Thư viện

Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ tình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ tình. Hiển thị tất cả bài đăng

11/8/25

ĐIỆN THOẠI

 



ĐIỆN THOẠI

     Trùng lâu thuý vũ nhân hà tại,
     Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.
                                    (Lê Thánh Tông) [1]

Mở “phôn” ra, anh sẽ thấy em ngồi
sồ-sề chứ, không “gầy” như thơ tả
anh biền-biệt, trốn ở đâu vậy hả
mở phôn ra, là đã thấy em rồi.

Em bây chừ: (tóc, mắt, mũi, cằm, môi)
còn nguyên đó, nhưng thật là không phải
em cố đợi, đợi khi anh trở lại
sợ nhan tàn, đành mượn thuật “trụ-nhan”. [2]

Có đôi khi nhờ ((dao, kéo) tân trang
chỉnh “mâm pháo”, sửa suối đồi làm dáng
bước ỏng-ẹo, giả nai cho lãng-mạn
nơi phương trời, anh có nhận ra chăng.

Mấy chục năm, chính-chiến bỏ đất cằn
anh mất sạch, với em thì chưa mất
luôn bám víu, phao cảnh đời gian thật
thêu bức tranh “thiếu-nữ” mộng anh về.

Có bao đêm, dựa trăng bày tỉ-tê
bậc thềm vắng, dế kêu càng thêm vắng
chó gầm-gừ, lòng bồi hồi lo-lắng
sủa bóng người hay là sủa bóng ma.

Mở phôn ra, mong hãy mở phôn ra
anh cứ gọi, số nào em cũng bắt
anh cứ gọi, hàn ôn thời xa lắc
đã bên nhau, trên khắp cả địa-danh.

Bài thơ tình ướt-át cạn tuổi xanh
đừng cố nặn vét thêm chi mất sức
em vẫn sống hai cảnh đời mộng thực
để tìm nguồn an-ủi đỡ tàn phai.

Dù hom-hem, tuyết rụng thấm hai vai
cầm phôn lên, mở ra hơi tỏa nóng
em vẩn ngóng và đêm đêm vẫn ngóng
điện-thoại reo, chắc chắn của anh rồi.

Trang Y Hạ

Cước Chú:
1- (Lầu cao gác biếc còn người ở đâu,
Chỉ thấy núi hoang nắng chiều vương lại.)
2- “Trụ nhan”, Theo Hán Tự - nghĩa là kiềm giữ dung mạo không để cho già. Thuật trụ nhan (Thiên Long Bát Bộ) là thuật dưỡng nhan đặc biệt của phái Tiêu Dao, có thể khiến người trăm tuổi, trẻ lại như đôi mươi. Trường hợp này có Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thủy, đã tám mươi tám [88] tuổi nhưng trông như bốn mươi [40], rất tiếc thuật Trụ Nhan đã thất truyền.

Lời Gió Mưa:
    Mỵ Châu - người con gái của Thục phán An Dương Vương. Cô công chúa quá thật thà đã trao nỏ thần cho “người yêu” Trọng Thủy - con trai của Triệu Đà. Triệu Đà vốn đã có ý đồ chiếm lấy Âu Lạc. Nay được nỏ thần, Triệu Đà xua quân vây thành Cổ Loa và thành Cổ Loa thất thủ.
     Biết trúng mưu hèn kế bẩn của giặc. Thục phán An Dương Vương vội vã nhảy lên ngựa, đem theo công chúa Mỵ Châu chạy ra ra biển trốn.
Về phía Mỵ Châu, cô vẫn còn hy vọng Trọng Thủy sẽ chung tình và đi tìm nên cô lấy lông ngỗng giấu từ trong túi áo rải dọc đường làm mật hiệu.
     An Dương Vương chạy đến bờ biển, đức vua quỳ xuống khẩn cầu sự giúp đỡ của thần Kim Quy. Thần Kim Quy hiện lên, phán rằng: "Người ngồi ở sau lưng ngài chính là giặc đó".
     Có thể nói Trong Thủy chính là “gián điệp” do Triệu Đà cài đặt. Vua An Dương Vương mất cảnh giác. Vậy, (giặc ngoại xâm không đáng sợ bằng giặc nội xâm). Từ bài học lịch sử đau thương của Vua Thục Phán An Dương Vương mà hơn bốn ngàn năm qua các triều đại Đại Việt vẫn luôn luôn đề phòng phương Bắc. Trong đền thờ vua Lý ở Nam Định có đề bốn chữ “BẮC MÔN TỎA THƯỢC”.
     Lịch sử “khẳng định”, kẻ thù truyền kiếp ngàn đời của Việt Nam chính là phương Bắc. Họ chẳng phải là “Anh em , đồng chí”.
                                                     Trần Phước Hân (St).



19/2/25

PHONG HỎA ĐÀI

 



PHONG HỎA ĐÀI

Chào-mào mời nắng sưởi thân
nắng phân-vân nắng tần-ngần nắng đi
mắt đua gái gọi xuân thì
buồng tâm nhóm lửa Tây-Thi hoàn hồn.

Thèm tình, nổi máu du-côn
nhắn-tin tới tấp, đêm bồn-chồn ai
điện-thoại rung, - tiếng thở dài
E-va, di-tản đầu thai đâu rồi.

Nắng thêu tranh nắng một thôi
thoảng phơn-phớt mặt đượm mùi hương nhu
chờ thiên-đình, tặng cánh dù
hẹn về chỗ hẹn gom thu dỗ dành.

Vườn hoang, rủ phủ rêu xanh
cổ thụ, kỷ-niệm trĩu cành khoe bông
ao trong, chuồn bướm tồng-ngồng
nắng xiên nghịch-ngợm con công ngẩng đầu.

Phong-Hỏa-Đài, trụi từ lâu
tiếng cười khuynh quốc, lụa nhàu uổng thay
tiếc chưa, diện-kiến giải bày
hồng-nhan-họa-thủy, tai bay cũng đành. *

Nóng gay-gắt bốc thơ nhanh
nhắn tin, điện thoại thêm hành hạ nhau
thơ tình ế-ẩm phai màu
nhi-bất-ngữ, giấu vết đau không lời. *

Điêu-Thuyền gãy gánh đôi nơi
suy vi nhà Hán, ông trời hết thương
phương-thiên-họa-kích, cùng đường
tam phân xé-xác vẽ chương sử sầu.

Chiêu-Quân (lạc nhạn) khác đâu *
nửa đêm len lén lên lầu ngóng quê
cố hương mây chắn lối về
oán thanh tái đạo, vọng tê tái lòng. *

Một ngồi với ngọn né-on
tường đen hắc bóng thân mòng biển trơ *
gió nôn nao sóng tìm bờ
gửi đôi xuân thiếp đơn sơ tặng người. *

Trang Y Hạ

Cước chú:
* “Hồng Nan Họa Thủy” là câu thành ngữ chỉ về người đẹp làm nghiêng nước, nghiêng thành, gồm: (Muội-Hỉ. – Đát-Kỷ. – Bao-Tự. - Ly-Cơ).
* - “Nhi bất ngữ” (Im lặng không nói).
* -Tứ Đại Mỹ Nhân 四大美人 là bốn người đẹp nổi tiếng Trung Quốc, gồm: Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi. Sắc đẹp được mô tả: - Trầm ngư. - 沉鱼 = cá chìm sâu dưới nước. - Lạc nhạn; 落雁 = chim nhạn sa xuống đất. - Bế nguyệt; 閉月 = mặt trăng phải giấu mình. - Tu hoa; 羞花 = khiến hoa phải xấu hổ.
* - “Oán thanh tái đạo” – (tiếng oán than đầy đường).
* - Mòng biển là loài chim hải âu. Nữ văn sĩ Quỳnh-Dao có tác phẩm “Hải Âu Phi Xứ”, chuyển thành phim – do hai Minh tinh trẻ đẹp Chân Trân & Đặng Quang Vinh đóng.
* - Xuân thiếp = là câu đối.





5/10/24

CỔ ĐỘ

 



CỔ ĐỘ

Thời gian nặng lướt ngang mày rớt lại
hoàng hôn dìu dáng lá nhẹ đêm gieo
trăng mùa cuối trăn trở khung trời nhạt
gió thinh thinh đưa đẩy mấy cánh bèo.

Se xe sợi mây vàng đan tấm áo
phủ gót hài cúi mặt lướt sang sông
trăng cổ-độ dây dưa tình cổ-độ
đáy nước im giấu tâm sự chất chồng.

Lòng cứ tưởng, tưởng rằng: Trương-Quân-Thụy *
Bậu sẽ là thục nữ: Thôi-Oanh-Oanh
đêm trí trá đổi ngày ra tăm tối
trường đoạn đau rát mấy nhịp dã hành.

Choàng áo bả, cát âm vang nhân thế
tiếng thở dài trầm bổng dội hiên song
bên yên ngựa nghẹn ngào câu từ tạ
giọng bịp kêu tan-tác cả một dòng.

Thiên-lý dặm âm thanh nào cộng-hưởng
kim chỉ nào lành lặn tuổi thơ ngây
ai cách bế, ai chân tình chẳng lẽ
xuồng gập lưng vớt sóng nuốt tháng ngày.

Cây giầm gãy, nguyệt cầm thôi không gảy
nửa đời xanh, còn chi nữa phôi-pha
trăng cổ-độ ngóng thiên hà phổ-độ
cảm giai nhân thương chiếc bóng la đà.

Mưa cổ độ ấm lạnh thâm đôi mắt
nghiệp dĩ như thử thử phận giai nhân *
sinh hữu tự lai lai cơn gió thoảng *
có trách chi, nay Sở với mai Tần.

Bến-Giằng xé tâm can cô Công Chúa *
nắng Đồ-Bàn không sưởi ấm Mỹ-Sơn
giàn hỏa sử giữ trái tim nguyên vẹn
trượng phu đâu, để phận gái dỗi hờn.

Xuất-Tái-Khúc, thấm đẫm nơi hoang mạc *
Lạc-Nhạn ư, có hổ thẹn dung nhan
hồn-cố-quốc, nặng lòng ngoài quan-tái
sông một dòng chia sóng vỗ hai đàng.

Trăng cổ độ gió mây về bến vắng
Phách-Hồ-Già, chở lệ ngọc hư vô *
giãi bày nỗi, giải nghĩa niềm u-uẩn *
nhụy tàn bông đau xót bước lộ-đồ.

Trang Y Hạ .

Chú Thích:
* Trong “Tây Sương Ký”.
* “Nghiệm dĩ như thử”. (Nghiệp đã như vậy rồi).
* “Sinh hữu tự lai”. (Sinh có từ đâu mà đến).
* Công Chúa Huyền Trân. Bến Giằng ở Quảng Nam.
* Nàng Vương Chiêu Quân.
* Nàng Thái Diễm (Thái Văn Cơ).
* “Con người là sinh vật chính trị”. (Aristole).

     “Kẻ nào nói không quan tâm tới chính trị, loại chính trị ra khỏi văn thơ, ra khỏi đời sống xã hội kẻ đó chính là con cháu của Diêm Vương”. (Trang Y Hạ).





31/7/24

CHUYỆN CŨ


CHUYỆN CŨ


Hoa dĩ vãng bón xinh tươi
thắp đèn lên có bao người hiểu ra
dặm ngàn vó ngựa xông-pha
còn chăng giữ mảnh thân già mỉa-mai.

sự sinh, sinh sự sần tay
tóc râu tuyết vẽ hình hài lom khom
rừng than gỗ trốn đâu hòm
lửa vui hơ xác khói lam tặng trời.

giang-san hoành giáo đầu rơi
thủy-chung vét gói lỗ lời hiểu nhau
chân mây lổn-ngổn vàng thau
sóng ngầm rỉ-rả thân tàu đáy sâu.

tròn hoa giáp nghĩ nhứt đầu
mở trang sử nát thuẫn mâu biến hình
trăm ngàn lực-sĩ coi khinh
còng lưng làm ngựa giật mình mà chi.

ong thèm hương mật lầm-lỳ
bông thơm ngoảnh mặt bỏ đi không đành
run tay sờ mặt trăng thanh
nếp nhăn chằng-chịt dạo thành quách tan.

giáp mang nặng bỏ quy hàng
ôm cày cuốc nắng chang chang thui trời
cây khô núi sụt chơi vơi
chim đi quên tổ quên lời hỏi thăm.

đói no nứt-nẻ thân tằm
hỏi Chử-Đồng-Tử cát nằm vui chi
gặp thời đâu kể thị-phi
Bá-Nha ngước đợi Chung-Kỳ vọng âm.

gió đưa giọng Bậu thì thầm
ngọt lời suối ngọt xa-xăm dội về
tiên nương vốn đã ủ-ê
cõng mùa chinh-chiến bộn bề khổ thân.

tóc ôm bông tuyết ân-cần
phố xa gậy đỡ bước lần bước qua
vẽ ra chuyện cũ ấm nhà
lần trang sách vở nẻo xa hóa gần.

biết rằng vốn dĩ phù-vân
đêm nghe sóng vỗ cây bần mải-mê
đêm trăn-trở bước ai về
cây rơm ôn ấm tình quê xa vời.

Trang Y Hạ – 2008

Chú Thích:

*
Hoành giáo giang san cáp kỷ thu”. (Phạm Ngũ Lão).
*Lời của nhà văn (Lỗ Tấn).

Một nhà cầm quyền đốt sách, bỏ tù tác giả thì nhà cầm quyền đó có hô hào lập hội viết sách, in sách chẳng qua cũng chỉ để tuyên truyền mỵ dân chứ không phục vụ cho văn chương, xã hội chủ quyền quốc gia. Hơn nữa cố tình “phịa” ra thứ chữ quái đản, dị hợm viết đảo lộn mạo từ (cái, con) viết sai văn phạm để đưa tới cái chết ngôn ngữ mà từ lâu được tôn vinh là Quốc Ngữ” (Trần Phước Hân).

Đất nước bị diệt vong còn có thể phục hưng, văn hóa (chữ viết) bị tiêu huỷ thì tất cả bị tiêu diệt và nô lệ”. (Tổng Thống Đài Loan, Tưởng Giới Thạch).


Trang Y Hạ



 Những Chiến Binh Già


4/7/24

BẬU QUA

 



BẬU QUA

Bậu qua xế bóng nẻo lần
xơ-vơ xửng-vửng nét chân phương nào
xuân thì xịch-đụi thấp cao
giương-buồm sóng vỗ má đào mặn môi.

giương-cung thấp thoáng Thiên-Lôi
cắp lưỡi tầm sét dạo đồi cười vang
không hư trụ giữa địa-đàng
mắt giương tìm thuở hiên-ngang mỉm cười.

giương mắt ngó, ngó mắt đui
ai xướng nghĩa, ai nỡ vùi nghĩa-ân
trót sinh trót ẵm nợ-nần
chòi tranh lai vãng thiện chân vẽ đầy.

giương-dù ngăn bão bấy nay
lên cơn sặc-sụa đền đài bong rêu
quay thời gian giỡn cánh diều
tiếng cười Phù-Đổng lêu-nghêu giữa đồng.

lồm-cồm bờ ruộng bờ sông
bãi-buôi nước lớn, nước ròng bịp than
xuồng xưa bến cũ lỡ-làng
lần theo nắng, bước lang-thang vẽ giầm.

tàn cây khô giọt tuyền-lâm
lơ-ngơ chồi nứt giọt tầm-tã mơ
mây vui vẽ bóng hững-hờ
thú rừng khát nước ngẩn-ngơ hỏi rừng.

đã là nhân đứng suy hưng
nhân đi, nhân quả, quả từng hiểu qua
hoạt-nhân sống để vui là
cõi trần dự tiệc, thiết-tha lẽ thường.

ngậm-ngùi thử giở mấy chương
Bậu đi đi giữa phố phường ngổn-ngang
hai tay ôm gói điêu-tàn
mộng khuya, khuya bỏ đêm hoang trở mình.

nhớ rơm trâu dựa thinh-thinh
cày ôm góc chái khoe hình nhện giăng
lạ đâu mặt lũ ruồi lằn
xúm bâu cái xác khô cằn biết đi.

Thần-Hoàng ghẻ lở lầm-lỳ
long-lân-quy-phụng, biết chi để rầu
trống Đình dùi gác bao lâu
hỡi người đuổi mộng công hầu biết chăng.

hỡi người xác ấm mộ lăng
ngủ ngọn chớ để hồn trăn-trở hoài
tay thon sương-phụ loay-hoay
bật đèn soi tiếng thở dài thâu canh.

Phong-Châu giấc ngủ chẳng lành
chẻ đêm đối mảnh trăng thanh, nỗi nhà
an-bình mầm nẩy can qua
băng-tâm cố giữ san-hà bỏ thây.

Bậu qua bóng xế bấy chầy
theo mùa gió lộng vui ngày tái xuân
rượu thơm nâng chén chúc mừng
ruồi lằn tỏm-ngỏm vô bưng, biền.

Bậu qua thắp ngọn lửa thiêng
đội mồ các đấng tiên-hiền về chung
Khúc lưu sơn hết lạnh lùng
Quảng lăng khúc lạc tái rung cõi lòng.

Trang Y Hạ
Chú thích:
* Theo các bộ nhân (Hán Tự).
* Đất Phong nơi vua Văn Vương ở.
* Khúc Cao Sơn Lưu Thủy (Bá Nha Chung Tử Kỳ).
* Khúc Quảng Lăng Tán. (Một hôm Kê Khang tới chơi ở Lạc Tây, đêm xuống ngồi quán trọ gảy đàn. Có ông khách tự giới thiệu là người thời cổ rồi bàn âm luật. Ông khách lấy đàn khẩy rồi soạn Khúc Quảng Lăng Tán, tặng và dặn - không truyền cho người khác. Thời gian sau Kê Khang bị Tư Mã Chiêu giết chết. Khúc Quảng Lăng thất truyền.).

LỜI GIÓ MƯA:

Phép ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc màu rách nát. (Trần Phước Hân).

Văn sĩ người Nga - Aleksander Solzhenitsyn (1918 – 2008), tỵ nạn chính trị ở Hoa Kỳ, nói: Văn thơ không phả hơi thở của xã hội đường thời, không dám nói lên nỗi đau và sợ hãi của xã hội đó, không cảnh tỉnh kịp thời những mối nguy hiểm đe dọa đạo đức và xã hội - thứ văn chương đó không xứng đáng với cái tên của văn chương; nó chỉ có cái mã ngoài. Thứ văn chương đó đánh mất lòng tin của nhân dân, và những tác phẩm của nó được phát hành bị dùng như giấy lộn thay vì được đọc.”.

Văn sĩ Aleksander Solzhenitsyn, nói đúng. Dưới thời cộng sản Liên xô, Đông âu các tác giả dùng nội dung (văn, thơ) là để tuyên truyền, xài thứ chữ mới, thứ chữ cách mạng câu cú không dựa theo tự điển, cho dù sau khi sụp đổ không bị (quăng vô lò lửa), các tác phẩm đó cũng đã bị người dân vứt bỏ đi rồi. Chữ “giản thể” (Hán Ngữ) cắt đầu, bỏ đuôi khô khan khó hiểu có lẽ... giống như vậy. Chữ Việt viết loạn xạ ngữ pháp, câu cú chắc chẳng hơn gì.

(Quy ước ngôn ngữ vốn đã có từ lâu, phản đối, phản kháng lại ngôn ngữ Hàn Lâm mà quần chúng đã công nhận Quốc Ngữ, đó là một hành vi chính trị độc tài, sa đọa, giả dối và áp đặt.).
Một số tác giả ngày nay cố tình hay vô tình xài thứ chữ Việt quái đản, dị hợm đã góp phần làm rối rắm, dẫn tới - “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ”. Tựa bài văn của Tác giả: (Trịnh Thanh Thủy).

Hãy tự đặt vấn đề, cớ gì để kẻ khác xỏ mũi dẫn đi tới chân trời góc bể mà tưởng rằng chân lý”. (Trần Phước Hân).

Trang Y Hạ


15/4/24

QUÁN TRỌ

 



QUÁN TRỌ


Một chặp tối cổ thụ buông hạc lệ *
vọng tan sương gió lặng lá lim-dim
quán vắng ngắt biết cùng ai kể-lể
mắt đăm đăm diện-bích thử thử tìm.

cảm hơi Bậu trọ quán nầy từ trước
lạnh teo phòng thoang-thoảng ứ mùi hương
mùi thơm đọng phải chăng luồng mê dược
choáng hồn trai qua mấy kiếp lạc đường.

ngồi xuống cạnh mé giường du mộng tưởng
tiếng thở dài Bậu trút gởi cho ai
mắt nhắm mở hoài nghi tràn mấy hướng
ngọn đèn lay dồi dội tiếng u hoài.

lật đật ngó ngó qua khung cửa sổ
thược dược bông đối mặt nở nụ vui
hạc lệ hót vang rần không chịu vỗ
khúc mắc chi khan giọng rải bùi-ngùi.

thân phận khách lữ hành qua ngõ hẹp
quán trần đời nào đâu rõ ngay gian
sẽ vẽ Bậu bức truyền thần tuyệt đẹp
sẽ vẽ đời khờ khạo ngắm mơ-màng.

mưa gõ nhịp ngỡ rằng ai đó tắm
sạch bụi đời bám bụi tượng giai nhân
phòng trọ hẹp hòa hồn mơ say đắm
tiên thiên-đình trật bước rớt chỗ nằm.

quán trọ vọng cung đình ngân điệu nhạc
nhịp phách rung xô cạn hết mấy ly
Động Đình gió đẩy sóng thuyền man mác
Tây-Thi ơi, Nước Việt nghĩ suy gì.

ngã lưng thức chiêm bao gào bể não
Bậu cớ chi trầm-tích hóa lân tinh
lòng hồi hộp ngỡ ai cầm tay dạo
bước loanh quanh thì ra bóng với hình.

quán trọ đẹp trần gian đang hoan-hỉ
cô dâu từ đời thượng cổ chung vui
đèn hoa chúc kề tri-âm tri-kỷ
tràn mâm bày dĩ vãng thuở ngọt bùi.

đã, “phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh” *
tầm lại thời cõng Bậu thuở khai-sinh
mưa rỉ rả tỉ-tê thời kiêu hãnh
liếc qua gương chỉ thấy thấy một mình. *

Trang Y Hạ

Chú thích:
* - Lệ tiếng chim kêu. Hạc lệ là tiếng con chim hạt kêu. Mượn ý:
*- “Nhật mộ hương quan hà xứ thị.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. “Hoàng Hạc Lâu”. Thơ: của (Thôi Hiệu).
* - Bài thơ “Khóc Bằng Phi, Nguyên tác của Thi sĩ Nguyễn Gia Thiều: “Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng.
Khép manh áo lại để riêng hơi”.
Được Thi sĩ Trần Danh Án, đã chuyển qua Hán Văn:
Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh
Trùng phong, khâm tử hộ dư hương”.

* Thi sĩ nổi tiếng người Mỹ, gốc Anh T.S. Eliot (1888-1965) định nghĩa về thơ như sau:
Thơ không làm cho sự xúc động bớt đi nhưng làm thoát ra khỏi sự xúc động; thơ không diễn đạt cá tính riêng, nhưng làm thoát ra khỏi cá tính. Nhưng dĩ nhiên, chỉ những người có cá tính nhạy bén và sự xúc động hiểu thế nào là sự mong muốn thoát ra khỏi hai điều đó.”.














27/3/24

MỘT BUỔI SÁNG

 



MỘT BUỔI SÁNG

Một buổi sáng nắng chen nằm trong sách
rọi câu văn mở cửa ngắm chân trời
ông Bành-Tổ mơ-màng bên bàn-thạch
chén trà thơm bốc khói giỡn sương phơi.

ngó sách quý lần qua trang tỉnh ngủ
ngó phương đông biển lặng dậy ba đào
ngó phương bắc mây hờn đang bao phủ
ngó tây phương còn ấm một vì sao.

một buổi sáng giở thử trang đất Thục *
Lưu Bị ngồi nghiền-ngẫm cuốn binh-thư
Hào-Đình lửa cháy tan ra mấy khúc
Bạch Đế than thế “chân vạc” mỏi nhừ.

vòng tan hợp lời nguyền quay dai dẳng
tình gái trai tổ ấm nhỏ phôi-pha
tàn chinh-chiến tro tàn ai may-mắn
nấm mồ không quả phụ nước mắt nhòa.

một buổi sáng thương Nguyễn-Du hớt hãi
cõng Thúy Kiều hồng hộc tới Liêu-Dương
gặp Kim-Trọng trần tình lời phải trái
Kiều bán thân đã dồn tới cùng đường.

sương thấm sách cảm thương thân chị Dậu *
đất hai phương tình cảnh đậm sử thi
người phụ nữ kêu trời nào có thấu
ngồi ôm con nhìn thế sự lầm lỳ.

một buổi sáng bình-minh không rọi tới
đáy biển ôm xác thuyền gỗ chưa tan
người con gái mái tóc dài chưa rối
hồn trinh-nguyên, tuổi mộng gởi thiên-đàng.

dòng nước lớn kéo làn hương bông bưởi
tràn vô đồng thăm lại mảnh vườn xinh
nhớ bóng mẹ nhọc-nhằn khom lưng tưới
con lạch quen có còn giữ dáng hình.

một buổi sáng nắng chờn-vờn qua cửa
có lẽ nào đang sống hóa quỷ chăng
nơi cắt rốn đã mấy lần lần lữa
cảnh năm quê lòng cứ mãi dùng-giằng. *

chim cố hót kéo bình minh thêm tỏ
sưởi thế nhân khuôn mặt đỡ nhợt-nhòa
ngọn hy-vọng thương ngày còn lấp-ló
biển bây chừ chật hẹp giữa bao la.

Trang Y Hạ

*- Trích theo “Tam Quốc Chí”.
*- Chị Dậu là nhân vật chính trong tác phẩm Tắt Đèn của nhà văn Ngô Tất Tố (1893-1954). Chị Dậu có tên thật là Lê Thị Đào.

* “Thơ không làm cho sự xúc động bớt đi nhưng làm thoát ra khỏi sự xúc động; thơ không diễn đạt hết cá tính riêng, nhưng sẽ làm thoát ra khỏi cá tính. Dĩ nhiên, chỉ những người có cá tính và sự xúc động mới hiểu thế nào là sự mong muốn thoát ra khỏi cả hai điều đó.”. (Thi sĩ Mỹ, Eliot (1888-1965).


San Francisco

8/2/24

UỐNG RƯỢU VỚI NÀNG XUÂN

 



UỐNG RƯỢU VỚI NÀNG XUÂN

Chiều len lỏi - xúi - cạn chiều đau nhức
đông bỏ hàn đón gió ấm hỏi thăm
xuân mơn-mởn vẽ màu bông thơm nức *
vạn thọ vui lếch-thếch dựa chỗ nằm.

hứa Bậu đối ẩm xuân đất lạ
phạch tìm chim với bướm đã bay xa
thích ngắm Bậu hả họng cười vang cả
xóm vắng vui hoàng-hôn níu chiều tà.

Nói có sách, mách chưa hề hứa ảo
không minh-linh ẩn rau cải đầy sâu *
sợi tơ vẽ áo giai-nhân đi dạo
tôi tập làm vương-đế với công-hầu.

Văn thơ sách không thể là hư-bút *
tình bách-niên không thể gọi huyền-hư
trăng cảm nguyệt dung-nhan trồi trồi sụt
chạy theo tiên mấy chặp đã đứ đừ.

Vu-thành đứng thở dài gươm giáo mác
cỏ ủ bờ chiến-lũy thấm phôi-pha
lệ quả-phụ nghẽn dòng qua mấy thác
trời thấu đau sương lấp kín san hà.

Xuân đối bóng chĩnh không không ai rót
Ngu Cơ nhìn Hạng Võ mắt rưng rưng *
én lầm-lũi ngang trời ngậm miệng hót
khúc ly hương gảy gảy lạc mấy vùng.

Bậu phương đó đợi tôi ngùi sương phụ
đã tới rồi thôi đừng có bi ai
đất hoán chuyển hỏi chủ đâu là chủ
đành đứng yên gió quái quét ngang mày.

Đất lạ dế ngậm tăm lùm lau sậy
mưa dầm đêm chưa thấm ướt cỏ cây
bờ vai trống Bậu ghì tươi tắn lại
tội tình chi than-thở kiếp nhân nầy.

Nàng xuân ghé ôm mai vàng sân trước
ở phương người ao ước có được chưng
tết đáo để cho châu-thân lượm được
một chút già khô tủy chẳng đặng đừng.

Tôi đưa Bậu ngắm bông mây trắng bệch
nở bên kia biển ngọt Bậu thấy không
ở bên nầy hai ta cùng vẽ tết
của ngày xưa ấm áp, ấm mấy mồng.

Trang Y Hạ
Quận Rosemead, Los Angeles. Xuân 2024.

* - “Xuân quang minh mị” (Ánh sáng mùa xuân, sáng đẹp).
* - Theo Hán Tự, chữ “Minh” (bộ trùng) là con sâu đục thân cây lúa, hút hết nhựa trong thân cây lúa và cây lúa chết khô.
Minh-Linh là loài sâu ăn lá rau cải.
* - “Sưu sách khô tràng” (Gắng hết sức tìm bới trong suy nghĩ - vắt óc để suy nghĩ).
* - Nàng Ngu-Cơ, vợ Sở Bá Vương Hạng Võ. Bà tự tử khi bị quân Lưu Bang vây khốn.




19/12/23

CÂY CẦU

 



CÂY CẦU

Bão tháng tư quất vô người em đau.

Diên Bình đất màu mỡ mùa tươi tốt
sông Đắt-si cầu kết nghĩa qua thôn
mưa, nắng, gió, khói, sương sinh thổ sản
trời Đắt-Tô thương nhớ ngập cả hồn.

Em còn đứng, đứng trên cầu se sắt
dò mảnh tình trăng mười sáu với sông
anh khuất nẻo sao lung-linh vằng-vặc
thân chưa tu áo bạc áo nâu sồng.

Xưa hò hẹn giữa cầu nâng tuổi dậy
thì trong em nụ hôn cuộn chưa trôi
sông cạn kiệt sông tràn dâng từ ấy
một mình em ngắm dòng chảy bồi hồi.

Bến sông đó đã quen mùi giặt-giũ
chưa nghĩ rằng: sẽ bước, bước sang sông
mưa ướt tóc lạnh tê ai ấp ủ
nắng khô da ran rát tự hỏi lòng.

Chim gõ kiến gõ thân tre trỗi nhạc
em gõ đâu tìm lại mảnh tình chân
sương muối ướp, ướp hoài họng thêm khát
ngày ngó đêm ôm lạnh lẽo ân cần.

Chiếc cầu sập - anh ơi, cầu đã sập
anh có nghe - tiếng dội, dội phương xa
cầu vùi lấp nụ hôn đâu có lấp
còn trong em, trong ký ức chưa nhòa.

cầu cũ gãy nhịp tình yêu dịu vợi
dòng suối tiên róc-rách dỗ đêm thâu
lau lách khuất - đôi bờ - ngồi ngồi đợi
từ phương nao âm vọng tiếng còi tàu.

Đêm mờ ảo sao vèo qua trũng núi
cứ ngỡ là mấy vệt hỏa châu rơi
anh có hiểu có biết loài dế nhũi
dế là em ẩn hiện ở chân đồi.

Đêm yên ắng vẳng nghe tràng đại-bác
vọng inh tai nhức óc đó anh ơi
em mở máy ấm câu ca giọng hát
nốt nhạc ru, ru xa vắng một thời.

Có đôi lúc - đôi khi - sông thổ-lộ
đã cùng em san-sẻ nỗi sầu lây
sông thương cảm suốt một đời chở khổ
giữ nụ hôn chôn-chặt ở chốn nầy.

Anh hãy hẹn như xưa cùng em nhé
cho nhân gian bớt đàm tiếu xa gần
cho chim chóc kéo đàn ca vui vẻ
trong tâm hồn vốn đã có thiện chân.

Vùng đất trắng KonTum hòa đất đỏ
bóng đạn bom quanh quẩn ngọn cỏ cây
mùi áo trận lưu-luyến đêm vò-võ
bạn hữu anh chết sống ở đất nầy.

Anh có thể, trở lại cùng em chứ
mưa đầu mùa nấm mối mọc măng le
rau dớn phủ, rậm khe - anh hái thử
vị còn thơm, thơm như rứa - anh hè.

Anh trở lại cùng em ra bến tắm
cồn giữa sông cồn cát cát trắng tưng
lùm cây cũ chơi trốn tìm xanh thẳm
nghĩ vậy thôi, lòng rộn rã vui mừng.

Trang Y Hạ
KonTum, một đêm 2006.

LỜI GIÓ MƯA:

Cây cầu Dakpsi, bắt qua sông Dakpsi thuộc địa phận Xã Diên Bình, Quận DakTo. Năm một chín năm mươi sáu, măm mươi bảy chỉ là một cây cầu gỗ, thấp. Công binh Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ mới làm một cây cầu sắt, mặt cầu là những thanh gỗ lớn nằm ngang có gắn “bu-lon” chắc chắn. Hai bên thành cầu chính có hành lang dành cho người đi bộ rộng rãi và cũng có lan can bằng sắt cao khoảng hơn một thước.

Bên đầu cầu có một đồn Bảo An (sau này là Nghĩa Quân) giữ an ninh và bảo vệ cây cầu. Thời đó xe cộ qua lại không nhiều, nhứt là ban đêm thì chẳng có xe cũng như người đi bộ qua lại. Do đó thanh niên nam nữ thường hẹn hò nhau ra đứng hai bên hành lang cầu để ngắm trăng thanh và tình yêu của họ chớm nở…!



23/10/23

CẢM ƠN WI-FI

 



CẢM ƠN WI-FI

Buổi nầy, chằng chịt “wi-fi”
nâng phôn, thấy mặt mỗi ngày anh ơi
dù cho: cách biển, ngăn trời
cầm phôn lên hẳn sẽ vơi nỗi lòng

hết rồi bấc lụn đèn chong
song khuya lá rụng căn phòng lạnh tê
mần thơ ướt-át vỗ-về
gửi người ngàn dặm sơn khê não-nùng

trăm lo, nào rõ kiết, hung
chiến chinh mấy độ trùng-phùng sao đây
gặp nhau quả thật trầm trầy
thư lui tới, ngóng chân mây ỉm lời

trăng mòn, liễu gục buồn tơi
vô ra, rồi lại - đứng ngồi chẳng an
giở tờ lưu-bút, mơ-màng
hai tà áo bạc chứa-chan trĩu ngày

buổi này, chằng-chịt wi-fi
nhắn tin, trao ảnh, trình bày thiệt hơn
hết rồi, qua cổng chờn-vờn
trước nhà em, - gió từng cơn lạnh tràn

thơ tình, chừ hết thở than
(anh ơi, anh hỡi, hỡi nàng, hỡi em…!)
hết rồi, ao ước môi mềm
wi-fi, hò hẹn suốt đêm vui đùa

nghĩ buồn, - thuở xửa, thuở xưa
thơ tình ướt gối mà chưa cạn tình
bây chừ quả thật văn-minh
mở phôn ra, thấy dáng hình (nàng thơ)

mở phôn ra, - xóa mong chờ
trong gang tấc, bỏ “bơ-vơ” mặc đời
nhớ thì, thổ-lộ cho vơi
thương thì, gắng nói vạn lời nào dư

yêu nhanh, yêu sớm, tạ từ...
thời nào, cảnh đó - khư khư thiệt là
thời xuân tựa một đóa hoa
lẽ nào lem-luốc để mà tiếc thân

mắc mớ chi, phải lần-khần
wi-fi có, chớ phân vân nữa mà
thôi đừng cách-bức châu sa
để em trơ trọi giống “bà góa” sao?

Trang Y Hạ



22/9/23

BÌNH CHÌM - HOA GÃY

 




BÌNH CHÌM – HOA GÃY

NHẤT dạ đem lòng thương nhớ tới
PHIẾN hồn khép mở ước mơ mòn
TÌNH nặng ngàn cân đành phải vội
CHU xuôi chở nặng khối tình non
DĨ vãng cầm vàng đâu thể luận
ĐÁO mờ dông gió phải ra đi
NGẠN níu đôi bờ lau lách khuất
BÌNH an mát mái, biết duyên gì
TRẦM bóng thâm sa, trời nuối tiếc
HOA chưa khai nhụy lại chia xa
CHIẾT đoạn thân tàn xanh cỏ biếc
DĨ nhiên “hậu sự” xác trăng tà
ĐA nhịp đời rung sầu cô quạnh
THỜI gian nào dễ để phôi pha.

Trang Y Hạ
Trích trong thi phẩm “Sẽ Chở Bậu Đi”

"Nhất Phiến Tình Chu Dĩ Đáo Ngạn, Bình Trầm Hoa Chiết Dĩ Đa Thời”.


Trang Y Hạ Tạm dịch:

(Một mảnh tình riêng đà ghé bến, Bình chìm, hoa gãy hỡi còn đâu).


3/7/23

CÔ GÁI TRONG TRANH

 



CÔ GÁI TRONG TRANH

Bốn giờ sáng quán cà-phê thức giấc
đường Irving thong thả giọt sương rong...
đèn mấy trụ co-ro ôm khí lạnh *
bóng đèn hiu mệt mỏi hắt vô lòng.

Chưa tới quán mùi thơm khêu cơn nghiện
ông da đen lụ khụ khẽ gật đầu
bà da trắng, sờ nếp nhăn đẹp mặt
đứng xếp hàng, chẳng ai nói một câu.

Ngó qua vách - bức tranh treo thiếu nữ
đang say sưa dạo khúc nhạc “Quảng-Lăng” *
hẳn cô thấm hơi cà-phê từ thuở
thức dạo đờn nhân thế bớt nhọc-nhằn.

Bước thỗn-thện ngồi chơ vơ góc quán
nhớ rá cơm, chĩnh nếp - bụng reo vui
cây kiểng đẹp nở bông khoe mấy lá
có dè đâu, “kiểng nhựa” chẳng tỏa mùi.

Vốn tễnh-toãng nhẹ thân ôm thuốc bổi
ngoài kính mờ, người “homeless” ngủ say
cà-phê nóng có chêm thêm vị đắng
triều chưa dâng, thim-thíp ở chốn này.

Mắt cô gái trong tranh, nhìn chăm-bẳm
đã thấy hoài, chẳng lẽ lạ lắm sao
chốn lưu tán cảm ra cùng cảnh ngộ
một tài năng treo trên vách lẽ nào.

Đã trưa trất, tiếc nuối mần chi nữa
sử mọc râu lọm-khọm có tái sanh
thu tàng giấu phương-trình nơi tâm-khảm
tọa độ rơi âm vọng nhịp quân hành.

Chào cô gái, nắng xua buồn lên núi
khúc “Cao Sơn…”, ắt sẽ gặp Tử Kỳ
ngó quanh quẩn, mất tiêu người “ngủ đất”
hướng nơi đâu để tìm dáng “cố tri”.

Trang Y Hạ

Phố Irving ở Sunset, San Francisco
* “Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt.
Chẩm đắc hoa mai phác tỵ hương”.
* Khúc “Quảng Lăng Tán”.
* Khúc “Cao Sơn Lưu Thủy”





29/6/23

MỘT BUỔI CHỢ SỚM

 



MỘT BUỔI CHỢ SỚM


Mmắt ra là đã thấy bậu ngồi

chợ sáng sớm còn vương hơi thở cỏ

sương bận rộn bỏ khung trời trong sáng

xuồng vui neo, hối hả rộn bến đò


Chợ bên lạch, lạ quen dòng trồi sụt

nhạc êm tai lá dừa nước rì rào

vịt theo bậu, thương thân, than lẻ cặp

gà trống buồn, chẳng đánh thức trời cao.


Chim sáng sớm váng đầu còn ngái-ngủ

chắc đói lòng khô giọng bỏ hót mai

chợt tung cánh bay theo người vát cuốc

đậu lưng trâu hí-hửng suốt cả ngày.


Một đám trẻ, áo quần không đồng bộ

xúm nhau quanh, thăm hỏi bà bán xôi

ăn-cười-nói, thẳng về nơi chữ nghĩa

mái trường thôn, mảnh đất vốn tô bồi.


Con cá lóc trườn mình nhìn thiếu phụ

đã biết nhau từ thuở biết lội bùn

sao nở bán, bán cho người khách lạ

vách lá tưa đêm gió lọt, mưa tuôn.


Một anh nghiện, cắp chai đi đong rượu

dòm mấy cô, ngồi (chàng hảng) - khề khà...

mấy chị thẹn, xúm chửi - “đồ quỷ sứ”

chợ im lìm, một thoáng bỗng vui ra


Cô gái mặc áo bà ba đọt chuối

quần Mỹ-A đen nhánh, khoe cái mông *

hông cắp rổ, chứa nụ cười hớn hở

mắt long-lanh, nghĩ giấu hẹn trong lòng


Chợ trưa trất, thiếu phụ ngồi ngo ngó

một mớ tôm, tươi rói đã để dành

lạch trơ đáy con còng mừng quá thể

gió bỏ đồng theo con nước rút nhanh.


Mở mắt ra, lòng lại thấy bồi hồi

níu buổi chợ, mòn tuổi xanh con gái

vú căng sữa - nhớ con, chưa nghỉ mệt

mây trắng bay ngả ngọn tóc, ai hay


Một buổi sáng, chợ quê in trong não

bao con người; "cơm, áo..." vẫn lao-đao

bao con nước lớn ròng, bịp kêu miết

bán không lời chèo chống tới phương nào. *


Trang Y Hạ - Bình Chánh 1974.


* - Mỹ-A là vải lụa nổi tiếng ở Tân Châu (Châu Đốc).

* - "Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi. 

Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê". (Cao Dao).