Bao
năm bôn ba nơi đất khách để làm người viễn xứ. Bỏ
lại sau lưng biết bao kỷ niệm. Người xưa, cảnh củ
vẫn còn đó nhưng phải đành cất bước tha phương.
Nhưng oái oăm.
Thời
gian nó thật khắc nghiệt. Bấy nhiêu năm ly hương để
khi ngoảnh đầu nhìn lại cũng phải đành chấp nhận sự
được mất.
“Đêm yên lặng,
ngoài trời sương rất lạnh thân ly hương dây
rún cắt thuở nào mở cửa sổ nhìn
ra ngoài ảo não chờ bao lâu mới
thấy ánh trăng sao”. (Trang
Y Hạ)
Đêm
tỉnh giấc lòng cảm thấy bàng hoàng như vừa mới hôm
qua. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài lòng càng thêm ảo não. Màn
trời đêm vẫn u ám như những năm tháng tù tội sao nó
vẫn bám víu trong lòng hoài chưa dứt.
“cho thằng nằm lại
đây trên núi cao thơ mầy viết mười
năm tù rên siết cái U sắt cùm người
trai đất Việt đày mười năm không
biết tội tình chi”. (Trang
Y Hạ)
Ký
ức cũ
lại ùa về cùng làn sương lạnh buốt. Mười năm lao lý
thật vô nghĩa. Cái U sắt cùm mười năm đời trai trẻ
để rồi kẻ mất người còn. Bài thơ mày viết sau mười
năm tù khổ ải bây giờ còn lại gì đây chỉ là mái
tóc đã ngã màu sương gió hay chỉ còn lại nắm xương
tàn lạnh lẽo trên ngọn núi cao.
“tao cũng như mầy
từ năm ấy ra đi mà đâu biết tra
chân vào lao lý cuộc chiến đấu
qua phần tư thế kỷ để bây chừ –
vứt tuổi trẻ lên non”. (Trang
Y Hạ)
Thời
trai trẻ với biết bao lý tưởng sống. Tao cũng như mầy
từ năm ấy ra đi cũng đâu nghĩ sẽ vấn thân vào cuộc
chiến. Để rồi thời cuộc đã lấy đi mấy mươi năm
tuổi trẻ lúc nào không hay biết. Đêm tĩnh lặng nằm
nghe thằng bạn nó ngâm thơ. Lời thơ của nó sao mà chua
chát và cay đắng quá. Có lẽ nếm trải quá nhiều trái
đắng của thời cuộc nên vị giác của của nó mất đi
sự ngọt ngào của cuộc sống chăng.
“giọng mầy ngâm
mà lòng tao héo hon ngâm như khóc đoạn
đời tù cay đắng ngâm cho tan những
ước mơ thầm lặng ngâm cho thằng nằm
hận giữa “Trường Sơn”. (Trang
Y Hạ)
Giọng
ngâm thơ của nó như than khóc đến ngẹn lòng làm người
nghe cũng thấy héo hon. Mười năm uất ức trong kiếp tù
đày là bấy nhiêu năm cay đắng nó phải nếm trải. Bao
nhiêu mơ ước, lý tưởng sống tốt đẹp cũng đành vứt
bỏ hết ở chốn non cao. Hận cho cuộc đời đen đủi
hay hận cho cuộc chiến lắm đau thương nên phải chôn
vùi tuổi trẻ dưới lớp đất sâu nơi dãi Trường Sơn
lạnh giá.
“đêm yên lặng tao
càng đau đớn hơn bão quá khứ dội
về cay đôi mắt giọng Miền Nam,
mầy ngâm nghe khàn đặc mà sao hay đến đứt
ruột, đứt gan”. (Trang
Y Hạ)
Khi
màn đêm bao trùm cả không gian. Không khí tĩnh lặng đến
rợn người thì quá khứ đau lòng lại ùa về làm cay xè
cả đôi mắt. Giọng ngâm thơ khàn đặc của thằng bạn
miền Nam, thằng bạn tù năm ấy nghe như muốn đứt ruột
đứt gan. Bao nhiêu năm gặp lại ngồi ôn chuyện xưa cũ
sao lòng cảm thấy đau thắt từng cơn.
“tao cũng như mầy
ôm nỗi sầu chứa chan ly rượu đắng
không xóa đi tủi nhục nghe mầy ngâm mà
lòng tao thôi thúc gặp anh em – sờ…
lại vết thương đau”. (Trang
Y Hạ)
Nhấp
vài ly rượu đắng sau mấy năm gặp lại. Có lẽ rượu
vào lời ra cho nên bấy nhiêu chuyện tủi nhục năm cũ
lại được tái hiện về làm lòng thêm đau nhói. Giọng
ngâm thơ của nó sau vài ly rượu sao nghe đắng cả lòng.
Bao nhiêu năm gặp lại cứ nghĩ sẽ có nhiều chuyện vui
thời 4.0 để kể nhưng không dè khơi gợi lại vết
thương lòng năm cũ
càng làm thêm rớm máu. Giọng ngâm thơ của nó không còn
sang sảng, ướt át như hồi còn trai trẻ nữa mà nó đã
khàn đặc vì cát bụi thời gian. Mái tóc đen láy của nó
thuở nào giờ cũng đã ngã màu sương gió. Rít điếu
thuốc lào cho lòng thêm ấm áp nhưng sao thấy đau thắt ở
lồng ngực. Có lẽ do giọng ngâm thơ buồn thảm của nó
chăng hay do cơn gió Trường Sơn thổi về kéo theo những
oan hờn làm đau buốt vết thương xưa.
“giọng mầy ngâm
thấm ngọn tóc ngả màu gió “Trường Sơn”
– hồn ai về thưởng thức điếu thuốc lào
rít thắt đau lồng ngực nhả oan hờn cuồn
cuộn giữa non xanh.”. (Trang
Y Hạ)
Bài
thơ “Đêm Nằm Nghe Thằng Bạn Tù Ngâm Thơ” của nhà
thơ Trang Y Hạ ẩn chứa rất nhiều cảm xúc. Bài thơ là
lời bộc bạch về đoạn đời cay đắng, tủi nhục nơi
lao lý của người trong cuộc thật cảm động. Cám ơn
anh Nghệ sĩ Minh Tri
Bui đã chia sẻ qua
video ngâm thơ bài
“Đêm Nằm Nghe Thằng Bạn Tù Ngâm Thơ” rất hay và cảm
động. Cám ơn nhà thơ Trang Y Hạ đã cho ra tác phẩm thơ
rất hay. Chúc anh Nghệ
sĩ Ngâm Thơ, Minh Tri Bui (CLB Tiếng Thơ Người Việt Xa
Quê) cùng Nhà
thơ Trang Y Hạ sức khỏe. Ngày mới an lành, nhiều niềm
vui và hạnh phúc nhé.
Đêm
yên lặng, ngoài trời sương rất lạnh thân
ly hương dây rún cắt thuở nào mở
cửa sổ nhìn ra ngoài ảo não chờ
bao lâu mới thấy ánh trăng sao
cho
thằng nằm lại đây trên núi cao thơ
mầy viết mười năm tù rên siết cái
U sắt cùm người trai đất Việt đày
mười năm không biết tội tình chi
tao
cũng như mầy từ năm ấy ra đi mà
đâu biết tra chân vào lao lý cuộc
chiến đấu qua phần tư thế kỷ để
bây chừ – vứt tuổi trẻ lên non
giọng
mầy ngâm mà lòng tao héo hon ngâm
như khóc đoạn đời tù cay đắng ngâm
cho tan những ước mơ thầm lặng ngâm
cho thằng nằm hận giữa “Trường Sơn”
đêm
yên lặng tao càng đau đớn hơn bão
quá khứ dội về cay đôi mắt giọng
Miền Nam, mầy ngâm nghe khàn đặc mà
sao hay đến đứt ruột, đứt gan
tao
cũng như mầy ôm nỗi sầu chứa chan ly
rượu đắng không xóa đi tủi nhục nghe
mầy ngâm mà lòng tao thôi thúc gặp
anh em – sờ… lại vết thương đau
giọng
mầy ngâm thấm ngọn tóc ngả màu gió
“Trường Sơn” – hồn ai về thưởng thức điếu
thuốc lào rít thắt đau lồng ngực nhả
oan hờn cuồn cuộn giữa non xanh.
Trang
Y Hạ
Trong
"The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George
Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói: -
"Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra
trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh
tái diễn lịch sử".
Chở
bậu vượt trùng-dương tầm Nước Vệ diện-kiến người vẽ sử
đã bao năm sạn đạo gập, gập-ghình
có-có trễ trăng mấy mồng may kịp
ngắm trăng rằm.
Người đời tụng
Kinh-Kha công hiển-hách Tần-Thủy-Hoàng đâu chỉ
mỗi một ông giết không đặng tiếng
vang xa mấy phách số dân đen, tựa cá chậu
chim lồng.
Kinh-đô Vệ tầm
Kinh Kha không thấy đồn-đồn rằng ông ấy
đã vượt biên Nước Yên có tự-do chạy
qua đấy Bậu và tôi trót lạnh-cẳng qua miền.
Kinh Kha gặp Kha Tiệm
Ly kết bạn ngày nối đêm đờn ca
hát vui chơi thân nhược tiểu, thân
ly hương chán-nản vục đầu vô hồ trường
lãng quên đời.
Người Du Hiệp Điền
Quang lòng độ lượng dẫn Kinh Kha tiến cử
Thái Tử Đan chút hy-vọng từ đây tìm
ra hướng môn khách nhờ ăn ở đỡ
cơ-hàn.
Đan Thái Tử bạn
xưa cùng Doanh Chính * Chính lên ngôi trở mặt
chẳng hỏi han cuộc cờ thế nghĩ mưu
sâu lừa phỉnh Tần tóm thâu, ép tiểu
quốc quy-hàng.
Kế thích khách,
Kinh Kha xin ra trận đầu Ư-Kỳ, phản Tần
sẽ đem dâng * chủy-thủ giấu trong bản
đồ dự sẵn Tần Vũ Dương theo
yểm-trợ ân cần *
Dao chủy thủ độc
dược ngâm ủ kỹ bày tiệc sang đưa tiễn
vui càng vui Đan Thái Tử lặng im nhìn
tráng-sĩ rượu kê môi, đắc ý
chẳng ngậm-ngùi.
Người Du-Hiệp
Điền-Quang ngồi tựa đá mặt trầm-tư chìm vô cõi
mông-lung vài canh nữa sầu dâng tràn tấc dạ Hiệp-Sĩ đi thích-khách
đã anh hùng.
Người bạn hữu
Kha Tiệm Ly lẳng-lặng chẳng một lời ngầm
tiễn-biệt Kinh Kha chuông chùa xé màn sương
khuya văng-vẳng lá rơi hiên lạnh cóng
xác trăng tà.
Men chếnh-choáng,
bóng giai-nhân lởn-vởn Kinh Kha ngồi cầm bút nhả
câu thơ * thân sấu-nhược dấn
thân vô việc lớn Dịch-Thủy trông biên-ải
Triệu mây mờ.
Đêm khuya khoắc tiệt tàn giai-nhân ngủ tiếng
đờn câm tiếng sóng dội tê tâm Dịch-Thủy bến xóm thuyền sương ấp-ủ mái
dầm đưa có tiếc đã đưa lầm.
Uống đi Cụ, đừng
trầm-tư thêm mệt nghe nói rằng - cụ giỏi
vô phải không đã giỏi võ - cớ chi
đành chịu chết chết dưới tay bạo chúa
quả hận lòng.
Cụ có biết anh
hùng Phạm Hồng Thái * đã đánh bom Sa-Điện, giết giặc Tây Châu-Giang sóng cuốn thân
lưu danh mãi Hoàng Hoa Cương nấm mộ
khói nhang bày.
Kinh-Kha cụ
thở dài, nghe tôi kể môn-khách là - lệ thuộc
có khác đâu ông chủ khiến đi mần,
thì không thể đã ăn nhờ ở đậu phải
lụy hầu.
Ta ái ngại, bởi
người đời ca tụng rất tự hào Phạm Hồng
Thái xứ ngươi thân ty-nạn chẳng qua nhờ
ân-sủng văn không hay võ nghệ múa
gây cười.
Bậu nghe thấy ông
Kinh Kha tự thán có hiểu ra sự thật với
lời đồn đã mấy bận theo tôi bậu
có chán trong cuộc cờ, biết ai
dại ai khôn.
Tôi chở bậu quay
về nơi đất Mỹ Nước Vệ chừ hòa vô
cõi hư-vô đời tỵ-nạn đất ruộng
đâu có hỉ nai lưng mần chai cứng bước lộ-đồ.
Trang
Y Hạ
(Trích trong thi phẩm)
Chú-thích:
*- Doanh Chính tức là Tần
Thủy Hoàng sau nầy. *- Kinh Kha người nước
Vệ, ông qua nước Yên và kết bạn với Kha Tiệm Ly, sau
được Điền Quang giới thiệu làm môn khách cho Thái Tử
Đan nước Yên. *- Tần Vũ Dương đi theo
yểm trợ cho Kinh Kha *- Phàn Ư Kỳ, tướng
thất sủng của Tần Thủy Hoàng trốn qua nước Yên làm
môn khách cho Thái Tử Đan. Ông tự cắt đầu để Kinh
Kha dâng vua Tần cùng với tấm bản đồ nước Yên để
cho vua Tần tin mà cho Kinh Kha diện kiến. *- Thơ của Kinh Kha: “Phong tiêu tiêu hề,
Dịch thủy hàn Trang sĩ nhất khứ
hề, bất phục phản”. Trang Y Hạ Tạm dịch: (Gió gợn hiu hiu sông
Dịch lạnh Đã đi tráng sĩ chẳng mong về). *- Phạm Hồng Thái trong
phong trào Đông Du đã đánh bom Sa Điện hầu giết Toàn
quyền Đông Dương Pháp Merlin, ngày 19.6.1924.
LỜI
GIÓ MƯA
Viết
Sử Viết Sự Thật
"Thời
Đông Châu Liệt Quốc bên Tàu có bốn
anh em viết sử là: (Thôi
Bá, Thôi Trọng, Thôi Thúc và Thôi Quý).
Họ đã
để lại sự
tích
cho đời nhau về giá trị của một nhà viết sử.
Nguyên
do:
"Quan
đại phu nước Tề là Thôi Trữ lộng quyền giết vua Tề
Trang Công, ông ta muốn che giấu sự thật tội giết vua với hậu thế
nên ra lịnh cho quân Thái sử Thôi Bá viết vào sách sử
rằng "Tề Trang Công vốn do bị bệnh sốt rét lâu ngày mà
chết". Thôi Bá không nghe theo lời, và nhất quyết viết
"Ngày ất hợi, tháng năm, mùa hạ, quan đại phu Thôi
Trữ lộng quyền đã giết vua". Thôi Trữ nổi giận
rút gươm ra giết chết Thôi Bá. Người em kế là Thôi Trọng
lên thay, Thôi Trọng vẫn viết "Ngày ất hợi, tháng
năm, mùa hạ, quan đại phu Thôi Trữ lộng quyền giết
vua". Thôi Trữ giận dữ giết luôn Thôi Trọng. Người
em kể là Thôi Thúc lên thay cũng viết đúng sự thật y
như hai người anh đã viết và cũng bị Thôi Trữ giết luôn. Người
cuối cùng là Thôi Quý lên thay cũng viết đúng sự thật
mà ba người anh đã viết. Thôi Trữ cầm trang sử lên
đọc và rất ngạc nhiên nên hỏi: "Ba người anh của
nhà ngươi đều vì câu viết nầy mà bi ta giết chết. Vậy lẽ
nào nhà ngươi lại không tiếc mạng sống của mình hay sao?
Nếu như ngươi sửa câu này theo đúng ý của ta, ta sẽ
tha chết cho".
Thôi Quý thản nhiên trả lời: Người
ta có thể giết chết người viết sử, nhưng người ta không thể
giết chết được sự thật. Chép đúng sự thật là chức
phận thiêng liêng của người làm sử, nếu trái chức phận, trái với sự thật mà ham sống
thì chẳng thà chết còn hơn".
Thôi
Trữ nghe vậy, đành không giết Thôi Quý nữa. Và cuối
cùng là cả dòng họ Thôi Trữ bị tru di... Vợ chồng
Thôi Trữ tự sát. Người con út là Thôi Minh ban đêm lén đào hố vội vã vùi
xác cha mẹ rồi trốn sang nước Lỗ.".
UỐNG RƯỢU VỚI CỤ
LÊ LAI (Khai
Bút
Đầu
Năm
Âm
Lịch) Giáp-Thìn
rồng cónôn-nao, Đầu
xuân khai-bútcồn
cào ruột
gan.
Tôi
cõng bậu du-du
vùng Mường-Một * áp
ngực đầy,ápsátbậu thích
không lưng chai cứng chẳng-chẳng nghe nhồn nhột dễ mấy khi được cõng
chạy băng đồng.
Bậu
thử
nhớ xứ
Lương-Giang,xứ
nọ * Lũng-Nhai-Thề, lời thề
vọng chưa tan * gót quân giặc giày-giày ngàn mộ tổ rừng Lam-Sơn cây đứng,
thẳng-thẳng hàng.
Tôi
cõng bậu lần dò
người năm trước cụ Lê-Lai hẹn cụ bấy
lâu nay hậu sinh nhớ soi-soi dòng
sử lịch kẻ hậu sinh đâu-đâu
biết mặt mày.
Hồ-trường
rót, rót tri âm tri-kỷ kết vong-niên suy ngẫm
vận thiên-cơ menthơmbốc giục
hồn ông Kỷ-Tín * người cõi xưa chìm
trong cõi xa mờ.
Bậu
xớ-rớ
chuốc rượu giùm, rượu ấm ấm tình xuân thù-tạc
đấng tiền-nhân kế-sáchgiữ nước
non đanghiểurõ chuyện thắng thua tự cổ
đã xoay-vần.
Thân
nátbấyngàn
gươm đao hằn
học có sá chi, mai vàng ửng non cao hai
mươi mốt,ơn
Lê Lai ghi nhớ * chiến-địa
đau
xót từng giọt máu đào.
Mộng
xâm lấn có
khi nào chấm dứt bóng giặc quen ẩn hiện
ở quanh đây lớp hậu-bối ai thế-thân
cứu chúa hào-kiệt ơi, vực dậy
nước non này.
Cảm
ơn Cụ
chiêm-bao cho diện-kiến Xuân mới tinh, khổ sở
cũ chưa thuyên sông trăm nhánh nhẹ dòng
dong ra bể hột phù-sa nặng hột
lắng mọi miền.
Tôi cõng bậu trở
về nơi lưu lạc nhìn mặt nhau, nhìn giông
giống hình nhân người năm cũ năm nay đều
ngơ ngác nén nhang thơm vái tiên tổ
ân cần.
Tôi
cõng bậu trở về nơi hiện tại đối-diện đây mỗi đứa
ngụ phương xa ngày
tư tết ngóng
chân mây cố-thổ ngày hối đêm bông tuyết
rụng la đà.
Trang
Y Hạ
Chú Thích: * - Mường Một, nơi
Lê-Lợi và quân sĩ thua trận. * - Huyện Lương-Giang, nơi
sinh của Lê Lai. * - “Hội Thề Lũng
Nhai”. Thề cùng nhau đánh quân Minh. *
- Kỷ Tín,võ tướngcủa Lưu Bang. Lưu Bang
bị bao vây ở thành Huỳnh Dương. Kỷ Tín giả làm Lưu
Bang lừa Hạng Vũ nên Lưu Bang thoát chết.
*
- Lúc
sắp chết, Lê
Lợi
dặn
phải
giỗ Lê Lai trước. Lê
Lợi mất Ngày
22/8/1433. Do
đó dân gian mới có câu “Hăm mốt Lê Lai, Hăm hai Lê
Lợi”.
Trong
"The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George
Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói: -
"Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra
trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh
tái diễn lịch sử".
Mới
đó mới đây vậy mà đã năm năm kể từ ngày về thăm
mẹ lần trước. Ở tuổi già mà còn mẹ thì có gì quý
hóa
cho bằng. Thương biết bao những đứa trẻ mới chào đời
đã không nhìn thấy mặt mẹ hoặc vừa mới lớn lên đã
bị mồ côi bởi
chiến tranh bởi
bệnh tật,
nghèo đói... Suy ra, trời đất cũng không hoàn hảo chút
nào. Lần
về thăm mẹ lần trước vợ chồng tôi cũng phải chi
tiêu dè xẻn bỏ ống heo mấy năm trời mới có "số
vốn" kha khá! Kha khá có nghĩa là liệu cơm gắp mắm
chứ có phải đại
phú
đâu mà về quê làm "việt kiều yêu nước" áo
mão xênh xang tiền
hô hậu ủng, “pháo nổ" rầm trời...! Muốn về vào
tháng tết thì vé máy bay quá cao mua
không nổi.Tôi
nhờ
con gái mua giùm, mua trước năm
tháng thì giá rẻ hơn nhưng khổ nỗi cứ trông chờ từng
ngày không khác gì án treo ở trên đầu, trên cổ. Về
quê thăm viếng chẳng lẽ đi tay không, cũng
phải có chút ít quà. Bởi có thời gian nên
vợ chồng tôi chờ những ngày cuối tuần, ngày lễ lớn
hàng hóa giảm giá hoặc đợi ngày thứ
ba hằng tuần giảm
thuế cho người
giàthì
vợ chồng tôi dắt nhau đi mua. Góp gió thành bão...! - Về
thăm bà nội kỳ nầy cha mẹ thích đi hãng hàng không nào
nói cho con biết để con mua trên máy điện
thoại cho
nhanh? Hay là tiếp tục đi hãng Eva như lần trước?
Đứa
con gái của tôi gợi ý như vậy. Tôi nói:
-
Thôi
các con ơi. Cha
mẹ không muốn đi hãng Eva nữa đâu! Kỳ nầy cha mẹ
muốn đi qua “Nam
Hàn
” con chọn cho cha mẹ đi cái hãng nào cũng được miễn
là đến Nam
Hàn
thì tốt.
-
Nam
Hàn
chỉ có hãng "Asiana" nhưng qua đó cha mẹ phải
"transfer" đợi đến sáu bảy tiếng đồng hồ
mới có máy bay về Việt Nam. Lâu lắm! Hơn nữa về đến
Sài Gòn (Tp/HCM)
đã
mười một
giờ đêm. Khuya
khoắc
như
vậy bà con đi đón cũng mệt mỏi, phiền phức!
Mấy
đứa con gái trình bày như vậy.
Tôi
ngồi im lặng suy nghĩ một lúc rồi nói:
-
Nhưng...
cha mẹ muốn
ghé
qua Nam
Hàn
lần nầy với
mục đích là lúc
quay trở về Mỹ
sẽ
xin đi theo
đoàn du lịchdo
hãng Asiana tổ
chức để
ngắm
Seoul và
tiện thể
ghé
thăm anh chị "sui" luôn thể.
Tôi
nghe đứa con gái lớn quay lại nói thì thầm với hai đứa
em của nó, mà tôi nghe loáng
thoáng:
-
“Không
biết cha bị... cái gì rồi đó? Ba chị em mình... còn
đang đi học mà cha nói - có sui bên Nam
Hàn
nghĩa
là
sao?”.
Đứa
con gái lớn quay lại nói:
-
Chúng
con chưa có chồng mà cha! Ai là sui gia ở bên bển vậy?
Tôi nói:
-
Các con sống
ở Mỹ lâu quá bị "bưng bít thông tin" hết ráo
thành ra chẳng hiểu mô tê chi! Bên quê nhà báo “Thanh
Niên - Tuổi Trẻ" cho biết: “Nhà nước gả qua Nam
Hàn, Đài Loan hàng nghìn nghìn cô dâu…”. Vậy cha dù là
người Mỹ gốc Việt cũng coi như là sui gia với bên đàng
trai (Nam Hàn, Đài Loan) rồi thì là cái gì?
Đứa
con gái tôi lắc đầu cười:
-
Cha
là thi sĩ nên sức tưởng tượng quả là phong phú thật
đó!
Chúng con biết tỏng ý cha rồi,
cha thèm ăn kim chi, thèm
sâm
và thèm
uống
rượu "Soju" chính gốc bên Nam
Hàn
cho nên muốn sang bên đó ăn thử, uống thử thì
có.Vậy
mà còn bày chuyện
thăm sui với gia!
Tôi
cười vang, rồi
nói:
-
Đúng
là không ai hiểu cha bằng con gái, nhưng chỉ đúng có một
phần thôi. Cảm ơn các con!
Đứa
con gái tôi nó nói tiếp:
-
Cha
xuống phi trường "Incheon" vào mùa đông lạnh
ngắt, ngồi co ro mấy tiếng đồng hồ chán chết...!
Tôi
cười và nói với mấy đứa con gái rằng:
-
Các
con ở Mỹ lại bị "bưng bít thông tin" nữa
rồi...! Cha nghe mấy ông bạn của cha đã từng đi qua Nam
Hàn
cho
biết
sân bay incheon (nhân xuyên) lớn nhất Nam
Hàn,
đứng
hàngthứ
năm
trên
thế
giới, cung
cách phục vụ cũng đứng đầu thế giới. Sân bay cách
khá
xa thủ
đô Seoul. Tại sân bay có nhiều nhà hàng khách sạn, phòng
nghỉ; nhiều
gian hàng với hàng hóa đa dạng, có sòng bạc cho những
ai thích trò chơi đỏ đen, có sân golf, có
thư viện, có
khu công viên vui chơi giải trí, khu ăn uống rộng lớn.
Khu mua sắm miễn
thuế với
đầy đủ các loại hàng hóa
cao
cấp.
Một bảo tàng văn họcNam
Hàn...
Nghe nói mà ham. Từ
San Francisco ngồi mười mấy
tiếng đồng hồ mới đến phi trường incheon, chưatới
tám
giờ sáng (giờ Nam
Hàn).
Bánh máy bay vừa chạm xuống đường băng tôi
mở cửa sổ nhìn ra bên ngoài thấy tuyết trắng xóa,
tuyết được cào ra hai bên đường băng chạy dài trông
như những con sóng. Sau khi làm thủ tục quá cảnh nhanh
chóng, chúng
tôi tìm cái số cổng chờ chuyến bay bay về Việt Nam để
ngồi nghỉ chân. Đúng như lời bạn tôi nói. Sân bay rộng
lớn như
sân bay quốc tế San Francisco, các khu vực phục vụ hành
khách thật tuyệt vời nhất là khách quốc tế quá cảnh
rất đông. Tất cả các khu - vui chơi ăn uống mua sắm
đều rộng rãi, sạch sẽ! Chúng tôi ăn một tô bún "Kim
chi" với giá chín đô la. Nói chung tất cả hàng hóa
kể cả rượu... hầu như đều bằng giá như ở San
Francisco. Chúng
tôi để ý,... nhưng không thấy cô gái bán hàng hay nhân
viên phục vụ tại phi trường là "cô dâu" người
Việtlấy
chồng người Nam Hàn.
Họ ở đâu, ở
nơi
nào trên đất nước
“Đại
Hàn Dân Quốc”
lạnh lẽo nầy?
Trước
giờ chờ lên máy bay về Sai Gòn (Tp/HCM)
chúng
tôi mới thấy một người phụ nữ người
Việt ngồi ôm đứa con gái khoảng ba tuổi. Đứa bé gái
nói tiếng Việt bập
bẹ với
mẹ, đôi khi chen lẫn tiếng Nam
Hàn.
Vợ chồng tôi lân la làm quen và được cô
gáicho
biết cô là
người ở
Hải
Dương. Hai
mươi sáu tuổi lấy chồng Nam
Hàn.
Chúng tôi không dám hỏi han về đời sống của các
cô gái người Việt "làm dâu" ở xứ Nam
Hàn
như cô,
chúng tôi sợ bị xúc phạm, sợ
làm tổn
thương đến hoàn cảnh của họ
cho dù là lấy chồng ngoại với bất kỳ lý do nào cũng
làm cho những người ở trong trường hợp như cô
thêm tủi thân. Chúng tôi chỉ nói về thân phận ly hương
của chúng tôi...! Dần dần cô
gái
cũng hòa nhập và tự nói ra những điều u ẩn của lòng
mình. Cô
nói: - "Hầu
hết những cô dâu Việt như chúng con đều xuất thân từ
vùng nông thôn Miền Nam, một số ít Miền Bắc. Trình
độ học vấn
thấp lại không có nghề nghiệp trong tay cũng như ngoại
ngữ, trong
người chỉ
có chút nhan sắc và tuổi trẻ. Hàn Quốc hay Đài Loan -
những quốc gia nầy là những "con hổ, con
rồng"
đang
vươn lên, nền kinh
tế đang trên đà phát triển rất
mạnh.
Những người con gái Việt như chúng con kết hôn với
những người đàn ông nước ngoài phần
nhiều trong sốhọcũng
đã hơi
luống tuổi, không có trình độ học vấn cao.Và
cũng phần
nhiều
sống
ở
nông thôn, hoặc những người tàn tật không có tiền để
cưới vợ! Chính những cô gái nghèo
đói và
thất học như chúng con là một thứ "hàng hóa"
rẻ nhứt,
rất vừa với
túi
tiền của họ, chỉ
có một số ít cô
gái có
được sự may mắn đã
gặp được người chồng có học lại
ở trong
thành
phố, vàđược
gia
đình chồng thương yêu.
Thân
gái dặm trường bơ vơ như chúng con lúc nào cũng nhớ
cha mẹ, nhớ
anh
chị em, nhớ quê hương nhiều lắm. Cố
gắng nhín
nhịn chút tiền gửi về nhà trong những ngày đầu mới
lấy chồng (ngoài
số tiền cọc của đàng trai đưa
trước khi cưới).
Sau khi sinh con và vật lộn với cuộc sống nên gửi
tiền về gia đình cha mẹ cũngkhông
nhiều, và
năm ba năm mới về thăm một lần... Khổ
nghèo và thất học thì
có con đường nào khác hơn
nữa đâu
để cho chúng con lựa chọn. Dù sao chúng con cũng tự
nguyện mà!". Cô
ấy nói một hơi và ngưng lại khi đứa con gái "lí
nhí" một câu tiếng Nam
Hàn...
Hình như đòi uống nước.
Tôi
thấy vợtôi
ẵm đứa con gái, (cháu
nó
không sợ người lạ).
Tôi
lại
thấy vợ tôi móc
bao “lì xì” ấn vào tay “đứa cháu ngoại ngang
hồng”của
bà. Cô
gái lễ
phép cúi
đầu cảm ơn (sau
nầy vợ tôi cho biết là bà
lì-xì cho cháu một
trăm đô-la).
Tôi
hiểu tâm trạng của
vợ
tôi,
vợtôi
ôm
đứa
bé
vào lòng như ôm
cháu ngoại của
chính
mình dù
rằng
chưa
có cháu ngoại, dù
gì
thì cháu bé vẫn códòng
máu Việt Nam chảy trong tim từ
mẹ của nó.
Một
nỗi buồn mênh mông xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi quay qua
hướng khác mà đôi mắt có
mờ mờ, ngân
ngấn
trong đôi kiếng lão.
Vợ chồng tôi có ba người con gái, chưa "cô" nào
chịu lấy chồng cứ
mãi lo học, lo làm.
Ngồi nơi sân bay "Incheon" nầy mà cứ ngỡ mình
là "sui gia của
bên
đàng gái nghèo khổ bị sui da bên đàng trai giàu có làm
ngơ chẳng ân cần đón tiếp"!
Không
đón tiếp bởi
không môn đăng hộ đối.Mộtchainước
lọc cũng
không thì
có thì
mong
chi
được
đãi sâm thượng hạng hay mời ăn kim chi uống rượu
Soju.
Tôi
nghĩ quê hương Việt Nam nơi
đó
có: "rừng
vàng, biển bạc" vàngười
phụ nữ Việt Nam thời chiến tranh chống Mỹ được vinh
hạnh có tám chữ vàng: "Anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"! Vậy mà tại
sao hàng nghìn người con gái của
họ
sau chiến tranh phải"sống
làm
vợ khắp người ta"?
Từ:
Nam Hàn, Đài Loan, Trung Quốc, Nga… Lớp
con cháu
đáng
lẽ ra phải được hưởng “vinh
quang, độc
lập tự do hạnh phúc”từ
chiến của ông bà, cha mẹ đã tiêu diệt đế quốc Mỹ
gian ác xâm lược đất đai biển đảo Việt Nam. Vậy thì
hà
cớ
chi thế hệ con cháu của
họ sau
nầy phải
mang một "sứ mạng" quá nặng nề
làđi
lấy
chồng ngoại quốc để đem
tiền về đền
đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của ông
bà, cha
mẹ? Có phải đây là một cái lý do quá “hàm hồ” để
đẩy hàng nghìn những người con gái còn quá ngây thơ
vào con đường hôn nhân có tính cách mua bán. Mua
bán
bất chấp tình yêu,bất
chấp thuần phong mỹ tục, bất
chấp danh dự của một quốc gia dân tộc. Họ, (ngoại
nhân) lột
trần truồng các cô
gái
ra trước ống kính và những người ngoại nhân (chồng)
săm soi gái
trẻ
như
lựa cá. Những đồng tiền gửi về cho cha mẹ xây nhà,
chữa bịnh, đã
đánh
đổi bằng nước mắt, bằng sự nhục nhã - thậm chí
bằng máu vớinhững
cái chết
tức tưởi bị
người chồng đánh mà không một ai đứng ra chịu trách
nhiệm.
Hoặc sống dở, chết dở trong các động mại dâm trá
hình mà
báo chí, xã hội từng lên tiếng. Tại
sao?Tại
sao
lại là con gái mới đền ơn dưỡng dục cho
cha
mẹ? Vậy thì
con trai ở đâu? Bộ con trai không phải là
con
hay
sao?
Tại
sao
con
trai không
làm lụng giúp đỡ cha mẹ mà trút hết
trách
nhiệm lên
con gái? Hỏi vậy cũng hay. Lớp
thanh niên “dũng
sĩ diệt mỹ”sau
chiến tranh, một
số còn sống sót
trở
về nhà
trở
lại cầm
cày cầm cuốc thì
nay
cũng đã già, hơn
nữa chữ nghĩa không có cho
dù trên ngực đeo đầy huân chương,
huy
chương cũng không nuôi nổi gia đình. Chưa nói bệnh hoạn
thương tật, với số tiền trợ cấp hằng tháng thử hỏi
có đủ nuôi
sống
bản
thân hay
không?
Như vậy, con trai hay con gái của
họ sau
chiến tranh cũng đều
khổ
và
không nhìn thấy tương lai.
Những
người con trai sinh
sau thời
chiến tranh tìm
mọi cách chạy ra nước ngoài làm thuê kiếm từng đồng
gửi về cho gia đình gọi
là “xuất khẩu lao động”.
Họ muốn được "xuất khẩu lao động" thì
phải cầm cố
nhà
đất cho ngân hàng hay chạy vạy vay mượn khắp nơi để
đóng cho “cơ quan môi giới”... Nhưng một
khi đã ký “hợp đồng” thì cũng như cá mắc câu. Ở
nước ngoài công việc làm chưa chắc đã ổn định. Tay
nghề trí
óc không
có, chỉ làm bằng lao
động
tay chân, phập phồng lo sợ bị đuổi việc!
Và
nếu có việc làm thì đồng lương cũng bị khấu
trừ
để trả nợ ngân hàng, số
tiền dưcũng
không bao nhiêu.
Tuy
nhiên, buồn hơn nữa là cách dùng chữ “xuất khẩu lao
động”, nghĩa là giá trị con người ngang bằng với
hàng hóa đem đi bán ra nước ngoài. Thực chất là đi
làm
thuê, đi
làm
mướn hoặc đi ở đợ cho người ngoại quốc. Tất nhiên
những công việc đó toàn là công việc - dơ
bẩn, nặng nhọc, nguy hiểm mà người ở các quốc gia
giàu có
sợ ảnh hưởng tới sức khỏe của họ, nên
họ không làm.
Lần
quay trở về Mỹ,
vợ chồng tôi ghi danh đi theo
đoàn du lịch do hãng phi cơ sắp xếp đithăm
thủ đô Đại Hàn Dân Quốc.
Từ sân bay Incheon lên xe bus chạy thẳng đến Seoul. Mùa
đông nhìn ra hai bên đường rừng cây trụi lá. Thời
gian cho một chuyến thăm chỉ có hơn
vài
giờ do
đó
chủ yếu đi vào các trung tâm mua sắm... Vợ chồng tôi
để ý nhưng không gặp một "cô dâu" Việt nào.
Trong lòng rất mong muốn gặp đồng hương nơi xứ người
để nói tiếng Việt cho thoải mái, nhưng
thất vọng! Seoul
với kiến trúc tân kỳ, tráng lệ và sạch sẽ, không
thấy treo khẩu hiệu đánh Mỹ, đánh Nhật hay tung hô
lãnh tụ.
Hệ thống giao thông công cộng hoàn
hảo không
khác gì ở San Francisco. Trở
lại sân bay Incheon,
tôi nhìn đồng hồ còn khoảnghơn
hai
giờ mới đến chuyến bay đi về
San
Francisco. Rất may vợ chồng tôi gặp một người thanh
niên người
Việt.
Anh
ta cho biết hiện ở tiểu
bang
Colorado, qua Mỹ lúc còn nhỏ. Anh
ta về quê cưới vợ và
giới thiệu cô vợ người Huế còn trẻ, lần đầu đi
xa nên trông cô ấy có vẻ buồn... buồn…!
Anh
ta nói tiếng Nam
Hàn
rất sỏi,
ngược lại tiếng Việt thì
nói
lọng
ngọng. Vậy là bốn chúng tôi kết thành một đoàn đi
chơi vòng vòng trong khu mua sắm, khu ăn uống và khu vui
chơi giải trí trong phi
trường.
Anh
ta tự nhiên trở thành người thông dịch tiếng Nam
Hàn
miễn phí cho chúng
tôi. Người
thanhniên
nói:
-
Mấy
cô gái Nam
Hàn
chỉ đẹp ở trên phim, chứ ngoài đời thường thì
không
đẹp bằng gái Việt Nam.
Tôi
nói:
-
Cháu
dựa vào “tiêu chí”
nào để so sánh? Người
thanh niên
nói:
-
Con thường
xuyên theo công ty công tác ở Nam Hàn nhiều lần nên con
biết. Gái Hàn "mắt một mí" và kém yểu điệu
thục nữ như gái Việt Nam ở nông thôn. Tôi hỏi
nhỏ:
-
Vậy
cô vợ… của
cháu, cũng ở nông thôn chứ gì?
Tôi
không ngờ anh
ta hãnh diện khoe:
-Thưa
bác, Cha
mẹ cô
ấy người Huế nhưng vào Nam sau ngày "giải phóng
miền
Nam".
Gia
đình hiện
ở
Bạc Liêu, cô
mần
ruộng với cha mẹ. Gia đình cô ấy là gia đình "cách
mạng".
Cha cô ấy là bộ
đội
chống Mỹ cứu nước, nay
đã nghỉ hưu!
Tôi
nói:
-
Vậy
cha cháu…? Tôi
bỏ lửng câu nói:
Thật
nhanh nhẹn anh
ta nói:
-
Cha
cháu….! Cha
cháu
là “sĩ quan ngụy
bán
nước cho Mỹ Đế để lấy một bó đô la tiêu xài”
(cười).
Ông di
tản trước
ngày ba mươi tháng tư năm một nghìn chín trăm bảy mươi
lăm.
Vậy
còn bác thì sao? Tôi nói:
-
Bácở
lại,
hồ
hởi phấn khởiđi
tù
sung sướng lắm
(cười).Đi
tù hay
còn gọi
là "học
tập cải tạo” nhiều
năm.
Người
thanh niênquay
nhìn tôi sững sờ! Và...
muốn nói gì
đó…?Nhưng
tôi cười và nói tiếp:
-
Ngụy
hay Chân, cũng như bàn tay lật
qua, lật lại.
Thời gian là câu trả lời vì
đó là lịch sử. Chẳng phải bây giờ cha cháu và ông
già vợ “diệt
Mỹ” của
cháu
đã là “sui
gia” với
nhaurồi
còn
gì...
Bất
hạnh của dân tộc đã dẫn đến tương tàn bởi
“chủ thuyết ngoại lai”.
Người lính cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận lúc
nào họ cũng phải
tuân
phục mệnh lệnh của
cấp
trên. Người
lính
bị đẩy ra chiến trường chỉ
là một
con
tốt trên bàn cờ chính
trị và tham vọng.
Ai ở miền nào thì phải chấp hành mệnh lệnh theo vùng
đó. Bất
hạnh của dân tộc đã dẫn đến tương tàn bởi
“chủ thuyết ngoại lai”.
Người lính cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận lúc
nào họ cũng phải
tuân
phục mệnh lệnh của
cấp
trên. Người
lính
bị đẩy ra chiến trường chỉ
là một
con
tốt trên bàn cờ chính
trị và tham vọng.
Ai ở miền nào thì phải chấp hành mệnh lệnh theo vùng
đó. Người
thanh niên vẻ mặt buồn buồn, nói: -
Con
hiểu tấm lòng của bác cũng như cha con. Cha con cũng hay
nói với con rằng, hãy
về thăm quê hương cho
biết (quê hương miền Nam, một thời có tự do mọi thứ;có
tư hữu ruộng đất…).Chúng
ta không thích chế độ độc tài, nhưng người dân và
đất nước vẫn tồn tại mãi mãi... Nhà
cầm
quyền thì nay còn mai mất. Dân
Tộc
Việt Nam thì
không
bao giờ mất.
-
Uống
một ly "Soju" với cháu được chứ bác? - Tốt
thôi, Tôi
cười, nói: -
Uống
một ly "Soju" với cháu được chứ bác? - Tốt
thôi, Tôi
cười, nói: -
Bác
thích hai món “Soju
và kim chi” của người Hàn. Hai món nầy họ đã xuất
cảng ra nước ngoài và thế giới rất ưa chuộng. Ở San
Francisco bác hay đi vào phố người
Nam Hàn
để ăn món kim chi và uống rượu Soju
nhưng giá đắt hơn ở đây. (Thật
ra thì rượu Soju cũng giống như rượu đế Việt Nam
nhưng nhẹ độ cồn hơn, mùi vị thơm ngon ít nồng cay
nên dễ uống. Rượu Soju có nhiều loại… Hơn nữa là
trên thân chai rượu họa sĩ trang trí hình ảnh rất nghệ
thuật và đẹp mắt). Chúng
tôi ngồi ăn uống và nhìn những chiếc xe cào dọn
tuyết
trên phi
đạo. Tuyết
vẫn rơi…! Tôi nói vui: -
Phải
chăng rừng
núiNam
Hàn quá
lạnh, cho nên bắc Hàn không
thể thành lập “Mặt Trận Giải PhóngNam
Hàn”? Đo
đó mà đành
chịu cảnh chia đôi đất nước lâu dài và bị - hai
mươi bảy nghìn quân của “Đế
quốc Mỹ xâm lược”
cho
tớihôm
nay
mà
đành thúc thủ không cách chi “giải phóng” cho được.
Rõ
ràng là “Mỹ Đế đang xâm lược Nam Hàn” lâu dài phải
không cháu trai…? Người
thanh niênnhìn
tôi cười, nói: -
Bác
chắc là thi sĩ…? Bác tưởng tượng hay thiệt đó! Tôi
cười và
nói tiếp: -
Nhưng
dù gì thì
họ cũng đã
là
anh hùng. Phía
Bắc Hàn
tự
hào có vũ khí nguyên tử… Họ
thường xuyên hăm dọa làm cho “Đế Quốc Mỹ
khiếp sợ”! Còn Nam Hàn tự hào là con hổ, con
rồng
Châu Á với nền kinh tế đứng hàng thứ mười trên thế
giới. Những tập đoàn xe hơi, điện tử nổi tiếng khắp
năm châu, như:
Hyundai Heavy Industries, Samsung Heavy Industries, Kia Automotive
Group, Deawoo, LG...
Họ chế được phi cơ trực thăng, phi cơ phản lực, xe
tăng, đại bác, hỏa tiễn, phi
thuyền, vệ tinh… Ngành
đóng tàu thủy của họ đứng hàng thứ tư thế giới.
Đó là chưa kể các món ăn uống cũng như các loại sâm
nổi tiếng. Kể không bao giờ hết các
sản
phẩm của họ. Người
thanh quay sang nói: -
Thưa
bác. Con nghe cha con nói ngày xưa miền Nam (dù là chiến
tranh do Bắc Việt khởi xướng) nhưng nền kinh tế vẫn
đứng đầu một số quốc gia ở Đông Nam
Á.
Đã chế ra xe hơi La
Dalat,
viện nguyên tử ở
Dà Lạt và
các khu kỹ nghệ... Nam Hàn lúc đó còn nghèo khổ, thanh
niên phải đi làm thuê ở các nước... Ông Lý Quang Diệu
Thủ tướng Singapore
còn nói “Sai Gòn là hòn ngọc viễn đông” phải
không bác? Tôi
trả lời: -
Cha của con
nói đúng đó. Chiếc xe La Dalat ra đời ở miền Nam, thì
lúc đó gia đình Huyndai còn đang làm ruộng. Người
thanh niên nhìn tôi rồi nói: -
Thưa bác. Con
đi công tác cho công ty tới Nam Hàn nhiều lần. Con thích
món lẩu thập cẩm của họ. Món lẩu thập cẩm đó của
người Nam Hàn dù người giàu sang hay người nghèo họ
đều thích ăn như nhau, ngồi ăn bình đẳng như nhau -
nhứt là giới trẻ lại càng thích ăn hơn nữa. Trong cái
lẩu thập cẩm đó có thịt bò Nam Hàn, kim chi, các loại
rau cải, nấm… Đặc biệt là có thịt heo đóng hộp
“Spam” của Hoa Kỳ. Món thịt hộp Spam rất rẻ tiền
nhưng là lại món ăn phổ thông không những ở Mỹ mà là
toàn thế giới từ mấy thế kỷ trước cho tới nay. Sở
dĩ người Đại Hàn Dân Quốc đưa thịt heo đóng hộp
của Mỹ vào món lẩu của họ là họ tưởng nhớ trong
thời gian chiến tranh với cọng sản Bắc Hàn, chính phủ
Mỹ đã cứu sống người dân Nam Hàn bằng thực phẩm đồ
hộp, có cái tên Spam. Tôi
nghe người thanh niên kể, tôi chợt nhớ có vài ba lần
cùng con gái đi ăn lẩu Nam Hàn ở Khu Sunset San Francisco và
có thấy thịt heo đóng hộp spam xắt nhỏ hình vuông ở
trong lẩu. Như vậy người Nam Hàn biết ơn người Mỹ
cũng như người Nhựt biết ơn người Mỹ đã cứu giúp
đất nước của họ và họ không bao giờ quên cái ơn
đó. Và tôi cũng nhớ câu nói của ông Lý Quang Diệu, ông
nói rằng “Kẻ nào đánh Mỹ là ngu”. Về
đến phi
trường
San Francisco, ba
đứa con gái ra đón, và hỏi kháy: -
Cha
có gặp “cô dâu” Việt
nào
ở
Nam Hàn
không vậy
hử
cha...?
Tôi
cười, trả lời: -
Có
gặp
mà...!
Cha mẹ có gặp một cô dâu lấy chồng Hàn tại sân bay
Incheon. Vòng trở về Hoa Kỳ cũng tại sân bay Incheon có
gặp một “cô dâu” lấy chồng người Mỹ
gốc Việt. -
Lấy
chồng người Mỹ
gốc Việt
có gì phải đáng nói đâu cha?
Con
gái tôi trả
lời. Tôi
trả lời rằng: -
Đáng
nói lắm chứ! Bởi cô dâu nầy là con của một ông
“bộ
đội diệt Mỹ cứu nước”(cười).
Cô
ấy lấy
con trai của người “cựu sĩ quan ngụy bán
nước”
(cười).
Hai “cô dâu” nầy đều lấy chồng ngoại quốc nhưng ý
nghĩa là hoàn toàn khác nhau. Mấy
đứa con gái của tôi cười, nói; - Chúng
con cũng là “concủa
sĩ
quan ngụy” của
cha nè”
(cười).
Nếu
cha thích sau khi tốt nghiệp chúng con sẽ lấy chồng là
con trai
của
mấy ông Việt
cộng. Mấy ông Việt
cộng ngày nay đã
tiến lên “xã hội chủ nghĩa” nên họ
giàu có
lắm.
Con cái của họ qua Mỹ
học hành và
mua nhà ở Mỹ.
Trong
số họ khi
học xong phần nhiều
không muốn về nước. Họ
ở lại mua nhà, mua xe lấy chồng, lấy vợ. Đất nước
Việt Nam “xã hội chủ nghĩa” sung sướng vậy mà ai
cũng thích bỏ nước ra đi là tại sao vậy...? Việt
kiều làm sao mà bì kịp sự giàu có của các ông Việt
cộng phải không nà? Chúng
ta ra đi định cư tỵ
nạn với
hai bàn tay trắng thì làm sao có thể so bì
sự
giàu có của mấy ông Việt Cộngđây? Con
gái tôi lái xe chạy thẳng tới phố người
Nam Hàn.
Tôi
ngạc nhiên hỏi: -
Sao
con chạy vô phố Nam
Hàn
làm chi vậy hử? Cha
quên rồi sao? -
Hôm
nay là ngày sinh nhật của cha. Chúng con muốn đãi cho cha
ăn món thịt bò nướng
của Nam
Hàn,
món
lẩu Nam Hàn
và uống rượu Soju, ngon
bá chấy bò chét.
Chúng
con cũng uống nữa! Tôi
hỏi: -
Vậy
thì
ai
lái xe? -
Cha
khỏi phải lo, con đã chuẩn bị đâu vào đấy rồi. Như
vậy là tôi
được tiếp tục được uống rượu Soju! Cảm
ơn các con của
tôi! Đất
nước Đại Hàn Dân Quốc hóa rồng là bởi:
Họ
không căm
thù
người Nhật, không
căm thù người
Mỹ. Họ
không dựng “bia căm thù” căm
thù người Nhật, người Mỹ.
Họ
không
dạy học sinh của họ “lòng căm thù” người
Nhật,
người
Mỹ.
Họ
không tốn
tiền của cũng
như không
thí nhân
mạng người
dân của
họ để
đi
“Giải
phóng Bắc Hàn” người
anh em đồng bào của họ. Ngược
lại,họ
lấy sách giáo khoa của người Nhật đem về dạy cho học
sinh của
họ
(trừ hai
môn: địa
lý và lịch sử). Truyền hình hằng ngày họ
chỉ
dạy người
dân làm
kinh tế và học
làm
người. Họ cho hàng nghìn sinh viên qua Mỹ học làm phim
ảnh,
để rồi trở
về sản
xuấtra
những
bộ phim lịch
sử,
tình cảm mang đầy tính nhân bản
với giàn
ca sĩ, diễn viên xinh đẹp làm say mê hàng triệu người
trên thế giới. Say mê đến nỗi một số giới trẻ tại
Việt
Nam
“hãnh diện” cúi
mặt xuống
hôn
lên cái ghế ngồi của
“Sao
Hàn”
- thần tượng mà
họ yêu
thích khi
họ qua
trình
diễn tại Việt Nam.
Như
vậy là
đã
quá
đủ để
nói
lên sự thành công về mọi
mặt
của xứ kim chi. Một
chuyến đi để nhìn thấy sự thật của một đất nước
Nam
Hàn sau
chiến tranh tan hoang nay đã vươn lên mạnh mẽ. Và
để
biết sự trỗi dậy của một dân tộc với trách
nhiệm, với lòng
tự
trọng, với tinh thần yêu
nước nồng nàn đã làm cho cả thế giới phảicúi
đầu khâm
phục. Tổng
thống Đại Hàn Dân
Quốc, ông
(Park
Chung Hee),chỉ
cần mười tám năm [18]
ông
đã
biến xứ sở Đại
Hàn
Dân
Quốc
- một xứ sở nghèo đói sau
chiến tranh đã trở
nên
giàu
có, và đã cho việc làm ra
cả
thế giới thay vì phải đi làm thuê nhục nhã như ngày
xưahoặc
đi xin viện trợ của các quốc gia khác để sống. Chính
tổng thống Park Chung Hee trong một chuyến viếng thăm nước
Đức, người lao động Nam Hàn ra đón ông. Ông nhìn họ
và nói “Tôi sẽ đưa các bạn trở về nước. Đại Hàn
Dân Quốc chúng ta sẽ cho việc làm ra thế giới…”. Và
ông đã giữ đúng lời hứa. Người
Hàn có hàng
triệu người định cư ở Hoa Kỳ. Họ gắn bó với quê
hương của họ, Họ
gắn bó làbởi
đất
nước quê hương
có tự do mọi mặt… Bởi có
một chính quyền trong sạch do chính lá phiếu người dân
bầu chọn và chính quyền của họ luôn luôn đặt tổ
quốc lên trên mọi quyền lợi cá nhân, đảng
phái.
Và
hơn nữa là chính
quyền biết
lo cho dân bằng việc làm thiết thực chứ không dùng lời
nói
“sáo
ngữ”
dối trá để
lừa gạt, thậm chí cướp đoạt đất ruộng tài sản
của đồng bào cũng
như đàn áp tự do ngôn luận. Tôi
không ca ngợi cho đất nước Nam Hàn không công. Bằng
chứng là người Việt Nam hiện giờ có hàng trăm nghìn
ngườiđang
làm thuê ở
đợ cho
người
“Nam
Hàn”; có
hàng trăm nghìn cô gái Việt lấy
chồng người
“Nam
Hàn”. Ngược lại có hàng trăm nghìn người “Nam Hàn”
lại là những ông chủ giàu có của các đạicông
ty hiện
diện khắp
Việt Nam. Nam
Hàn họ còn tài
trợ xây
cầu tặng không
cho
người dân Việt Nam.
Tôi
thương
cho người Việt Nam làm thuê trên đất Nam Hàn, đồng
thời cũng làm thuê ngay trên quê hương Việt Nam cho người
Nam Hàn. Tôi
là người Việt dù
mang
quốc tịch Mỹ. Tôi vẫn
cảm
thấy
xấu hổ, xấu hổ cho quê hương mà tôi đã sống một
thời trong tự do, no
ấm cho dù
là chiến tranh.