonTum, 1957.


San Francisco (Hoa Kỳ)

20/5/25

CHỮ PHƯỜNG TRONG ĐỜI SỐNG

 



CHỮ PHƯỜNG TRONG ĐỜI SỐNG

Tác giả: Trang Y Hạ

     Trong cuộc sống hằng ngày, từ (cổ tới kim) - hễ nói địa danh thì địa danh gần gũi nhất đó là “phường”. Phường ở đây, nói về hành chánh là một đơn vị thấp nhất ở trong xã hội không chỉ ở Việt Nam mà ở cả bên Tàu. Phường đã có lịch sử, lịch sử văn thơ từ rất lâu đời. Ngoài phường thì còn có: Thôn, Ấp.

     Vậy tóm tắc chữ Phường như sau:

     Chữ “Phường” nguyên gốc là Hán Việt & Hán Nôm, thuộc Hán Cổ, Việt Cổ, có nhiều nghĩa cả chữ viết cũng có số nét khác, (Hán Nôm có tới Ba Chữ Phường có nét khác nhau). Trong bài nầy, chỉ đề cập tới hai bộ chữ Hán có dính líu tới chữ Phường, đó là: “Bộ Thổ & Bộ Ngư”.

Bộ Thổ: Phường, một âm khác là (Phòng).

     Phường chỉ về đơn vị hành chánh. Theo tài liệu xa xưa, thì phường chỉ áp dụng trong kinh đô, trong thành quách, trong châu huyện. Bên ngoài thì gọi là thôn, ấp... Ví dụ như: Kinh thành Thăng Long cũ gồm có ba mươi sáu [36] phường. “Khán khán ai bộ thậm khẩn, các xứ thôn phường giảng động liễu”. Tạm hiểu (Tình hình bắt bớ gấp gáp, xóm phường đều bàn tán xôn xao). Trích: Thủy Hử.

     Phường là một tổ chức, thời “phong kiến” gồm những người có đầu óc kinh doanh buôn bán hay cùng một nghề nghiệp thủ công nhưng không thể tự đứng ra hành nghề đơn độc. Do đó họ phải liên kết lại gọi là Phường dựa nhau làm ăn mà không sợ kẻ khác ức hiếp. Ví dụ: (Phường chèo, Phường hát, Phường vải, Phường nón, Phường thợ săn…).

     Ông bà ngày xưa có câu: “Buôn có bạn, bán có phường”. Tục ngữ đã nhắc nhở khi làm ăn, buôn bán - phải biết hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển, nếu mạnh ai nấy làm vì cái lợi nhỏ – sớm muộn sẽ nhận lấy hậu quả thua lỗ. Trong lãnh vực buôn bán vẫn có nghệ thuật có cộng hưởng, nhân ái chứ không thể đứng một mình mà thành đạt. “Buôn có bạn, bán có phường, Làm ăn có xóm, có làng mới vui”. (Ca Dao).

     Phường là: Cao ốc, biệt thự, dinh thự, đình miếu xây dựng để ghi ơn công lao của các bậc hiền tài ở làng mạc. Đó là “Trung Hiếu Phường” và “Tiết Nghĩa Phường”.

Phường là: Trường, sở, nhà dành riêng cho các chương trình hoạt động nào đó, gọi là: “Tác Phường”, có thể xem đó như một xưởng chế tạo, chế tác...

     Phường, một âm khác là “phòng”, như đê điều phòng lũ lụt. Trong “Chiến Quốc Sách” (Tần Sách), có câu: “Trường thành cự phường, túc dĩ vi tái”. Tạm hiểu: (Trường thành và đê lũy lớn, đủ làm quan tái), hoặc: “Dĩ phòng chỉ thủy, dĩ câu đảng thủy”. (Lấy đê ngăn nước, lấy ngòi dẫn nước). Mục đích chung là phòng vệ, cố thủ phòng vệ biên giới, phòng trộm cướp, phòng hoạn nạn. “Thiện phòng giả thủy dâm chi”. (Giỏi đắp đê ngăn nước ngập lụt). Đỗ Phủ, có câu: “Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà, Tiện chí tứ thập tây doanh điền”. (Có kẻ năm mười lăm tuổi đi ra bắc phòng giữ đê sông Hoàng Hà, Đến năm bốn mươi tuổi đi khẩn ruộng ở phía tây). Chữ Lũy có một âm là: “Quấn quýt”.

     Phường, chỉ về một nhóm người có hành vi lưu manh, bất hảo, du thủ du thực chuyên đi quấy rối trật tự trị an thậm chí ăn cắp, ăn cướp hiếp đáp người dân lành rất đáng khinh bỉ và nguyền rủa, như: “Phường thảo khấu, Phường đá cá lăn dưa…”. Trong truyện Kiều có câu: “Con này chẳng phải thiện nhân. Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng. ”. Hoặc: “Tình cờ chẳng hẹn mà nên, mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”, và hoặc: “Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Chữ phường nầy cũng đồng nghĩa với “Lũ, Bọn, Tuồng, Hội”.

Tuy nhiên, không hẳn chữ “phường” hoàn toàn xấu mà còn có ý hay - dùng để nói lên tính cách phô diễn, so sánh. Chẳng hạn như câu Kiều: “Nàng rằng: Trộm liếc dung quang, Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.”.

     Phường là cửa tiệm, như: Trà Phường, (Tiệm Trà). Phường Tứ” (Hiệu Buôn).

     Phường: (Động Từ): Trở Ngại, Ngăn trở, Nguy hiểm. Còn có âm khác là “Phướng”.

Bộ Ngư:

      Chữ Phường trong Bộ Ngư “Phồn Thể”, là: Con cá. Trong chữ “Giản Thể” là: Con cá mè, Con cá Phường. Từ đó mới có câu: “Thế hào ngư nhục hương lý”. Tạm hiểu: (Kẻ cường hào thường hay hà hiếp dân lành).

     Như đã nói, – phường là đơn vị hành chánh cuối cùng trong hệ thống hành chánh, (dù mang tên hay mang số) dù không ảnh hưởng nhiều hay sâu đậm về mặt lịch sử, địa dư. Biết vậy nhưng vẫn có các tên phường đã có từ hàng thế kỷ, trải qua nhiều biến thiên thay ngôi đổi chủ tên tuổi vẫn còn giữ; (còn giữ trong lòng người). Ví dụ: Phường Bến Nghé, Phường Da-Kao… (Số tên phường đó đã có từ thời Triều Nguyễn).

     Từ cổ tới kim mỗi khi có một triều đại mới nổi lên là có thay đổi địa danh, địa dư (chia ra, hợp lại). Chia ra, nhập lại vì lý do lưu thông, kinh tế, quân sự mà vẫn giữ tên gốc thì không cần phải bàn. Xóa bỏ địa danh lịch sử vì lý do “Chính Trị”, nhằm mục địch “Trả Thù” triều đại cũ, chế độ cũ không cùng chí hướng, không cùng chủ thuyết “ngoại lai” thì thật là tệ lậu và đáng tiếc.

     Xóa bỏ địa danh hành chánh lâu đời không hẳn là chỉ mất địa danh mà còn mất đi “giọng nói” – dù giọng nói còn đang nói và sẽ còn nói... - nhưng các thế hệ mai sau không biết giọng nói của mình ở vùng nào (trên giấy tờ). Ví dụ: Mất Tỉnh Quảng Nam, Mất Tỉnh Quảng Bình, Mất Tỉnh Thừa Thiên, Mất Tỉnh Phú Yên, mất Tỉnh Kon Tum… Đó là chưa kể tới Ca dao, Tục Ngữ, Văn, Thơ, Vè, Phú cũng như thổ sản ở mỗi nơi.

     Thời đại Computer, người ta quản lý nhân sự, quân sự, kinh tế, khoa học kỹ nghệ, giáo dục, y tế...- bằng kỹ thuật số rất nhanh gọn chính xác không cần xử dụng một số lượng lớn công chức hành chánh quá đông, ban bệ công sở vật chất tốn kém nặng nề từ trung ương cho tới địa phương làm hao tốn ngân sách. Vậy nói, xóa bớt Tỉnh, xóa bớt Huyện, xóa bớt xã, phường - nhằm giảm nhẹ bộ máy hành chánh là không thuyết phục.

     Ở Việt Nam lâu nay luôn tồn tại hai guồng máy “đảng và nhà nước”, song song với hàng với chục triệu công chức ăn lương. Mỗi guồng máy đều có ban bệ văn phòng dinh thự rất cồng kềnh và tốn kém.

     HÃY XÓA BỚT CÔNG CHỨC, ĐỪNG XÓA BỎ ĐỊA DANH LỊCH SỬ ĐÃ TỒN TẠI TỪ LÂU ĐỜI.

     Phường hay thôn, ấp là nơi chứng nhận “Hộ-Tịch” trên tờ giấy khai sanh khi chào đời, giấy khai tử khi lìa cõi đời. (Cả hai loại giấy đó không tự bản thân làm được). Phường, thôn, ấp là địa chỉ cuối cùng để “Đi và Về”. Chính nơi đó hiện hữu tổ tiên ông bà cha mẹ anh chị em cô bác dì chú, mồ mả, bạn hữu - tình làng nghĩa xóm - cũng như kỷ niệm học trò và tình yêu trai gái hẹn hò khi bước vào tuổi mộng mơ.


Trang Y Hạ

LỜI GIÓ MƯA:

Đọc Báo Đảng:

Sau ngày đổi tiền ở miền Nam,

     Tờ - Sài Gòn Giải Phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã viết như sau: 

     “Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ. Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi… Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”.

     Thế nhưng đồng tiền VN hiện giờ so với tiền CamPot và Lào thì thấp hơn.

Trang Y Hạ

(Sưu Tầm).




13/5/25

Thơ phổ nhạc: EM SẼ HÁT

 


Sóng cuộn Kỳ-La, đau hồn nước

Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà.

(Trang Y Hạ)




11/5/25

UỐNG RƯỢU VỚI CỤ HỒ-NGUYÊN-TRỪNG

 



UỐNG RƯỢU VỚI CỤ HỒ-NGUYÊN-TRỪNG

        Sóng cuộn Kỳ-La, đau hồn nước
        Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà. [1]

Đêm chờ sáng quá-khứ sờ loạn nhịp
đầu chưa nguôi, dĩ-vãng nhắc Đại-Ngu
giọt sương nện ngụm ngụm trà lạc nhách
gió trời nam gió xoáy thổi vù vù.

Giờ thất trận nuốt giọt mưa cửa ải
ngước mặt lên đỉnh núi rớt màu tang
bầy em gái, tuổi cập kê cúi mặt
nụ hôn chưa duyên phận hối lỡ-làng.

Bóng mẹ đứng, xế tà ôm con nhỏ
dáng cha ngồi, quân giặc trói hai tay
đám ưng khuyển, tha hồ vơ-vét của
hàng binh đi, đi vào kiếp lưu-đày.

Kiến địa hiểm, hiểm nguy đành cố bước
ải khói mờ, ngoảnh mặt tạ quê hương
trời sẫm tối đường lưu-vong dịu vợi
thân thân trai ngả ngã ngựa chiến-trường.

Đất địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc
thấm lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô
nhập thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ
hậu nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ.

Đêm chờ sáng, du hồn lần cố-quận
cô nguyệt huyền, lọn sóng giục Lương-Giang [2]
quan gá-nghĩa, không khỏa đi nỗi nhục
công hầu dâng, chẳng lấp phận quy hàng.

Thiên-Nam-Mộng mơ màng cô Thái Diễm [3]
đất Hung-Nô, nữ sĩ gặp vận may
đất Hung-Nô, Tô-Vũ nhờ cánh nhạn
rơi cung thương, gánh một gánh lưu-đày.

Ngụ đất giặc, chẻ đầu chế ra súng [4]
quân thù vui, tự giết giết lẫn nhau
cơm từng hột, nhai như nhai sỏi đá
nước nuốt vô trong bụng nước đục ngầu.

Đa-Bang trận, quân Minh sợ tái mặt [5]
lực bất tòng, văng vẳng thần Kim-Quy
thiên-thời tận thiên-tài đành bó gối
chiến-trường tan vung vãi xác quân-kỳ.

Kẻ hậu bối, bước trùng vùng thất trận
theo tiền-nhân, vẽ bức họa lưu-vong
vẽ tội đồ, tội đồ làm mất nước
xin lỗi quê một cổ gánh đôi tròng.

Túc-Tâm-Đạo, ôm vòng xoay khắc-nghiệt [6]
gươm giáo tan, ôn cố thuở lương-thời
buổi ly-loạn trút tang thương thiếu-phụ
hóa lưu-ly, ngàn giọt giọt lệ rơi.

Nơi đất giặc, tri-kỷ đâu thù-tạc
hũ rượu hâm, bỉnh-bút giữ hồn thơ
loài cỏ dại, được mùa mau tươi tốt
vòng tuần quay, hạn hán đón bơ-phờ.

Nơi đất khách, giả đui tìm sinh-lộ [7]
biết: “đạo bất đồng, bất tương vi mưu”
rượu cạn đáy rót chén tràn tâm-tưởng
người xưa sau chung cuộc một cựu thù.

Chén rượu ấm tiêu sầu, sầu sầu miết
mảnh trăng soi soi bến vắng Kỳ-La
chiếc lá rơi rơi núi khuya Cao-Vọng
hơi men tan, bóng mờ bóng trăng tà.

Trang Y Hạ
Cước chú:
1- Cụ Hồ Nguyên Trừng bị giặc Minh bắt tại núi Cao Vọng (Hà Tĩnh) cùng với hàng chục ngàn dân Đại Ngu có tài, đưa về Tàu.
2- “Cô nguyệt huyền trung”. Nghĩa là: Trăng cô độc giữa trời). Lương-Giang tức tên cũ của sông Nhị-Hà thuở rất xa xưa.
3- “Nam Ông Mộng Lục”, viết về quá khứ hoàng kim của quê hương xứ Việt, nội dung ảnh hưởng “Trang Châu Mộng Hồ Điệp”. Nam Ông Mộng Lục, xuất bản tại Kim-Lăng bên Tàu.
4- Cụ Hồ Nguyên Trừng có tài đúc súng đạn.
5- Thành Đa-Bang là nơi chiến tích hiển hách đánh quân Minh thua tan tác của ông Hồ Nguyên Trừng.
6- “Túc Tâm Đạo” là sách thuốc của Hoa Đà thời Tam quốc. Trong sách có câu: “Thụ khô căn tiên kiệt, nhân lão cước tiên suy”. Nghĩa là: (Cây khô thì rễ khô trước, người già đôi chân suy yếu trước).
7- Phải luôn cảnh giác khi làm bạn với người Tàu - người hàng xóm to con nhưng bất lương. Không thể nhận họ là “anh em đồng chí”.

Trang Y Hạ




2/5/25

ĐẠI LỘ CHI LĂNG

 


ĐẠI-LỘ CHI-LĂNG

     “Từ ngày ăn phải miếng trầu,
       Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.”. (Ca dao).

Về qua đại-lộ Chi-Lăng [1]
hồn Bà-Chiểu gọi, dùng-dằng ngó quanh
bước lên xe kiếng dạ-hành [2]
ngựa vui ôn-cố, bóng thành hỏi han.

Đường cây giục gió nắng vàng
nhớ người khai cuộc, thuở tang tang điền
ẩn-thần đất tụ cơ-duyên [3]
dấu chân khai thổ tưởng tiền-hiền xưa.

Bến sông sóng dựa thân dừa
lạch sình khởi-lập hai mùa sậm da
trên cơm dưới cá, hiền hòa
công-lao khởi tạo kể là công-lao.

Tuổi tên giờ đã đi vào
lãng quên tựa ngọn ba-đào thiếu hơi
sử bia một góc lưu lời
phập-phòm nghe tiếng lá rơi chẳng hề.

Lộ-trình nhầu-nhĩ tỉ-tê
tiếng rao đêm vọng gom về cõi xa
sinh-cơ-tử-tán, quả là
mở mồ ngóc ngó san-hà lạnh tanh.

Phất-trần ai phất dỗ-dành
di-cư chia sớt trăng thanh với đồng
đước, bần, vẹt, sú... mênh mông
rễ sanh cắm rễ tâm lòng bấy nay.

Đất trời thay đổi mặt mày
nhân-sinh-kỷ-kiến, men cay ấm đời
trở mình trở-giấc sầu vơi
ba-trăm-năm, vẳng mấy lời: tử, sinh.

Nhân-gian hát-tửu xập-xình
bát khai vân vụ, hiển-linh tỏ mờ
thiết-tha đồng vọng thiên-cơ
tầm-vu sóng vỗ, vỗ bờ thiện chân.

Tiền nhân bảo-chứng ân-cần
huyền-quang, huyền-học, bao lần đề thi
tự bày tai họa ích gì
sát-na phong tận từ-bi cũng thừa.

Về qua đại-lộ thôi mưa
Chi-Lăng cửa ải sương vừa tan sương
khí thiêng quyện giữ nẻo đường
giương cung thầm giở một chương sử rằng.

Bước trên đại-lộ Chi-Lăng
hồn non nước, ngự thuyền trăng luận bàn [4]
nóng từ phương Bắc nóng ran
bắc-môn- tỏa-thược, chưa tan cuộc cờ. [5]

Băng tâm nhất phiến tiêu-sơ
pháo xe ngựa tốt, đang chờ nước đi
tiếng đàn chim việt thầm-thì
truy-nguyên mở cõi khắc ghi sử nguồn.

Trang Y Hạ

Cước chú:
1- Đại lộ Chi-Lăng, thuộc tỉnh Gia Định (Sai-Gòn).

2- Xe Kiếng, kiểu như xe Thổ mộ.
Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng,
Cỏ xanh chưa mọc trong lòng thọ thai”. (Ca Dao).

3- Linh là thần linh, chỉ sự thần kỳ, thiêng liêng. Ngoài ra còn có: “Diệu linh” chỉ mặt trời, dùng trong văn thơ. Khuất Nguyên (Nước Sở) trong bài Thiên-Vấn, viết:
Giác túc vị đán,
Diệu linh an tàng?
Tạm dịch:
Phương đông sao Giác còn,
Giấu đâu thái dương hử? Và: "lưỡng diệu" chỉ chung mặt trời và mặt trăng.

4- Bài: Để Trường Sa Vãn Bạc, của Phan Huy Chú có câu:
Tương Thủy huân phong cổn lãng hoa,
Phiến phàm chuyển miện đáo Trường Sa”.
Nghĩa là:
(Sông Tương gió mát, sóng tựa hoa,
Thuyền trôi chớp mắt, tới Trường Sa.)

5- Trong đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở Nam Định có ghi câu “Bắc Môn Tỏa Thược”. Nghĩa là (Phong tỏa cửa bắc).

Trang Y Hạ






21/2/25

HOÁN VỊ

 



HOÁN VỊ

     “Học hành ba chữ lem nhem
    Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua”. (Ca Dao).

Kiếp sau tu thành con gái
họa hình tung khắp thế-gian
thi-bá, thi-hào mê mải
thơ tình vung-vãi đầy đàng.

Kiếp sau tu thành con gái
chảnh-chó với đám con trai
dù phải lừng danh, “quỷ-cái”
còn hơn ngồi sụ mặt mày.

Kiếp sau tu làm con gái
du-hành khắp bốn phương xa
kinh-doanh ôm nhiều lời lãi
cớ chi quanh quẩn trong nhà.

Kiếp sau tu thành con gái
mang gươm đi chém bà chằn
phang luôn mấy ông thích dại
ăn phở quên món ăn-năn.

Kiếp sau tu thành con gái
cầm roi đét “đ.í.t” Sở-Khanh
đánh mụ tú bà tung váy
tú ông sống chẳng an lành.

Kiếp sau tu thành con gái
dẫn quân giết giặc ngoại xâm
cho dù cung thương có gãy
sướng chi ôm chiếu giường nằm.

Kiếp sau tu thành con gái
không sinh trăm trứng như bà [...]
Thủy-Tinh, Sơn-Tinh hối cải
thôi gây lắm chuyện can qua.

Kiếp sau tu thành con gái
nõ thần giấu kỹ trong rương
Trọng-Thủy gạ tình muốn lấy
lấy thứ đồ giả trên tường.

Kiếp nầy con trai thất bại
hân-hoan hoán-vị giao cương
tung chén lên trời cảm-khái
thắng thua kim cổ sự thường.

Trang Y Hạ
     Ngồi uống cà phê Starbucks với lão tù già lọm khọm Trần Phước Hân và mần thơ cho dzui.

Lời Gió Mưa:

     Mỵ Châu - người con gái của Thục phán An Dương Vương. Cô công chúa quá thật thà đã trao nỏ thần cho “người yêu” Trọng Thủy - con trai Triệu Đà. Triệu Đà vốn đã có ý đồ chiếm lấy Âu Lạc. Nay được nỏ thần, Triệu Đà xua quân vây thành Cổ Loa và thành Cổ Loa thất thủ.
Biết trúng mưu hèn kế bẩn của giặc. Thục phán An 

     Dương Vương vội vã nhảy lên ngựa, đem theo công chúa Mỵ Châu chạy ra ra biển trốn.
Về phía Mỵ Châu, cô vẫn còn hy vọng Trọng Thủy sẽ chung tình và đi tìm nên cô lấy lông ngỗng giấu từ trong túi áo rải dọc đường làm mật hiệu. An Dương Vương chạy đến bờ biển, đức vua quỳ xuống khẩn cầu sự giúp đỡ của thần Kim Quy. Thần Kim Quy hiện lên, phán rằng: "Người ngồi ở sau lưng ngài chính là giặc đó".

     Có thể nói Trong Thủy chính là “gián điệp” do Triệu Đà cài đặt. Vua An Dương Vương mất cảnh giác. Vậy, (giặc ngoại xâm không đáng sợ bằng giặc nội xâm). Từ bài học lịch sử đau thương của Vua Thục Phán An Dương Vương mà hơn bốn ngàn năm qua các triều đại Đại Việt vẫn luôn luôn đề phòng phương Bắc. Trong đền thờ vua Lý ở Nam Định có đề bốn chữ “BẮC MÔN TỎA THƯỢC”.

     Lịch sử “khẳng định”, kẻ thù truyền kiếp ngàn đời của Việt Nam chính là phương Bắc. Họ chẳng phải là “Anh em , đồng chí”.

Trang Y Hạ.



2/2/25

MỘT NỬA TRĂM NĂM

 



MỘT NỬA TRĂM NĂM

      Đầu năm rắn quay đầu con rắn cắn
      Hút nọc châm bào-chế trị cơn đau.

Mồng một mở ôm eo cô starbucks
cựu xuân lay đầu ngóc ngó loanh-quanh
giao thừa tửu nửa khuya lưu ngầy-ngật
một thân trơ mời mưa gió dỗ dành.

Xuyên vách kiếng xe người dưng nước lã
chạy nhịp-nhàng đi hỏi cõi hư-vô
ghìm một chỗ xới tâm tình bao ngả
chợt rùng mình tưởng tắm gội dưới mồ.

Chậu mai thúc chùm lộc vàng mùa cũ
choàng qua vai tà áo mới gọi là
phấn hồng phớt mặt chị hằng ủ-rũ
gương mòn soi vằng-vặc sáng thêm ra.

Cô starbucks bữa ni trang điểm tệ
dáng lơ-ngơ quên bẵng chuyện hỏi thăm
vui buồn giấu thâm môi, chào có lệ
giận hờn chi vê sợi cước đẹp cằm.

Pháo chuột dội tự ngàn xưa dồn lại
xuân tiên hồi phả hơi ấm dồn lần
con bướm đực ngủ lỳ nghiêng hoa dại
khung trời vui mây trắng điểm bạch vân.

Giọt thời khắc ngóng canh huyền dịch triệt *
nửa trăm năm ôm ấp chuỗi lương thì
dòng máu nóng tuôn về đâu tha-thiết
chẳng đặng chờ nguồn bác-ái từ-bi.

Lửa huỳnh rọi tàn thân con đôm đốm
phòng thành rêu con dế tiếc không hư
đường lồi-lõm sử mù moi lồi-lõm *
tan tác bầy, bầy chim việt mỏi nhừ.

Jacket bạc giấu tay cùn vô túi
phố dửng-dưng thong-thả rưới mưa lâu
hy-vọng sẽ vẽ thẳng đường rong-ruổi
giương buồm lên xua sóng đẩy con tàu.

Xuân mới đụng mấy mồng bày phơi-phới
ngưc căng tròn thần-tình-ái mải mê
nửa trăm năm bón chân mây mầm đợi
ngước mặt vui ngày đoàn-tụ đề huề.

Trang Y Hạ
Mồng một tết âm lịch 2025,
ngồi uống cà phê Starbucks với lão tù già
Trần Phước Hân.

Cước chú:
* Thay đổi
* “Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh,
Vô thuật năng y lão cánh gia”. (Nguyễn Trãi).
Nghĩa là:
(Đời viển vông quả thực là bệnh của ta,
Vô phương chữa được, về già lại càng nặng thêm.).
(Thơ lưu trong website thơ văn trangyhạ).

Lời Gió Mưa:
    “Phép ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc màu rách nát.”. (Trang Y Hạ).
   

      Donald Trump & Những Câu Danh Ngôn
* - Khi ai đó thách thức bạn, hãy chiến đấu. Hãy tàn bạo, hãy mạnh mẽ.
* - Quy tắc là thứ sinh ra để được phá vỡ.
* - Động lực của tôi không phải là kiếm tiền mà là bước vào cuộc chơi
* - Đừng cố cân bằng giữa công việc và vui chơi, thay vào đó hãy biến công việc thành niềm vui của bạn.
* - Tôi cố gắng học hỏi từ quá khứ, nhưng tôi lên kế hoạch cho tương lai bằng cách tập trung tuyệt đối vào hiện tại.
* - Người chiến thắng là người biết đủ. Đôi khi bạn phải chấp nhận từ bỏ và tìm một cơ hội khác cho mình.
* - Điều phân biệt người chiến thắng với kẻ thua cuộc đó chính là cách họ phản ứng với bước ngoặt định mệnh.


Dạy Nghề Cho Nữ Tù Binh VC.


31/1/25

GOLDEN GATE BRIDGE

 



GOLDEN GATE BRIDGE

Tơ tưởng vọng song hành chân mây cát
dựa hoàng-hôn, đêm ngửa mặt thinh thinh
gươm rỉ-sét hốt sương tầm vọng gác
xẻ rừng hoang, lượm củi định dáng hình.

Sợi kỷ niệm nhồi tâm hơi sùng-sục
ký-ức sôi nâng thời bé miên-man
ai di-xú-vạn-niên, ai chịu nhục
ai phương-huyền-bệnh-quốc, vấy điêu-tàn.*

Hồn rớt đáy ngậm sóng ngầm đáy vịnh *
vọt lên đây cõng theo mớ cá tôm
hy-vọng trắng gửi thân đơn tịch-mịch
vọt lên đây khai tĩn góp phiếm-đàm.

Hồn sáng mắt cõi trần gian ảo-thuật
xác tồn-sinh, tiếc nuối ngậm ăn năn
phần quà tuổi, mỗi người nâng một suất
đời là vui, dù lỡ phải muộn-mằn.

Quạ năng tới vấn an, - chừ chắc khá
nheo mắt cười, vận đen đủi trần thân
lưu-luyến cảnh lưu ân tình hẹn trả
vòng tử-sinh giục giã nhịp xoay-vần.

Nửa đàng gãy, khúc quảng-lăng cố gảy *
chưa phủ phê, thiều-hoa gánh phũ-phàng
mưa rỉ-rả, rã-rời mưa gió xoáy
sẫm thêm màu sẩm tối đợi mây quang.

Có bướng-bỉnh, có đôi khi bội-nghịch
nhật-mộ-đồ-viễn xứ, giữ di-phương
đoạn canh-độc-ngư-tiều, rằng ưa thích
chim sáng ca nhí-nhảnh đóa hoa vườn.

Nhịp cầu khỉ bắt qua lòng chưa mục
thủy-triều say nghiêng-ngả vạt bà-ba
bìm bịp hối ngũ-liên hồi niệm-khúc
mái dầm khua chao-đảo nhánh trăng ngà.

Gió ô lý gió lành xuôi bình-thuận
sóng hoàng-sa kỳ cọ bãi cát vàng
tự-do điểm hột mưa treo lơ-lửng
rưới hồn chàm, đền tháp gói thở than.

Đất lạ ngóng song hành chân mây cát
nội-dung đầy, chờ phóng-tác cho khuây
cầu nổi tiếng vết sử lòng ran-rát
ngụ nơi đây biết ngụ tới bao ngày.

Trang Y Hạ

Cước chú:
* “Di xú vạn niên”. (Để tiếng xấu muôn đời).
* “Phương huyền bệnh quốc”. (Làm trở ngại người hiền và hại nước).
* Từ ngày khánh thành Golden Gate Bridge cho tới
nay đã có một ngàn bảy trăm (1,700) người tự tử.
* Quảng Lăng & Thiều Hoa là hai khúc nhạc.

Lời Gió Mưa:

     Phép ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc màu rách nát. 

(Trang Y Hạ).









24/12/24

QUÁN CŨ.

 



Giáng Sinh. Chúc An Lành.

1/11/24

MÙA CỦA NHỮNG HỒN MA

 



  "CÙNG ANH UỐNG CHÉN RƯỢU NGANG,
       VỢ ƠI, ĐỊA NGỤC THIÊN ĐÀNG NHAU".
        Trang Y Hạ


10/9/24

KHỔNG NHO & NHỮNG MÂU THUẪN

 



KHỔNG NHO & NHỮNG MÂU THUẪN

Tác giả: Trang Y Hạ

Khổng Nho, nội dung tư tưởng chứa đầy mâu thuẫn đã để lại hậu quả lâu dài cho người Trung Quốc; cho những quốc gia dựa vào tư tưởng của Khổng Tử làm phương châm giáo dục để rồi tự chuốc lấy hậu quả, là - nền giáo dục trì trệ, lạc hậu không thể theo kịp kỷ nguyên khoa học, công nghệ tiên tiến như các nước Phương Tây.

(Tại sao gọi là Khổng Nho? Bởi Nho Giáo có trước Khổng Tử. Khổng Tử sinh sau, mới làm hoàn thiện thêm và làm cho phong phú thêm).

Trong bài nầy, tác giả không cố ý “chỉ trích người xưa”, mà chỉ phân tích lời dạy của Khổng Nho nhằm phân tích, những “mâu thuẫn, hậu quả” của Khổng Nho để lại mà các nhà khoa bảng trí thức danh tiếng thế giới cũng đã phê phán cốt để suy nghiệm chọn lọc hầu chấn chỉnh lại nền giáo dục cho phù hợp với thời đại công kỹ nghệ đang trên đà phát triển không ngừng. [Phải hiểu rằng, cho dù là danh nhân, danh sĩ thì họ cũng có những sai sót và khuyết điểm của người xưa chứ không là toàn mỹ]. Từ lâu một số các quốc gia theo Khổng Nho, lấy “tư tưởng” đó làm phương châm giáo dục đã nhận thức và mạnh dạn chối bỏ để tiếp nhận khoa học kỹ thuật nhằm đưa đất nước giàu mạnh, như: Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Nam Hàn và ngay cả Trung Hoa lục địa ngày nay cũng vậy.

Tiếp nhận “Một nền văn minh, khoa học kỹ nghệ”, không phải là xóa bỏ sạch hết các: Định đề; phạm trù đạo đức (nhân bản vốn có) hoặc nền nếp văn hóa cố định gọi là “truyền thống”. Tuy nhiên, đôi khi chính văn hóa truyền thống cố hữu truyền từ đời nầy sang đời khác qua mấy ngàn năm trong lũy tre làng đã tạo ra (thói quen lười biếng, sợ hãi) không dám dấn thân, không dám xê dịch, nghi ngại không dám tìm tòi cái mới, không dám thay đổi... Điển hình là “Bản Điều Trần” canh tân đất nước của ông Nguyễn Trường Tộ khi ông qua Pháp đã tận mắt chứng kiến sức mạnh – quân sự, kinh tế… Bản điều trần, bị vua quan Triều Nguyễn xóa bỏ. Từ đó, nước Pháp mới có cớ để đô hộ Việt Nam gần cả trăm năm. Nhà triết học Ấn Độ (Krishnamurti) khẳng định rằng “Truyền thống cố hữu chính là nguyên nhân của nỗi sợ hãi”. Bởi quá sợ hãi cho nên không dám phá bỏ cái cũ, mặc dù cái cũ đã “rách nát”... ! Tệ hơn nữa là đám quan lại hủ lậu cố giữ khư khư định kiến vì lo sợ nếu thay đổi theo trào lưu khoa học thì sẽ mất hết quyền hành, tài sản…

Tiếp nhận “khoa học kỹ thuật” là thoát ra khỏi cái kén, thoát ra khỏi lũy tre làng để nhìn thấy bầu trời cao rộng hơn, con người khôn ngoan hơn và cuộc sống sung túc hơn.

Nhà Khai Sáng Nhật Bản, (Fukuzawa Yukichi) đã trình bày trong “Thoát Á Luận”. Ông luôn khẳng định rằng: “Khổng Nho chỉ dạy cho con người hư hỏng, mất ý chí, áp đặt và thụ động…”.

Văn hào Lỗ Tấn (Trung Hoa), nói: “Nho giáo là thuốc độc của tinh thần”. Và ông còn nói tiếp: “Các giai cấp phong kiến Trung Quốc trong lịch sử, dùng Đạo Khổng (Trung, Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) để làm hòn đá gõ cửa nhà người ta. Một khi chủ nhà nghe gõ, mở cửa cho vào thì nó lấy hòn đá đập vô đầu chủ nhà”. Đọc truyện ngắn “Khổng Ất Kỷ”, hoặc “Trường Minh Đăng” của Văn Hào thì sẽ biết ngọn ngành.

Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên), Trung Hoa, là người đưa ra chủ nghĩa Tam dân: “Dân Tộc, Dân Quyền, Dân Sinh”. Ông cũng cho rằng: “Khổng Giáo là trở ngại cho sự phát triển giáo dục, trở ngại cho sự thịnh vượng quốc gia cũng như không đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Người dân không được dạy về quyền con người; không được dạy về lòng yêu nước; không được dạy về cách làm cho phát triển kinh tế, nông nghiệp và công nghiệp”.

Ông Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) làm quan thời Nhà Nguyễn, ông đã cực lực phê phán: “Ý thức hệ Khổng Nho đã lỗi thời cần phải dẹp bỏ để tiếp nhận ánh sáng văn minh Phương Tây”.

Ông Phan Chu Trinh nói: "Không bỏ Chữ Hán (Khổng – Nho). Thì Không Cứu Được Nước Nam".

Ông Mao Trạch Đông, nói: “Những người như chúng tôi chống Khổng Tử có rất nhiều lý do khác. Khổng Học độc quyền bá chiếm Trung Quốc, làm cho tư tưởng của chúng tôi không được tự do, phải buồn khổ làm nô lệ cho thần tượng này suốt hai nghìn năm, thì cũng đã không thể không phản đối.”.

Văn sĩ kiêm Nhà Tư tưởng Khang Hữu Vi 1858 – 1927). Và, Nhà Dịch Thuật kiêm Ký Giả Lương Khải Siêu (1873 - 1929), nói rằng: “Bất cứ loại hình văn hóa truyền thống nào như: - “Nho, Đạo, Pháp, Mặc...” - đều không thể cứu được Trung Quốc, hơn nữa là một gánh nặng hoặc vật cản. Lối thoát duy nhất là từ bỏ hệ tư tưởng truyền thống, cải cách duy tân, học theo văn minh phương Tây, hiện đại hóa Trung Quốc về mọi mặt”.

Tiếc thay, đề xướng của hai ông thất bại thảm hại.

Khổng Tử suốt đời chạy tới nước nào thì “nịnh bợ” vua chúa nước đó để mong được giữ một chức quan, nhưng khi đã nhận được chức quan thì không hoàn thành nhiệm vụ. Sai lầm của Khổng Tử là cho rằng: “Vua chúa và dân chúng có cùng chuẩn mực đạo đức ngang nhau”. Do đó, xài chữ “NHÂN” tùy tiện. Không rõ có phải đó là một phương thức dạy học cách riêng của Khổng Nho thời đó hay không? Khổng Nho tùy theo từng bản tánh của từng đệ tử mà truyền dạy. Đối với đứa ham ăn, ham uống, thì dạy: "Quân tử thực bất cầu bảo". Nghĩa là (Người quân tử ăn không cầu no). Đứa hay gây sự, quậy phá, bướng bỉnh, thì dạy: "Quân tử hòa nhi bất đồng". Đứa nói năng huyên thuyên bừa bãi không đầu không đuôi, thì dạy: "Tiểu biện hại nghĩa, tiểu ngôn phá đạo". Đứa hay bêu xấu người khác, moi móc chuyện đời người khác, thì dạy: "Nặc nhân chi thiện, sở vị tế hiền; dương nhân chi ác, tư vi tiểu nhơn". nghĩa là: (Giấu điều tốt đẹp của người là dìm kẻ hiền; chỉ phô bày điều xấu của người là kẻ tiểu nhân). Cách dạy “xé lẻ” đó theo quan điểm ngày nay là không phù hợp.

Khổng Tử suốt đời chỉ mong làm quan; mong các vua chúa dùng (lễ nhạc) của mình để “bình thiên hạ”. Ông dùng mọi cách khuyến dụ nhưng chẳng ai thèm nghe, thậm chí còn xua đuổi. Từ đó mà Khổng Tử cảm thấy chán nản đành trở về quê cũ... Ông tự than: “Đời đục cả, ta trong với ai”. Qua câu than thở đó đã đủ cho thấy Khổng Nho không hoàn hảo, và hơn nữa là các bậc vua chúa cũng không (mặn mà) mỗi khi “Thánh” Khổng Tử răn dạy. Ông buồn chán mà than thở: “Cô đơn, mệt mỏi như con chó không nhà”.

Tuy nhiên giới Nho gia, Vua chúa độc tài, quan lại tham những thì đã nhìn ra thuyết Khổng Nho rất có lợi cho họ trong việc đè đầu, đè cổ dân chúng. Khổng Nho chính là sợi “dây thừng” giúp họ siết cổ dân đen, biến dân đen thành những con cừu ngoan ngoãn chui vào trong cái rọ: “Trung, Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”, và một khi đã chui vào rọ thì mãi mãi trung thành tuyệt đối mà không có ý niệm thoát ra hay chống cự.

Chủ thuyết của Khổng Nho là lấy “Lễ Nhạc” để giới thiệu cho các vua chúa cách trị dân. Nhưng thật ra đó chỉ là “mị dân” hòng nhằm ru ngủ đám dân chúng nghèo đói, ngu dốt... Chính đời sống xã hội nghèo đói, loạn lạc hằng ngày đã chỉ rõ ra rằng: (Một khi con người và xã hội rơi vào hoàn cảnh bần cùng thì tất nhiên sẽ sinh ra loạn lạc, giặc dã nổi lên khắp nơi!). Điển hình, như: Loạn An Lộc Sơn, đời Nhà Đường. Giặc Khăn Vàng (Hoàng Cân), thời Hậu Hán hay Thái Bình Thiên Quốc thời Nhà Thanh”, đã quy tụ được hàng chục triệu người nông dân theo họ nổi dậy làm binh biến…! Trong các cuộc nổi dậy đó đã làm dân số giảm đi rất nhiều…! Văn hào Lỗ Tấn, nói: “Lịch sử Trung Hoa là lịch sử ăn thịt người”. Nghĩa là Trung Hoa luôn có chiến tranh (tự chém giết nhau). Từ đó, nghèo khổ triền miên, - đó là chưa kể thiên tai lũ lụt…! Ai cũng biết “Bần cùng sinh đạo tặc”, hoặc “Có thực mới vực được đạo”. Vậy thì “lễ, nhạc” đối với người bần cùng nằm dưới đáy xã hội thì phỏng có ích gì?

Người xưa nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Một khi đời sống no ấm mới có thể tổ chức giỗ quảy cho ông bà, cha mẹ, anh chị em... Đất nước giàu mạnh, kinh tế phát triển thì mới đủ kinh phí tổ chức các “lễ hội truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tưởng nhớ tới các bậc anh hùng có công giữ nước”. Khổng Nho không dạy cho người dân làm giàu để có cơm no áo ấm mà lại lấy “lễ nhạc” để trị họ. Dạy như vậy là sinh ra loạn lạc, cướp bóc. Giả dụ rằng thứ “lễ, nhạc” đó là hình luật được công nhận trong xã hội phong kiến cũng như bây giờ thì cũng không đủ sức răn đe để giữ trật tự xã hội.

NHỮNG CÂU DẠY: BẤT NHẤT, MÂU THUẪN

- Đối Với Người Dân:
Khổng giáo khinh thường người dân:
Ông Khổng Tử nói: (Hình phạt không được dùng cho quan lớn). “Hình bất thướng đại phu”. Vậy là vua chúa, quan lại, phú hào, bá hộ... được quyền “kim bài miễn tử” không phải chịu bất cứ hình luật nào. Lấy lễ nhạc trị nước mà nói: (Lễ không kể đến bọn thứ dân). “Lễ bất há thứ dân”. Vậy là Khổng Nho chỉ nhằm phục vụ cho quyền lợi vua chúa, quan lại là chính. Lấy lễ đối nhân xử thế vậy mà lễ không kể đến bọn thứ dân. Bởi vậy vua chúa, quan lại phong kiến gọi người dân là: “Bọn thứ dân, đám bần dân, con dân, con đỏ”, một cách miệt thị. Vua chúa “vi hành” người dân phải quỳ lạy, cúi đầu chứ không được nhìn mặt. Dưới thời phong kiến, người dân phải nai lưng đóng đủ các thứ thuế để cho guồng máy quan lại hủ bại hưởng thụ. Ngược lại mỗi khi có thiên tai dịch bệnh hay chiến tranh, nghèo đói thì không biết kêu ai. Vậy “lễ nhạc” không đem lại an bình cho xã hội!

Ngày nay (thế kỷ hai mươi, hai mươi mốt), những thế kỷ của kỹ nghệ khoa học, con người rất thông minh và văn minh... Vậy mà một số quốc gia “độc tài” vẫn khư khư ôm hồn ma Khổng Nho làm phương châm giáo dục thì chỉ làm khổ người dân và đất nước càng chậm tiến. Đại Việt (Việt Nam), hơn bốn ngàn năm vẫn ôm khư khư Khổng Nho làm nền tảng giáo huấn mà bị nô lệ phương Bắc hơn một ngàn năm, và rồi “bế môn tỏa cảng” nên bị người Pháp đô hộ gần trăm năm, cho tới hôm nay vẫn chưa thoát ra được, đã vậy còn tròng thêm chủ thuyết Cộng Sản cùng “đồng chí” với Trung Cộng.

Sách sử ghi chép rằng, sau khi Khổng Tử mất, “Lục Kinh & Kinh Nhạc” đã bị thiêu huỷ hoàn toàn. Học trò của Khổng Tử xúm nhau tìm tòi ghi chép lại. “Tam sao thất bổn” thử hỏi có còn chính xác hay không? Đời Nhà Tần “Đốt sách, giết học trò”, thì sách của Khổng Tử cũng bị mất đi khá nhiều.

- Đối Với Phụ Nữ:
Khổng Nho khinh thường phụ nữ:

Khổng Nho đối xử không công bằng với phụ nữ, đã vậy lại còn ràng buộc phụ nữ bằng các thứ giáo điều rất khắc khe tới nỗi vô lý và bất nhân. Những người con cùng cốt nhục do chính cha mẹ sinh ra mà lại phân biệt giới tính (trai, gái) theo cách “Trọng nam, khinh nữ”. Khổng Nho xem con gái là ngoại tộc, bằng câu nói: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Nghĩa là: (một đứa con trai thì coi là có, còn mười đứa con gái cũng coi là không). Thật là bất nhân. Hoặc: “Nữ sinh ngoại tộc” (Con gái sinh ra là con nhà người khác). Vậy mà Khổng giáo còn nói: “Phu phụ tương kính như tân”. Nghĩa là: (Vợ chồng phải kính trọng nhau như một người khách). Khổng Nho, nói hay như vậy thì tại sao lại bắt người phụ nữ phải: “Xuất giá tòng phu”. Nghĩa là: (Một khi đã lấy chồng thì phải phụ thuộc hoàn toàn người chồng). Kính trọng lẫn nhau như khách, mà lại bắt người vợ suốt cuộc đời phải cúi đầu nghe chồng phán bảo mà không được phép cãi lại?! Vậy là người phụ nữ một khi đã lấy chồng thì chẳng khác gì “nô lệ”, chẳng khác gì một người “giúp việc & sinh con” mà không được trả lương?! Nghĩ ra, thật là quá mâu thuẫn.

Lại nữa, đã tôn trọng lẫn nhau, tại sao lại cho đàn ông được quyền: “Nam hữu tam thê tứ thiếp”. Nghĩa là: (Đàn ông được lấy nhiều vợ)! Còn người phụ nữ thì: “Gái chính chuyên chỉ thờ một chồng”? Lại nữa, là: Tình vợ chồng thiêng liêng cùng thề nguyền sống với nhau suốt đời, sống tới “răng long đầu bạc”, đồng cam cộng khổ lo nuôi dạy bầy con nên người, thì bảo là: “Phu thê như y phục”. Nghĩa là (vợ chồng như quần áo), muốn cởi bỏ lúc nào cũng được. Dạy như vậy có khác gì xem phụ nữ là một món hàng để mua bán, trao đổi…?! Trong khi đó anh em ruột thì nói: “Huynh đệ như thủ túc”. Nghĩa là (Anh em như thể tay chân)?

Nghĩ thử xem, anh em ruột chỉ sống chung nhà với cha mẹ khi còn bé, nhưng một khi đã trưởng thành tất nhiên phải lập gia đình rồi tách ra riêng mỗi người sinh sống mỗi nơi, phận ai nấy sống chẳng ai lo cho ai được. Tục ngữ, nói: “Của cha của mẹ thì ham, của anh của chi ai làm nấy ăn” đó thôi. Anh em ruột có khi nào sống chung suốt đời như vợ chồng được đâu? Vợ chồng vốn vì tình yêu (trai, gái) lấy nhau để “truyền giống”, vì nghĩa ân mà nương dựa vào nhau lúc - bệnh hoạn, lúc khó khăn, thì lại xem nhẹ, khinh thường…!

Đau đớn hơn nữa là Khổng Nho, tròng vô cổ người phụ nữ bằng cái gông: “Tam tòng, tứ đức”. Suốt cuộc đời họ lệ thuộc hoàn toàn vô người đàn ông, đó là: [Cha, Chồng, Con Trai]. Khổng Nho bắt buộc phụ nữ học: “Công, Dung, Ngôn, Hạnh”, đó cũng là cái gông tròng vô cổ phụ nữ nhằm phục vụ chồng và nhà chồng. Người phụ nữ chỉ lẩn quẩn ở trong nhà, may vá thêu thùa và sinh con, còn chuyện ngoài xã hội không được quyền tham gia.

Khổng Nho quan niệm rằng: Chỉ có: “Nam nhi đại trượng phu”, “Nam nhân quân tử”. Nghĩa là: Người con trai mới là đúng là bậc quý phái được tôn vinh; con trai mới làm nên việc lớn và đáng gọi là chính trực. Do quan niệm như vậy mà trong mọi nghi lễ chỉ có phái nam mới có quyền đứng ra chủ trì việc cúng tế từ trong nhà ra ngoài xã hội, còn người nữ mệt nhọc lo việc bếp núc để phục vụ thì chỉ loanh quanh ở dưới bếp, ăn uống sau bếp chứ không được quyền bước lên nhà trên! Khổng giáo dạy: “Nữ nhân ngoại tộc”. Đã ngoại tộc thì suốt đời người phụ nữ theo chồng cũng ngoại tộc, chỉ là được tiếng “con dâu”. Người xưa nói: “Thương chồng mới lụy bà gia, Gẫm tôi với mụ chẳng bà con chi”! Một khi người phụ nữ bị chồng, bị nhà chồng đánh đập, ruồng bỏ thì chỗ dựa duy nhất là cha mẹ ruột. Vậy thì tại sao nói phụ nữ là ngoại tộc? Khổng Nho dạy: “Tam niên vô tử bất thành thê”. Nghĩa là: (Ba năm không sinh con không phải là vợ). Không sinh được con, đâu phải là cái tội của người vợ gây ra? Tại sao lại quy tội cho một phía? Mắc mớ gì Khổng Nho tự đưa ra cái “luật” vô lý nhằm chia rẽ tình chồng vợ, làm tan nát tình vợ chồng đang sống êm ấm?! Khổng Nho, tạo tiền đề cho đàn ông có quyền ruồng bỏ người vợ đầu ấp tay gối đã được hai bên dòng họ cưới hỏi và được chính quyền công nhận bằng “giấy giá thú”. Khổng Nho quả thật độc ác!

Khổng Nho dạy: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán”. Nghĩa là: (Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó giáo dưỡng, thân thiết với họ thì họ tự cao, lạnh nhạt với họ thì họ bất mãn). Khổng Nho không hiểu tâm lý và bản chất con người, bởi ở trong con người thiện ác luôn đối chọi để tiến tới “Chân – Thiện – Mỹ”. Vì không hiểu biết nên đã phân biệt, khinh khi phụ nữ.

Khinh thường phụ nữ, cho họ “dơ bẩn nguyệt lịch”! Vậy mà tất cả đàn ông đều chui ra từ (chỗ dơ bẩn nguyệt lịch) ấy của phụ nữ. Bà Đoàn Thị Điểm, nói: “Giai do thử đồ xuất” quả là quá đúng! Hạ thấp giá trị người phụ nữ là hạ thấp phân nửa nhân loại.

Khổng Nho xem thường tiểu nhân. Giả dụ, không người tiểu nhân thì làm gì có người quân tử? Không lẽ con người khi sinh ra là biết làm người quân tử? Nếu được như vậy thì nơi trần gian ô trọc chẳng khác gì chốn Thiên Đường! Ông Tào Tháo ngày xưa đã tin dùng người tiểu nhân, ông còn nói: “Dùng người tiểu nhân đúng chỗ họ sẽ làm được rất nhiều việc hay”.

Trong “Thiên Tự Văn”. Thiên Tự Văn là một cuốn sách ghi chép các điều về giáo lý chính thống của Nho Giáo, như sau: “Ngoại thụ phó huấn, nhập phụng mẫu nghi”. Nghĩa là: (Ra bên ngoài nghe lời thầy dạy, về nhà nhớ lời mẹ). Câu nầy mới nghe thì như có vẻ khen ngợi, nhưng thực ra là áp đặt người phụ nữ nghe lời mà không được tự ý phản kháng. Tuy vậy, Khổng Nho cũng có nhiều câu nói giá trị. Điển hình, như: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Nghĩa là: (Cái gì mà mình không muốn thì đừng bao giờ làm cho người khác).Dưới thời phong kiến vốn dĩ xem phụ nữ không ra gì. Do đó Khổng Nho cũng không dám cất tiếng nói để bênh vực phụ nữ. Đã không dám bênh vực lại còn đổ thêm dầu vô lửa. Tuy nhiên, trong lịch sử Trung Hoa vẫn có những bà mẹ có học thức đã dạy con của họ trở thành bậc tài danh, như: Âu Dương Tu, Tô Thức

Dưới thời phong kiến vốn dĩ xem phụ nữ không ra gì. Do đó Khổng Nho cũng không dám cất tiếng nói để bênh vực phụ nữ. Đã không dám bênh vực lại còn đổ thêm dầu vô lửa. Tuy nhiên, trong lịch sử Trung Hoa vẫn có những bà mẹ có học thức đã dạy con của họ trở thành bậc tài danh, như: Âu Dương Tu, Tô Thức (Tô Đông Pha), Chu Tất Đại… Ngoài ra cũng có một số phụ nữ được cha mẹ cho ăn học và trở thành văn thi sĩ, như: Thi sĩ Thái Diễm trong thời Tam Quốc phân tranh mà Tào Tháo rất coi trọng tài văn thơ cũng như trí nhớ của bà. Tác phẩm “Hồ Già Thập Bát Phách” của bà vẫn còn lưu truyền trong nền văn học Trung Hoa cho tới tận ngày nay. Nữ thi sĩ Tiết Đào (768 – 831) nhà Đường. Bà để lại tập thơ “Cẩm Giang Tập”. Nữ thi sĩ Lương Ý Nương (Nhà Đường) để lại bài thơ “Trường Tương Tư” rất nổi tiếng.

- Đối Với Nam Nhi:
Đối với con trai, thì một mặt Khổng giáo khuyên: “Nam nhi chí tại tứ phương”. Nghĩa là (Làm trai phải có ý chí ở khắp bốn phương trời). “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. (Chinh Phụ Ngâm). Vậy mà lại ràng buộc một câu quá mâu thuẫn: “Phụ mẫu tồn bất khả viễn du”. Nghĩa là: (Cha mẹ còn sống thì không được đi xa). Ngày xưa chính Hàn Tín cũng vì câu nói đó mà cứ lẩn quẩn ở bên mẹ và mả mẹ, nên đã trễ nãi chuyện tiến thân dù tài năng quân sự của ông rất giỏi, thậm chí còn phải chịu “lòn trôn giữa chợ” để có lý do được ở lại quê nhà. Bởi vậy, sử sách Trung Hoa thời trước và thời sau chưa bao giờ khinh khi Hàn Tín chuyện “lòn trôn”. Và khi Hàn Tín làm tướng nhà Hán, ông trở về quê nhà báo ơn người bán thịt heo “bắt” ông lòn trôn giữa chợ.

Khổng Nho, dạy: Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Câu nói nầy ngày xưa là “kim chỉ nam” cho các đấng nam nhi. Thời phong kiến luôn áp đặt thì làm gì có tề gia? Vua chúa lập “Tam cung, lục viện”. Quan lại, Địa chủ lập nhiều thị tỳ thê thiếp. Đàn ông thường dân cũng có quyền năm thê bảy thiếp... ? Cuộc sống gia đình đa thê như vậy, tất nhiên những người vợ và con cháu của họ, dòng tộc bên ngoại của họ sẽ đấu tranh để giành ảnh hưởng, quyền lợi. Và gia đình sẽ luôn - xào xáo, bất ổn, bất an triền miên kể cả đối chọi nhau ngấm ngầm... ! Vậy thì làm sao mà tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cho được đây?

- Đối Với Quan Hệ Vua Tôi:
Khổng Nho dạy: “Thượng bất chính, hạ tất loạn”. Nghĩa là (Ở trên không chính trực thì bên dưới sẽ loạn). Vậy mà lại dạy: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” là hết sức tàn nhẫn, độc ác! Những người có tâm lòng ngay thẳng góp ý kiến xây dựng thì không dám nói, mà có nói ra kế hoạch canh tân đất nước, can gián nhà vua hoặc nói lên sự thật thì nhà vua cũng không nghe lại còn ghép tội “khi quân”, bị “Tru di tam tốc, Tru di cửu tộc”. Đã vậy còn dạy: “Quân dĩ dân vi bản”. Nghĩa là: (Vua lấy dân làm gốc). Nhưng lại dạy: “Một tấc đất là của nhà vua, hột lúa, ngọn rau là nhờ ơn của vua ban cho”. Trong khi đó vua chúa, quan lại “ăn bám” của dân mà sống.

- Đối Với Tình Cha Con:
Khổng Nho dạy: “Phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. Nghĩa là (Người cha bắt con chết thì người con phải chết, người con không chịu chết là bất hiếu). Người xưa có câu: “Hổ dữ còn không ăn thịt con”, huống hồ là con người! Tại sao lại dạy cho “người cha” mất đi nhân tính như vậy? Người cha nào có phải quan tòa đâu mà xử án giết chết con ruột của chính mình? Luật lệ của vua chúa đặt ra để làm gì? Từ đó, ngươi cha lộng hành rồi trở thành “Gia Trưởng”, có toàn quyền sanh sát - bắt vợ con phải tuân theo ý mình bằng không sẽ bị giết; bị đem đi bán cũng như lập nhiều thê thiếp mà không dám cãi…! Khổng Nho dạy con người trở thành “ngu trung” – trung thành một cách mù quáng – mọi sự phản kháng đều bị ghép tội.

- Đối Với Vua Chúa, Quan Trường:
Khổng giáo với tham nhũng:
Trung Quốc tụt hậu so với Phương Tây nhiều năm về - chính trị, giáo dục, công nghệ, kinh tế, quân sự - cũng vì cố bám theo Khổng Nho. Do đó các học giả Trung Quốc sau nầy đã nhận thấy nguyên do tai hại của sự tụt hậu và mạnh dạn từ bỏ. Khổng Nho có liên quan trong vấn đề “tham nhũng, gia đình trị”. Lý do là dạy con người chỉ biết nghe theo một chiều, chỉ chấp nhận hiện tại - cho dù có chịu cảnh túng thiếu nghèo đói; cho dù chịu ngu dốt; cho dù bị đàn áp; cho dù bị ly hương... - mà không hề dám nhìn về tương lai, không dám phản kháng để mặc cho bọn tham quan cấu kết, lộng hành… Hiện nay căn nguyên đó vẫn đang còn ảnh hưởng.

Nhìn Chung:
Khổng Nho xây dựng hệ thống tư tưởng dựa theo vòng quanh chữ “Nhân” để đề ra phạm trù đạo đức: “Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, nhằm áp đặt niềm tin tuyệt đối, có thể nói là “bắt buộc”. Bắt buộc bách tính tuyệt đối trung thành với Vua Chúa - cho dù vua chúa, sai phạm, hủ bại thậm chí làm mất nước vẫn u mê trung thành mà không dám hé răng phản ứng, đối chất… Sự áp đặt đó đã làm thui chột trí tuệ, làm mất đi sự sáng tạo, khai phóng canh tân trong mọi lãnh vực của đời sống, từ: kinh tế, khoa học, chính trị, xã hội, giáo dục, nghệ thuật - đồng thời làm mất hết nhuệ khí, nghị lực của tuổi trẻ. Tệ hơn nữa là làm cho người dân tê liệt sự phản kháng, sự phê phán cái xấu của kẻ độc ác, độc tài.

Thật ra những phạm trù đạo đức Khổng Nho đề ra chỉ là gom lại các mối liên hệ nhân bản tự thân đã có sẵn trong tâm lòng ở mỗi con người; cũng như các hình thái đối nhân xử thế giữa người với người; với chòm xóm láng giềng. Mối liên hệ nhân bản tự thân chính là lẽ sống tràn đầy yêu thương đã có từ lâu - đã có từ rất lâu, trước khi Khổng Nho xuất hiện. Nhân ái, nhân bản luôn luôn có sẵn trong mối giao hảo trước khi “Chữ Nhân” ra đời.

Chữ nhân “chữ viết” ra đời chỉ là để hoàn thiện, để làm sáng tỏ ý nghĩa “Hàn Lâm Văn Chương” hầu truyền lại cho các thế hệ sinh sau bằng văn bản, chương hồi... Chữ Nhân () gồm bộ thủ nhân (), và bộ nhị (). Hai “bộ thủ” hợp chung lại thành một chữ Hội Ý. Vậy “chữ nhân” có nghĩa là đại diện diễn tả làm sáng danh phẩm chất đạo đức trong quan hệ trực tiếp giữa người với người bằng hai bộ chữ nhân lồng ghép vào với nhau. Nghĩa là: “hiển nhiên” có hai người là hình thành ở trong một nhóm; hình thành một gia đình. Từ đó khởi sự cho một hình thái xã hội quần thể. Chữ Nhân chính là cách sống nhân bản, nhân ái đối xử trong tình thương yêu, san sẻ đùm bọc. Con người khi tượng hình từ trong bào thai thì “nhân” đã có từ đó rồi, chứ không phải đợi cho tới khi có (chữ nhân) mới biết rằng có nhân.

Tóm Lại:
Chẳng thà không biết gì hết, còn hơn là biết mà biết toàn chuyện sai lầm. Tư tưởng sai lầm sẽ gây ra sự đau khổ cho quê hương, đất nước và cho nhiều thế hệ con cháu. Thậm chí cho toàn nhân loại... Nguy hiểm hơn là làm tay sai cho giặc dẫn tới mất tổ quốc, làm nô lệ cho ngoại bang. “Chủ thuyết sẽ mất đi nhưng dân tộc thì trường tồn”. Ở vào thời buổi công kỹ nghệ mà quốc gia nào còn đeo bám Khổng Nho làm kim chỉ nam cho giáo dục là dẫn đất nước đi thụt lùi về mọi mặt.

Trong bài viết nầy không đề cập tới chuyện “Đúng, Sai”. Sự thật vẫn là sự thật, sự thật không phải dùng để chỉ trích - (người nầy sai, kẻ kia đúng). Nhưng, phải thấu hiểu sự thật thật sâu xa bằng với các sự việc “khác nhau”; ở trong một sự kiện khác nhau; ở trong một thời điểm khác nhau; ở trong một chủ thuyết ngoại lai du nhập sai lầm. Nhận thức bằng cách tự đặt lại vấn đề, tự vấn lại lương tri hầu làm sáng tỏ... Từ đó, đừng hùa theo số đông nhằm “phong thánh” cho một ai đó, cho một chủ thuyết không tưởng mà bị mắc lừa. ./.

Trang Y Hạ.
(Trần Phước Hân)
Viết tại San Francisco, 2009.