Thư viện

Hiển thị các bài đăng có nhãn tình phụ tử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tình phụ tử. Hiển thị tất cả bài đăng

21/3/24

UỐNG RƯỢU VỚI CHA

 




UỐNG RƯỢU VỚI CHA

Mây quen cữ rủ mây đè đỉnh núi
chân rừng nâng lọn khói khói trắng tưng
chim sực nhớ tổ quay về lủi-thủi
suối sợ khô rỉ-rả chảy ngập-ngừng.

lửa mùa hạ ve sầu chưa chịu ngủ
phượng xếp buồn lá nặng giấu tương-tư
mùa khô đuổi lũ phong tà gió xú
sông lưng dòng uốn lượn dáng lừ-đừ.

hầm tránh đạn Cha đào nghiêng chái bếp *
lối thoát thân ẩm ướt cỏ lấm bùn
đêm yên lặng điếng hồn ngồi khép-nép
đường đạn bay giọt sương sợ ngưng tuôn.

Chuyện sống chết quả vô chừng vô đỗi
chuyện rủi may chẳng biết dựa nơi đâu
tin chiến-sự réo mỗi ngày bão dội
khói nhang bay chắp tay mẹ nguyện-cầu.

rượu ngon cất, Cha ngâm cùng múi mít
hổ-phách màu sóng sánh đẹp rượu Tây
nợ cơm áo cứa trán người chằng chịt
tuổi già nua teo tóp mảnh hình hài.

sông suối cạn ngày mòn đêm đợi bóng
bóng của con thời binh lửa nhiễu nhương
nằm thao-thức mơ thanh-bình ấm võng
giọng chim heo ơn ớn lạnh chiếu giường.

chiều giục-giã bụi bông hồng nở rộ
bông chứng-nhân tình phụ tử chia tay
vùng đất mới tưởng vơi vơi cực khổ
họa chiến chinh xóa sạch cảnh vui vầy.

Cha gục xuống mảnh đất Cha khai phá
chạy giặc tan sự-nghiệp bỏ cả thây
kể từ ấy trượt chân theo trăm ngã
nạn ly hương ngậm chặt vết đau này.

Ngọc-Linh đỉnh xương phơi nào ai nhắc
nhớ DăkTo, quả-phụ dáng chao-vao
ôm nuối tiếc góc trời xa lăng-lắc
thân cây khô ngâm nước chẳng tươi nào. *

đỏ rực, tro than còn âm ỉ
mưa kéo mưa chưa tẩy hết tang thương *
tang thương vắt vắt tràn qua thế-kỷ
ruộng rẫy ơi xin hãy giữ xanh vườn.

rượu ngọt thấm thấm vô từng huyết mạch
uống cùng Cha ngày trước hãy còn thơm
ngụ đất lạ, sần tay đời trắng nhách
nhớ hàng cau ngã bóng mát Thằng Bờm.

Trang Y Hạ
KonTum “Mùa Hè Đỏ Lửa”, 1972.
(Trích trong thi phẩm)

Chú-thích:
*- Sợ giặc trên rừng pháo kích về thôn, nên nhà nào cũng đào “Hầm Trú Ẩn”.
*- “Cây khô xuống nước cũng khô,
Người nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo”. Ca Dao.

* - “Trái ngược với tình yêu không phải là sự thù ghét mà là sự dửng dưng. Trái ngược với nghệ thuật không phải là cái xấu mà là sự dửng dưng. Trái ngược với đức tin không phải là tà giáo mà là sự dửng dưng. Và trái ngược với sự sống không phải là cái chết mà là sự dửng dưng.” (Elie Wiesel giáo sư người Mỹ gốc Do Thái).





22/5/18

Thơ Cổ




Thơ Cổ

Sừ hòa nhật đương ngọ
Hãn trích hòa hạ thổ
Thùy tri bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ.

Dịch thơ:

Giữa trưa nắng cháy đường cày
Mồ hôi thấm đất lúa rày trổ bông
Bưng cơm ai có hiểu không
Mỗi hạt là mỗi khổ trong khổ ngoài.

Trang Y Hạ




10/4/18

Người Con Gái Có Võ





Người Con Gái Có Võ

Trang Y Hạ
    
     Ông Tường cưới vợ quá trễ. Vợ ông - bà Liên - bà nhỏ hơn ông một giáp, người cùng làng...  Hai ông bà sinh chỉ duy nhất được một đứa con gái, ông bà đặt cho con gái là: Nhược! Tên gọi đầy đủ là Trần Chỉ Nhược! Ông bà chắc có đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung nên khoái cô: Chu Chỉ Nhược! Nhân vật trong truyện "Cô gái Đồ Long" chăng?. Cô bé Nhược càng ngày càng lớn, mới mười một tuổi đầu mà đã cao tới một thước sáu... Giọng nói rổn rảng... Thích làm "đại ca" không những với bạn nữ cùng trang lứa, mà cả với bọn con trai trong trường.  

     Ông Tường thỉnh thoảng hay xem phim "Kung-Fu" cho đỡ buồn... Cô bé Nhược cũng ngồi "coi ké" với cha... Không rõ cô bé Nhược có bị ảnh hưởng phim đánh võ của Tàu hay không? Ông bà Tường thỉnh thoảng thấy bé Nhược lấy rơm bó hai ống quyển; bó rơm thân cây đu đủ, rồi nhảy lon xon đá vô thân cây với các thế: Đá giật - Đá phải - Đá trái - Đá chẻ từ trên xuống - Đá xoay người - Đá song phi... Đá giống y chang các võ sĩ đánh nhau trong phim... Cô bé Nhược té ngã, đôi chân trầy trụa, bầm tím... Ông Tường thấy con gái [tập võ] cũng không la mắng mà ngược lại còn khuyến khích... Bởi ông cũng là một "Huấn Luyện Viên Vô-Vi-Nam", thời còn ở trong quân đội. Hơn nữa là ông rất cưng chìu con gái và nghĩ rằng bé Nhược còn con nít, hay nghịch...! Bà Liên thấy con tập võ trầy trụa như vậy thì bà đau lòng lắm! hơn nữa là - bé Nhược mê võ nên lười học chữ! Bé Nhược cứ coi các "đòn chân" trong phim mà tập thuần thục các thế đá... Do "luyện võ" thường xuyên nên các cơ bắp trên thân hình bé Nhược săn chắc, đi đứng oai phong bệ vệ giống y nữ tướng quân... Bà Liên lo lắng... Bà nói với ông Tường giọng như hờn trách:

     - Ông ơi! Tôi thấy con bé Nhược dạo nầy nó... "đá đẹp" lắm...! Ông không tin thì ông biểu nó đá biểu diễn cho ông xem! Nó đá đẹp..., thì lớn lên nó sẽ ở vậy tới suốt đời chứ có ma nào mà dám cưới nó về làm vợ!

     Lâu nay ông Tường cứ châu đầu vô hai công ruộng... Làm luân canh quanh năm mà cũng không đủ sống. Ông nghe vợ nói về chuyện tập võ của đứa con gái ông mới giật mình... Một buổi sáng Chúa Nhật, ông biểu con gái biểu diễn cho ông xem thử có đúng như lời vợ ông than phiền hay không? Bé Nhược nghe lời cha khuyến khích, hí hửng giở hết các thế đá ra biểu diễn... Bé Nhược diễn thật nhiệt tình, thiệt vô tư trong sáng. Bé Nhược tung từng cú đá chắc nịch... Ông Tường xem con gái biểu diễn... Ông thầm thán phục con gái của ông có căn cơ để luyện võ, có niềm đam mê luyện võ. Tối đó ông bàn với bà Liên rằng:

     - Bà ơi! Tôi thấy con gái mình xem phim kung-fu Tàu mà bắt chước tự tập thuần thục được mấy thế võ đòn chân... Con gái mình mê học võ như vậy cũng là một điều hay. Từ đời tổ tiên chúng ta đã "bắt chước" học theo lối Tàu cả mấy nghìn năm..., chừ tới đời chúng ta; đời con cháu mai sau của chúng ta, không lẽ cứ mãi tiếp tục ôm cái "vú Tàu" mà sống hoài sao?... Tôi định đem hết sở học "Vo-vi-nam" truyền lại cho con gái - chúng mình là người Việt Nam mà...! Con gái của chúng ta có giỏi võ là để noi gương hai bà Trưng, bà Triệu ngày xưa đánh đuổi giặc Tàu. Bà có đồng ý không?

     Thấy vợ ngập ngừng ông Tường nói tiếp:
    
     - Bà nhớ ngày xưa - khi bà đi xem phim về khuya tới Cầu Bông bị bốn thằng du côn chặn lại chọc ghẹo, sàm sở với bà... Tôi đi ngang thấy việc bất bình... Tôi đã sấn lại đá cho bốn thằng "ba-nhe" đó rớt xuống kênh nước đen ngòm! Tôi đưa bà về tới nhà của bà ở gần chợ Bà Chiểu. Bà vô nhà rồi mà tôi còn đứng trước nhà bà một lúc lâu rồi mới bước đi. Học võ cũng có cái hay của học võ, miễn là đừng lợi dụng võ mà làm ra chuyện bất nhân ức hiếp người ta thì cũng có ích phải không bà?

     Bà Liên lườm ông Tường...! Bà nói như để vớt vác:

     - Hồi đó, tui... tui... yêu ông chứ... có "yêu võ" chi đó của ông đâu mà ông: tự khoe, tự kể công...!

     Được chính cha ruột truyền cho võ thuật bằng cả tâm lòng thương yêu cộng với niềm đam mê của cô bé Nhược; cô bé Nhược đã lĩnh hội hầu hết tuyệt kỹ võ nghệ của người cha, chỉ trong vòng một năm! Người cha "hết vốn"...! Bé Nhược vừa to cao, vừa giỏi võ nghệ - bé Nhược bây giờ không còn [nhược] nữa. Bọn du côn dù có tới bốn năm thằng cũng không thể ức hiếp nổi.

                                        o0o
     Đám lá dừa nước đã tới lứa... Vợ chồng ông Tường chặt đem tước đôi ra phơi trước sân cho khô để cuối năm lợp lại cái nhà, che lại vách... lúc mệt, ông Tường nghỉ tay than thở với vợ rằng:

     - Bà ơi! Vợ chồng mình tiện tặn hơn bốn mươi mấy năm nay - hơn nửa đời người mà cũng không thể xây nổi một cái nhà tường - dù là nhà trệt "cấp bốn". Tôi nhìn cái nhà mới xây của lão Tư Tỏi bên kia sông mà mơ ước ... Tính ra, vợ chồng lão Tư Tỏi làm ăn giỏi hơn vợ chồng mình hả bà...?!

     Bà Liên thở ra một hơi dài...! Bà ngó chung quanh không thấy con bé Nhược đâu. Bà kể cho ông Tường nghe:

     - Ông suốt ngày lo ruộng vườn chẳng quan tâm tới "Thiên hạ sự"... Bây giờ đổi đời rồi ông ơi, con gái chúng nó bây giờ đi lấy chồng ngoại hết ráo... - nhiều nhất là Đài Loan - Hàn Quốc... Báo chí họ tổng kết cho biết là đã có - "Chín mươi bảy nghìn cô dâu Việt sống [hạnh phúc] ở bên xứ người....". Chúng nó hãnh diện khoe khoang được lấy chồng "Hàn - Đài..." rần rần...! Cha mẹ chúng nó cũng nở mày, nở mặt với bà con chòm xóm...! Ngày xưa ở Miền Nam, những đứa con gái nào mà lỡ đi làm "Me Mỹ"..., tuy không nhiều - nhưng cũng đành phải bỏ làng trốn đi nơi khác, bởi vì xấu hổ với giòng họ, xóm giềng...! Tui cho ông hay là... Vợ chồng Tư Tỏi đã gã con gái cho Tàu Đài Loan rồi...! Thằng rễ Tàu cho tía má vợ của nó tới... mấy nghìn đô-la - coi như là...[mua đứt] con gái lão Tư Tỏi... Lão Tư Tỏi có tiền xây nhà, mua truyền hình màu, mua xe Honđa... Đám tiệc nào vợ chồng Tư Tỏi cũng khoe - có thằng rễ Tàu giàu có. Tui nhìn cái bản mặt: câng câng, sưng sưng... của vợ chồng Tư Tỏi là tui thấy... khó ưa...! 

     Ông Tường nghe bà vợ nói...! Ông mỉm cười...! Kể từ ngày vợ chồng ông "bỏ phố về đồng", ông gần như: "Tịnh khẩu - Tịnh tâm", ông không để ý tới chuyện thị phi...Ông Tường nghĩ rằng: "Thầy chùa có thể chạy, chùa không thề dời". Sự biến thiên của đất trời; sự xoay vần của lịch sử đành phải cam chịu chứ đừng trách cho ai cả. Người xưa nói "Vô họa bất anh hùng". Than mây khóc gió thì chẳng có ích chi! Chuyện thị phi bà Liên kể sao thì ông nghe vậy. Ông chỉ mỉm cười...! 

     Nước thủy triều dâng lên từ từ, chiếc xuống đã được cột vô gốc cây so đũa, đang nhẫn nha trôi lại gần cái lu nước đặt bên bờ con lạch và dừng lại bởi sợi dây neo đã căng cứng. Ông Tường lấy cây giầm chèo xuồng đi vớt số tàu dừa nước chưa gom xong đưa lên bờ.

     Người xưa nói: "Tai vách mạch rừng" quả thật chẳng sai chút nào. Ông bà Tường dù có nói chuyện nhỏ, nhưng nội dung câu chuyện vẫn lọt vô lỗ tai của cô con gái của họ không sót một tiếng... Bé Nhược năm nay đã là một thiếu nữ tuổi mười lăm, ra dáng vẻ của một cô thôn nữ - phốp pháp khỏe mạnh nhờ luyện võ... Dù không là hoa khôi nhưng cao ráo, duyên dáng... đậm chất hương đồng cỏ nội... Cô mê học võ bỏ bê học chữ. Học chưa xong lớp tám đã nghỉ ngang!... "Lạ gì bỉ sắc tư phong" được cái nầy thì mất cái kia. Để bù lại cho sự học vấn không tới đâu của mình và cũng phát giác ra mình có khiếu học ngoại ngữ giống như học võ. Vậy là, cô bé Nhược nằng nặc xin cha mẹ lên Sai-gòn để học... Bà Liên đích thân dẫn con lên Sai-gòn gửi gắm cho người em gái Út... Bé Nhược ghi danh học Anh Văn... Một thời gian sau bé Nhược nhận thấy ở bất cứ nơi nào trên quê hương cũng tràn ngập hàng hóa Tàu... ! Để "đi tắt đón đầu" cô bé Nhược lại ghi danh học thêm tiếng "Quan Thoại". Vậy là dù học chưa xong lớp tám, nhưng cô bé Nhược cũng đã nói tạm được hai ngoại ngữ.

                                      o0o
     Bà Liên nhận được thư của bé Nhược từ tay em gái ở Sai-gòn về quê đưa. Đồng thời em gái của bà cũng trao cho vợ chồng ông Tường một phong bì dày cộm...!

     Trong thư bé Nhược viết:

     "Thưa Tía Má. Con đã nghe hết trơn câu chuyện Tía Má kể về gia đình ông Tư Tỏi... Do đó, con nghĩ - con cũng có thể lấy chồng Đài Loan để đem tiền về xây một ngôi nhà khang trang, to lớn mà Tía Má đã mơ ước..." !

     Bà Liên chết lặng trong lòng, nước mắt giàn giụa... Ông Tường... mỉm cười. Em gái bà Liên [Dì Út] khóc phân bua:

     - Con Nhược, nó... không nói cho em hay là nó đi lấy chồng Đài Loan... Nó giấu em...! Em không hay biết gì hết. Anh chị đừng có trách...!

    Bà Liên nói:

     - Vợ chồng chị mang ơn em mà chưa đền đáp, có đâu lại đi trách móc...!

     Ông Tường quay sang bà Liên nói:

     - Con gái chúng ta đã trưởng thành rồi; trưởng thành cả thể xác lẫn tâm hồn...! Đừng buồn nữa, vài ba năm nó cũng trở về thôi mà! Không ai dám ức hiếp nó đâu mà sợ. Tôi đã dạy cho con nó mấy tuyệt chiêu dành cho phái nữ để đề phòng chuyện bất trắc...! 

     Ông Tường có đôi khi tự nghĩ: 

     - Không lẽ... - Đường nào cũng về... Tàu hay sao? Và, đám cháu ngoại Tàu khi lớn khôn - bọn chúng hùa về đòi chia của "hương hỏa" thì biết lấy cái chi mà chia đây!

     Một tháng sau người ta thấy bên cái cồn đất của vợ chồng ông bà Tường mọc lên một ngôi nhà cấp bốn khang trang, nếu ai đó chịu khó quan sát một chút thì sẽ thấy ngôi nhà của vợ chồng ông Tường bà Liên bề thế hơn nhà của ông Tư Tỏi... Đa phần người trong làng cho rằng gia đình ông Tường trúng số mới có tiền để xây nhà, chứ không ai có ý nghĩ gì khác... Và, họ cũng đã biết bé Nhược lên thành phố để đi học...Vậy thôi! Bà Liên lo sợ con bé Nhược sẽ dẫn chồng Tàu về thì sẽ... Lòi chành té bứa...! Do đó bà dặn em gái:  "Con Nhược có về thì hãy tạm giữ chân nó trên Sài-gòn, rồi sẽ tính sau...". Vợ chồng ông Tường xây nhà nhưng các cửa sắt không gắn kiếng, để trống huơ, trống hoác... Ông Tường lấy mấy tấm nhựa che tạm... Và, tuyệt nhiên không sắm sửa đồ đạt trong nhà như: Truyền hình màu, xe Honda, tủ lạnh, bàn ghế... Ai thắc mắc thì vợ chồng ông bà chỉ trả lời rằng: "xây nhà hụt tiền...". Từ đó không ai đồn ông trúng số và không nghi ngờ...! Dần dần chuyện vợ chồng ông lấy tiền ở đâu ra mà xây nhà, cũng dần dần quên lãng! Ông bà ngày xưa nói quả là đúng "Cứt trâu để lâu hóa bùn".

                                                o0o
     Bà Liên nhận được tin của em gái, nội dung:

     "Anh chị lên em! Bé Nhược có ẵm một đứa con gái khoảng sáu tháng tuổi về. Cháu đang ở nhà em...!".

     Bà Liên khóc...!

     Ông Tường mỉm cười và tự nghĩ: "Cháu ngoại Mỳ thì màu da "trắng - đen" rõ rệt, nên ai cũng biết, không thể giấu. Vả lại người Mỹ họ nhận "con lai" của họ về nước. Cháu ngoại Tàu cùng màu da vàng mũi tẹt thì ráng mà nuôi...!".

     Ngôi nhà của ông bà Tường bây giờ vui hẳn lên vì đã có mẹ con của bé Nhược. Dù gì, cũng là cháu ngoại nên ông bà Tường cưng chìu mẹ con bé Nhược hết mình... Ông kêu thợ kiếng tới lắp kiếng cho tất cả khung cửa sổ, cửa chính. Mua sắm đồ dùng trong nhà và cho mẹ con bé Nhược đủ thứ...

     Ông Tường hằng ngày ẵm cháu ngoại [Tàu] ru:

     - Ru tới trăm năm...! Ru tới ngàn năm...! Ru tới trăm năm...! Ru miết tới bao năm!

     Bà Liên nghe chồng hát ru cháu ngoại chỉ vỏn vẹn có bốn chữ - thành một điệp khúc. Bà hiểu cái ý sâu xa của chồng mình, đó là: "Ngàn năm nô lệ giặc Tàu"... ! Bà đi lại ngồi kế sát bên chồng, bà dựa vào vai ông... Bà chậm rãi nói như là tâm sự:

     - Ông à!... Lâu lắm rồi gia đình chúng mình mới... đoàn tụ như ngày hôm nay. Tui vui lắm! Con gái của chúng mình nó cũng vui...! Ông hát ru cháu ngoại nghe cũng hay...! Ngày xưa tui thích nghe hát, nhưng ông có bao giờ hát cho tui nghe đâu...! Ông mãi mê theo gót mòn chinh chiến khắp bốn vùng chiến thuật! Thôi, ông hãy hát tặng tui một bài hát, - bài nào cũng được, - dù có muộn màng nhưng trong lòng của tui như được sống lại những ngày tươi đẹp xa xưa... Hát đi ông! Ông hát tặng tui và cũng là hát ru cho cháu ngoại của chúng mình nó ngủ ngon nha ông...!

     Ông Tường quay người lại nhìn vô đôi mắt vợ: Thật sâu...! Thật lâu...! Thật dịu dàng!... Ông lại cười...! Chỉ có vợ ông - bà Liên - mới hiểu thấu nụ cười của ông! ./.

Trang Y Hạ - San Francisco.
   


    



    
    
    
    
    
    



    

    
    
    
      


      

29/3/18

Mừng Cháu Ngoại





Mừng Cháu Ngoại

Ông lúc nầy tuổi đã lên sáu tám
mừng gặp cháu vừa hớn hở chui ra
hai thằng mình đều xa xứ cả mà
cháu hơn ông - cháu sinh trên đất Mỹ

ông vui sống hết quãng đời vô vị
mớ thơ văn không nuôi nổi đời ông
thân con chim bị nhốt ở trong lồng
rất là đẹp - cái lồng của quá khứ

làm xe pháo cho người ta chơi thử
hết bọn nầy rồi kế tiếp lũ kia
phân thắng thua nên - đành phải ra rìa
rìa sử-lịch nhân gian gân cổ chửi

ông ngây ngất nhớ mùi hương hoa bưởi
thấm hồn non thuở ngấp nghé hai mươi
lời tình tự gửi ánh mắt nụ cười
tiếng đạn reo rung cung đàn dìu dặc

ướp hồn ông không chỉ bằng nhan sắc
bằng lời thơ vấn vít ở trong đầu
lửa chiến trường thui đời trai quá lâu
mưa bỏ trốn - lửa than hồng hừng hực

đã lành sẹo - châu thân còn đau nhức
nhối trong tâm đêm xuống chẳng hề vơi
khi lớn lên cháu tìm hiểu vận đời
màu vàng sậm nói tiếng người xa lạ

chuỗi lịch sử bốn nghìn hề hóa đá
Cửu Long Nhị Hà hề chảy về đâu
lục bình trôi con nước luyến chân cầu
cháu sẽ thấy chân trời mây hết tím.

Trang Y Hạ
San Francisco, 3.2018



Cô & Cháu















13/1/18

Đưa Con Về Thăm Quê Cũ





Đưa Con Về Thăm Quê Cũ

Đưa con về tìm lại mảnh vườn xưa
ruộng vườn xưa chỉ còn trong tâm tưởng
lìa bỏ làng di tản ra tám hướng
tìm nguyên cớ con sẽ hỏi - vì đâu

biển cũ giờ rủ nhau hóa nương dâu
con dã tràng bơi tha phương cầu thực
hàng dừa nước cúi dòng sông thao thức
phía chân mây sáo sậu có bay về

bụi ly hương bạc vai áo tái tê
không bạc hết bóng hình ngày thơ ấu
lòng ruộng đất ngát hương mùi tro trấu
trống đình làng giục giã cõi thiêng liêng

đất quê nghèo cũng là đất tổ tiên
tình đồng bào qua bao đời ấp ủ
đổi ra tiền biết bao nhiêu cho đủ
có bồi thường chăng nữa - thấm vào đâu

ruộng mọc chân chạy vô nấp kẻ giàu
đất lên phố người lang thang cùng phố
đời nông dân: "khờ-ô-khô-hỏi-khổ"
phận luân hồi mưa nắng đẩy đi hoang

dẫn con về để nhận dạng xóm làng
tìm dư âm tiếng cười vang câu hát
sông cạn kiệt cá tôm đành tản mát
nước trở màu tử khí nặng nề trôi

đi theo chồng bỏ xuồng bến đơn côi
cầu bê tông xua đuổi cây cầu khỉ
nhịp hối hả quên tri âm tri kỷ
nước tràn bờ bìm bịp lánh về đâu

chòm lục bình ốm nhách vướng chân cầu
hoa cố nở nguyên một màu tim tím
ngày bất lực dẫn hoàng hôn tắt lịm
đèn úa vàng uể oải gọi thiêu thân

buồn chi con cuộc sống vốn xoay vần
ai chống lại trước cơn giông bão tố
hãy đối mặt với cảnh đời đau khổ
để tìm ra một nơi chốn bằng yên.

Trang Y Hạ
San Francisco - 20012