Thư viện

Hiển thị các bài đăng có nhãn bên đời hiu quạnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bên đời hiu quạnh. Hiển thị tất cả bài đăng

6/8/25

UỐNG RƯỢU VỚI HẰNG NGA

 



UỐNG RƯỢU VỚI HẰNG NGA


     “Ngã kim nhật tại tọa chi địa
      Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi” [1]
                                     (Vương Thực Phủ)

Nhá-nhem vọng trăng non nhô đầu núi
lạch lao-xao, chó sũa thủy-triều dâng
lòng-tong cá nhiễm dòng chờ chết đuối
cầu bê-ton bến cũ níu nợ-nần.

Nghe đồn-đoán bậu bơi qua biển lạ
gặp cứu-tinh, định-vị khoản vọng-sinh
mừng cho bậu, trèo lên cân (phúc, họa)
gói tâm thành hạ-sự chẳng vô tình.

Nghiền-ngẫm nghĩ, đoạn “lễ môn nghĩa lộ” [2]
nghiền-ngẫm suy, khúc “sát phí kinh doanh” [3]
gánh trần-ai biết ai trì độ độ
sữa mẹ khô, đất nẻ biệt không đành.

Con trâu yếu, sờ máy cày thêm thích
tầm cây đa, cây đa trụi thân trơ
chú cuội lái xe hơi vòng du-lịch
mặc vet-ton, quên ngủ bụi ngủ bờ.

Con nhái gọi bạn tình khô cứng họng
đêm sương vo giọt mặn hóa ra châu
hương bồ-kết ghì cọng rơm lạc-lõng
người đi xa còn giữ thuở dãi dầu.

Đèn cạn đáy, hiên lá rơi da-diết
gió mệt dìu hồn Lý-Bạch liêu-xiêu
cô thơ đợi, mắt mờ không giấy viết
đành trân mình chịu xỉ-vả đủ điều.

Đồng lên phố, đời lúa than-thở phận
cụ Thần-Nông, thắc-thỏm mắt trõm-lơ
bụng trộn-trạo, nào có ai phát-chẩn
ai thi-ân, mặc bão tố xô bờ.

Trụ đèn tắt, lò-dò tìm trăng mỏng
Nguyệt Nga ngồi, thấp-thỏm gặp Vân-Tiên
chim đớp muỗi, liệng ngang không để giọng
mơ đêm thanh, xóa bớt nỗi ưu-phiền.

Mở điện-thoại (gọi, nhắn) ngày tháng cũ
cầu ao sen bóng bậu có nôn-nao
thanh-bình buổi cớ chi thân di-trú
chưa xả ao, xã-tắc lạc phương nào.

Đất trời đổi, thân đơn Dạ-Lữ-Viện
ly-bôi khan, ngẩng mặt tiễn Hằng-Nga
trăng vành vạnh, giờ chẳng qua làm kiểng
thương rằm xưa nguyệt tỏ vẫn chưa nhòa.

Trang Y Hạ
Ngày hè, ghé Long Beach, California - 2025.

Cước Chú:
1- (Chỗ đang ngồi ngày hôm nay,
Người xưa cũng đã từng ngồi).
2- Nghĩa là: - con người mới sinh ra là đã có “thiện lương”! Và “lễ, nghĩa” cũng có từ sơ nhi. Vậy lễ là cửa, nghĩa là đường - để đi vào cuộc sống tiếp theo.
3- Nghĩa là: - việc lao động cầu sinh để tồn tại rất khó khăn.

Lời Gió Mưa:

    Từ lâu: “Phép ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc màu rách nát.”. (Trần Phước Hân).



31/7/25

NGÀY HÈ Ở ROSEMEAD.

 



NGÀY HÈ Ở ROSEMEAD

     “Trùng lâu thuý vũ nhân hà tại,
       Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.”. [1]
                               (Lê Thánh Tông).

Ngọn gió dịu-dìu qua lòng phố nóng
lọn tóc cô starbucks búi cao cao
áo mỏng mặc bữa ni phơi mong-mỏng
cà-phê lay đồi vắng mở đường vào.

Nhạc nhã giọng hồn lâng-lâng huyễn-thuật
mơ-màng con sóng nhỏ hà-can
mười năm đếm thử còn bao nhiêu suất
quách liêu-xiêu nội thị gánh điêu-tàn.

Bậu ngồi chống cằm nghiêng qua mấy hướng
ghế rung-rinh chẳng hé mắt môi mời
dây chưa buộc đôi chân đà vương vướng
mãi lân lòng âm-ấm hóa xa-xôi.

Điều-hòa-máy, ngỡ làn da ấy mát
liếc qua gương tóc bỏ nhuộm đã lâu
sờ đầu gối ôn ấm hơi trận mạc
bóng hoàng-mai ẩn hiện vẫn tươi màu.

Dáng chim mỏi hối-hả đi làm tổ
dưới mái hiên hầm-hập bụi trần-ai
giọng nho nhỏ vọng âm lời kinh khổ
nhuận-sắc hay hồi luân nghiệt-ngả bày.

Ngồi sực nhớ, Lọ-Lem cô Công-Chúa
nhớ anh chàng, Chử-Đồng-Tử khỏa thân
thương đổ bệnh cánh đồng mùa thiếu lúa
thương mấy loài sinh phóng biết mấy lần.

Trưa huyễn-mộng, mộng Thúy-Kiều réo gọi
sóng Tiền-Đường, lớp lớp cuộn nào ngơi
thuyền không đáy, trôi trôi miền không tới
lời thề xưa biết có, lỡ lỡ lời.

Câu thơ khổ, không vẽ ra để khóc
bài thơ đau, chẳng vẽ để thở-than
đất trời cũ còn dang tay mời mọc
thế-nhân từ thế-nhân bắt bẽ-bàng.

Hà-phương xứ, hơi huân-phong ve vẫy
thị-sự bày, bày biện lắm ngổn-ngang
ngẫm thân thể, tang – “tang-du-mộ-cảnh” [2]
ngậm – “thiết-phi-chi-thống” lội địa-đàng. [3]

Phành đôi mắt to tròn cô starbucks
đượm màu đen sáng thế-kỷ hai mươi
vọng hè lạc, xác ve sầu trở giấc
hồn phượng vui tà áo gió mỉm cười.

Trang Y Hạ
Ngày hè ở Rosemead, Los Angeles 2025.

Cước Chú:
1- “Trùng lâu thuý vũ nhân hà tại,
Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.”. [1]
(Lê Thánh Tông).
Dịch thơ:
(Gác Lầu còn đó người ở đâu,
Đứng ngắm núi hoang chiều nắng rọi.).
2- “Tang dâu mộ cảnh”. Nghĩa là: (Bóng ngả cành dâu).
3- “Thiết phi chi thống”. Nghĩa là: (Đau như cắt da).


LỜI GIÓ MƯA:
     Sau 7 giờ tối ngày 25 tháng 12, 1991, chế độ cộng sản (totalitarianism), một hệ thống nhà nước bạo lực đã kiểm soát tuyệt đối và đặt ra ngoài vòng pháp luật mọi hình thức đối lập tại Liên Xô, Đông Âu sụp đổ. Và từ đó, một chế độ toàn trị khác - công nghệ (techno-totalitarianism) ra đời. Dù rằng, chế độ nô lệ cổ điển đã bị hủy bỏ tại Mỹ, Châu Âu sau thế kỷ 18. Tuy nhiên, trên thực tế chế độ nô lệ không hoàn toàn bị hủy bỏ mà chỉ biến thể không chỉ nô lệ thân xác mà còn nô lệ tư tưởng.



5/6/25

HÀNG CÂY GIÀ

 



HÀNG CÂY GIÀ


     “Đài các hữu nhân nho tịch noãn,
        Biên thùy vô sự liễu doanh nhàn”. (Nguyễn Trãi).

Hàng cây, đứng bên đàng
chào nhau, chào buổi sáng
dốc phố quen, rủ rê về chạng vạng
hỏi vì sao, quá khứ mãi tươi xanh.

Sương vẽ màu, vẽ rong rêu rực rỡ nắng hanh
cành cây ướt
con chim già, ho húng hắng
văng vẳng nghe
tiếng gót giày thầm lặng
gót của nàng, hay là gót chân ai.

Gió, mở lòng thổi hơi gió tê tay
mùi áo trận thoang thoảng hương trinh nữ
ôm dây rốn, biết chốn đời lữ thứ
mẹ cưu mang chưa cho chọn phương nào.

Hàng cây đứng bên đàng
sức lực tiêu hao
không thể nắm, tay nàng quay trở về đoạn cuối
để cùng ngồi, gom dương liễu vào thơ
bên kia bờ đại dương lầm lũi ngày mơ
trang lưu bút, nhen lên từng nét ấm.

Từ khi biết tên người
đã biết yêu, từ non cao núi thẳm
bông ái tình, mỗi ngày mỗi hoa râm
đã để mất, câu thề dưới trăng rằm
con chim mộng tha phương, mong hội ngộ
rừng luyến rừng, kỷ niệm luyến nơi đâu.

Mưa mùa trước phủ mờ, mất hút bóng hải âu
áo Hoàng Sa, đẹp dung nhan vàng hoa cúc
tuyết mấy mùa, có ghé hỏi thăm
khúc ngũ liên sóng vỗ bờ thôi thúc
từng đoàn quân, hăng hái bước xuống thuyền.

Đôi tay từng cầm lái giữ bình yên
con quốc kêu, mặc kệ đêm sương mọng
chân lặc lè, trái tim đương nóng
chiến trường xưa, còn giữ lửa chưa tan.

Hàng cây đứng bên đàng
trông theo bờ dĩ vãng
yêu quê hương, chưa khi nào hữu hạn
thương hàng cây bên đàng dáng cao hơn.

Trang Y Hạ
San Francisco, 2010.




1/3/25

CÂY VIẾT

 



CÂY VIẾT

     “Chẳng yêu nhau, chớ dể nhau,
      Những loài yến tước biết đâu chí hồng.”
                     (Trích truyện thơ Nôm: Phan Trần).

Thời tiết đoán, mưa nguồn thôi hồi đất
nhớ nàng tiên starbucks đẹp ngoan hiền
giai-nhân vẽ chẳng khúc nào miễn-phí
dung-nhan treo đền tháp hóa linh-thiêng.

Bụi cỏ mục sinh lân tinh trực chỉ
lục châu thân, thân bươn bả mấn-tồi *
danh vay mượn, hãnh-tiến quy thanh-trủng *
hoạch định bày ngắm lá tắm mưa rơi.

Đôi tai lãng, lắng oan hồn nửa kỷ
hoa mai phai, sặc sỡ nở trong tâm
thân “việt điểu, nam chi” nào bôi xấu
hoạt-tử-nhân chòi cỏ chẳng hề lầm.

Ông cà-tửng thích ra đường huých gió
bà lơ-ngơ khoái ca cẩm ngã-tư
người không chỗ nằm vắt chân chữ ngũ
nắng gió mây, chui qua háng mệt nhừ.

Chị bàn cận, thỏ-thẻ vay cây viết
ngẫm tiền-đồn đón thư ấm hậu phương
hơi nhạc rock, rộn-rã mùa lúa chín
quê in hình nặng não lấy chi lường.

Hờn tấm bảng chỉ đường, chỉ trật phía
chạy rộp chân, kịp diện kiến Cúc-Hoa *
thiên-lý dặm nợ ân tình tiêu trỗi
đồng mênh-mông hoàng hôn vọng tù và.

Cô gái trẻ lai tây, đẹp y tượng
quên mất tiêu, khuôn mặt An-Dương-Vương
đọc tin-nhắn, bàn tay tiên thoăn-thoắt
ẵm cà-phê, hớn-hở vọt ra đường.

Đã thẩm-thấu, mã pháo xe đương nước
dạo bờ sông con tốt rộn lai quê
vô-ngôn-dực-nhi-trường-phi, cô lẽ *
bậu cõi riêng thổn-thức bậu chẳng hề.

Chị mượn viết giả quên, cười ra cửa
ghế ngẩn-ngơ, hơi ấm níu người đi
trịnh-trọng vuốt, vuốt lưng nàng starbucks
nắng chói chang, tê cẳng muốn ngồi lỳ.

Trang Y Hạ

Cước Chú:

* - Mấn-tồi = Suy nghĩ rụng hết tóc.
* - Thanh-trủng = Ngôi mộ của những kẻ quyền quý, giàu sang.
* - Truyện thơ Nôm Phạm Công - Cúc Hoa gồm: 4,600 câu thơ.
* - Vô-ngôn-dực-nhi-trường-phi = Lời nói dù không cánh nhưng bay đi rất xa.

Lời Gió Mưa:

     “Tôi sẽ cho Mỹ rút khỏi tất cả các tổ chức mà người Mỹ đã bỏ hàng tỷ dollars để tài trợ, đặc biệt là các quốc gia tuyên truyền chống phá Mỹ. Các bạn có thấy vô lý khi chính chúng ta lại tài trợ cho những quốc gia treo các biểu ngữ chống Mỹ. Các quốc gia đó nên chọn rõ lập trường, nếu chống Mỹ thì đừng làm ăn với Mỹ.”. (Tổng thống Donal Trump).





16/1/25

CÔNG LÝ & CÔNG TÂM

 



CÔNG LÝ & CÔNG TÂM.

Trang Y Hạ

     "Mỗi con người là một sinh vật chính trị". (Aristole). Nói ví von cho dễ hiểu: Chính trị là một phiên chợ, giá cả lên xuống trong phiên chợ có liên quan tới bữa ăn của mỗi gia đình hằng ngày, kinh tế học gọi là “kinh tế thị trường”. Không quan tâm chính trị là mất tự do, là tự thiêu! Quan tâm ra sao thì cũng giống như đi chợ (tinh ý) lựa: cá thịt; lựa rau củ tươi xanh.

     Chính trị luôn song hành với kinh tế không thể tách rời. Ngày trước dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa có trường Đại Học “Chính Trị Kinh Doanh” Đà Lạt. Sai lầm lớn nhứt của ông (Karl-Marx) là loại “kinh tế thị trường” ra khỏi đời sống xã hội. Ông Lenine, nói “Karl-Marx dạy làm cách mang mà không chỉ cách làm kinh tế”. Hơn nữa là chính trị luôn gắn liền với văn học. “Dân hai lăm triệu ai người lớn, Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. (Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu). Vậy kẻ nào nói không quan tâm tới chính trị kẻ đó chính là con cháu của Diêm Vương.

     Một người kinh doanh (tự tin) ra ứng cử chức vụ tổng thống Hoa Kỳ năm (2016) dù không có “đảng tịch” mà chỉ (mượn danh) đảng Cộng Hòa đó là ông Donald John Trump. Ai cũng thừa biết ông Trump là một nhà kinh doanh bất động sản chẳng có bằng tiến sĩ chính trị học, (political science) vậy mà người dân Hoa Kỳ bầu cho ông trở thành tổng thống thứ 45 sau khi đánh bại hàng loạt các ông bà (tai to mặt lớn) có bề dày tích lũy kinh nghiệm chính trường lâu năm.

     Từ xưa nay, dù ở bất cứ quốc gia nào - nghề làm ra tiền bạc nhiều nhất, nhanh nhất mà không cần vốn, đó là “Nghề Chính Trị”. Tất nhiên, (một số) trong số họ là những chính trị gia suy đồi và độc tài bởi “kiến tài ám mục” nên họ làm ngơ trước trước sự nghèo đói của dân chúng; m ngơ vận mệnh đất nước lâm nguy. Người dân sống ở các quốc gia tự do thì muôn đời vẫn tỉnh táo sáng suốt, họ dùng lá phiếu để lật đổ. Người dân trong các quốc gia “độc đảng, độc tài” họ cũng tỉnh táo sáng suốt. Họ chờ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” sẽ cùng nhau đứng lên đòi quyền sống; đòi quyền tự do. Tuy mạnh yếu mỗi lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có”. (Nguyễn Trãi).

     Người dân bầu phiếu cho ứng cử viên nào là quyền tự do lựa chon của người đó chứ không phải là “nghĩa vụ phải đi bầu cử”. Vậy cho nên phải tôn trọng quyền tự do chứ không thể đả kích, ép buộc. Ai cảm thấy bầu (chưa đúng người) thì bốn năm sau có quyền dùng phiếu bầu để thay đổi chứ không nhất thiết phải trung thành với một đảng nào, (dù là đảng viên của một đảng) nào đó. Kể từ ngày ông Trump ra tranh cử và thắng cử nhiệm kỳ thứ nhất. Truyền thông dòng chính liên tục chỉ trích chính sách của ông.

Lý do thứ nhứt:
      - Người dân phần nhiều nghe theo “Truyền Thông Dòng Chính”. Từ đó, sự chia rẻ trong mỗi gia đình, dòng họ, bạn hữu cho tới ngoài xã hội càng ngày càng trầm trọng. Lý do chia rẽ là từ lâu nay mọi người chỉ nghe theo một phía những (lời ngon, tiếng ngọt hứa hẹn đủ điều) gọi là truyền thông “Truyền Thống”. Theo triết gia Krishnamurti (Ấn Độ) - “Truyền thống chính là nỗi sợ hãi”. Bởi lo giữ khư khư truyền thống cố hữu mà ngần ngại lo sợ không dám thay đổi, không dám di chuyển, không dám dấn thân đi tìm cái mới, đi tìm sự thật.

Lý do thứ nhì:
     - Đó là “giới tinh hoa, khoa bảng” cảm thấy hụt hẫng, cảm thấy bẽ mặt vì một ứng cử viên tổng thống (gà mờ) không tên tuổi trong chính trường lên làm tổng thống. Từ đó họ gào lên “Ông Trump sẽ làm kinh tế Hoa Kỳ và thế giới sụp đổ”. Sự tự ty, tự ái đã làm mờ lý trí và họ vẫn giữ định kiến “không thích ông Trump”.

     Bây giờ nghe tổng thống Trump phơi bày bề trái tồi tệ, mỵ dân của những lời ngon ngọt ru ngủ hứa hẹn thì mọi người nghe quá chói tai, gai mắt, chói tai tới nỗi khó chịu dù đó là sự thật; sự thật bày ra trước mắt mỗi ngày. Bởi chói tai, gai mắt, cho rằng ông tổng thống Trump: Nói hàm hồ, Nói mất lịch sự, Nói không kiêng dè ai, Nói ngang ngược, Nói tá lả âm binh, Nói ba xí ba tú… và vu khống đủ thứ tội.

     Sự chia rẻ lắng xuống khi dân chúng “hồ hởi phấn khởi”, sung sướng hò reo ăn mừng hạ bệ được “Tổng thống Trump thất cử nhiệm kỳ thứ nhì”! Sự hồ hởi phấn khởi kéo dài chưa được bao lâu thì tai họa ấp tới, - nền kinh tế bắt đầu trì trệ, đồng dollar lạm phát, thất nghiệp tràn lan, tất cả các mặt hàng, thực phẩm tăng giá vùn vụt, đồng thời biên giới mở toang hoác cho di dân lậu tràn ngập quốc nội, thứ nữa covid hoành hành phải ở nhà, cộng với thiên tai, bão tố... Tệ hơn là nạn trộm cướp - tự tung tự tác khắp các thành phố như chỗ không người, - còn cảnh sát thì bị “mất quyền lực”; bị cắt giảm ngân sách. Đó là chưa kể đám “binh tôm, tướng cá” nổi lên cát cứ đòi - “đáng sống”; đòi phá thai, đòi thay đổi giới tính, đòi nam nữ xài chung phòng vệ sinh từ ngoài xã hội cho tới trường học. Đập bỏ tượng danh nhân lịch sử... Bổ báng thiên chúa… Còn nhiều kể ra không hết.

     Từ cổ chí kim chưa có một nguyên thủ nào phá bỏ hàng rào bảo vệ biên giới đem đi bán “ve chai”; cũng chưa có nguyên thủ nào mở tanh banh biên giới mời hàng chục triệu “di dân lậu” vô trong nước mà không cần đòi hỏi lý lịch và xuất tiền nuôi họ. Đại tá Hùng Cao nói: “Thời của tổng thống Biden người hạnh phúc nhất là di dân bất hợp pháp”. Đúng, di dân lậu được hưởng “An Sinh Xã Hội” đầy đủ, được ngủ trong khách sạn, con họ được đi học, họ được hưởng y tế miễn phí, họ được luật pháp bảo vệ, được quyền kiện chính phủ nếu chính phủ không đáp ứng yêu cầu của họ. Họ vi phạm pháp luật, cảnh sát cũng không dám bắt và truy tố.

     Có “Công Lý” ghi trong “Hiến Pháp”, ghi trong “Tu Chính Án”, nhưng không “Công Tâm” thực hành qua tòa án các cấp thì chẳng khác gì ngồi đè lên trên những “khế ước” đã viết ra từ ngày lập quốc.

     Tại sao nói không Công Tâm. Bởi lẽ tòa án (tư pháp) – làm một cuộc “săn phù thủy” ghép cựu tổng thống Trump trốn thuế trong kinh doanh với ba mươi bốn [34] tội, và chừng đó tội có thể bị tù tới (400 năm). Tòa án biết rằng không đủ chứng cứ để buộc tội. Tòa án New York tuyên bố “Unconditional Discharge”. Tạm dịch: (Giải thoát có điều kiện). Tại sao giải thoát (tha bổng) có điều kiện? Điều kiện gì? Có thể tự hiểu là “Án Treo Vĩnh Viễn”, khi nào cần thì mở án ra truy tố lại. Đây là một vết dơ trong nền tư pháp Hoa Kỳ đối với một cựu tổng thống và đối với một tổng thống đắc cử nhiệm kỳ thứ nhì! Đúng ra nếu tha bổng thì phải xin lỗi (xóa án) và bồi thương thiệt hại theo đúng nguyên tắc như vậy mới tỏ rõ “Thiện chí Công tâm”.

     Tục ngữ Việt Nam có câu “Có thực mới vực được đạo”. Bốn năm ông Trump cầm quyền, kinh tế phồn thịnh: Ví dụ: Xăng dầu giá rẻ, giá xăng dầu rẻ tất nhiên hàng hóa, thực phẩm, nông sản, du lịch và mọi sinh hoạt đều phát triển theo. Xăng dầu giá rẻ và ổn định nguồn sống trong dòng chảy kinh tế, tiền tệ - tạo ra công việc làm, giữ đồng tiền không lạm phát. Xăng dầu cũng như dòng máu lưu chuyển trong thân thể khỏe mạnh. Bất ổn về nhiên liệu là bất ổn xã hội.

     Chúng ta rất tự hào khi tổng thống Trump oai phong lẫm liệt như con sư tử ung dung chễm chệ bước qua khu vực phi quân sự “Bàn Môn Điếm” để gặp Chủ tịch Kim Jung Un với một vị thế của một nguyên thủ quốc gia cường quốc. Trước đó, các ông cựu tổng thống (Bush, Clinton, Obama) chỉ đứng xa xa lấy ống dòm, – dòm qua Bắc Hàn cho có lệ rồi quay về.

     Chúng ta rất tự hào có một tổng thống Hoa Kỳ Donald John Trump là người đầu kiên dám công khai chỉ trích “Đệ Tứ Quyền” truyền thông dòng chính là “Fake News”. Từ đó giới truyền thông xúm nhau đánh “bề hội đồng” ông lên bờ xuống ruộng nhưng không làm gì được ông. Và, cuối cùng họ phải trả tiền bồi thường vì vu khống ông không căn cứ.

     Nghĩ về quá khứ, từ “Sài Gòn cho tới Kabul”, cơn đau lịch sử vẫn còn nguyên vẹn cho tời ngày hôm nay (1975 - 2025). Phải chi lúc đó ông Biden ủng hộ Quốc hội thông qua $ 700 triệu Mỹ Kim thì miền Nam chưa dễ gì mất một cách nhanh chóng. Ngày nay ông Biden vung tay viện trợ hàng trăm tỷ Mỹ Kim cho Ucraina mà không cần quốc hội biểu quyết chuẩn thuận. Ông thích thì ông ký lệnh cho tiền chẳng ai cản nổi. Chiến lược toàn cầu (thù đó rồi bạn đó) của người Mỹ không ai có thể hiểu được.

     Nhớ lời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nói với đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge năm 1962 sau khi tổng thống Kennedy cho Lào trung lập năm 1961, rằng:
- Các ông nên nhớ đất nước chúng tôi có bốn ngàn năm lịch sử, không một chế độ nào đó đi theo quân đội ngoại quốc mà có thể được người dân ủng hộ. Các ông đưa quân đội vô miền Nam Việt Nam chúng tôi thì chúng tôi sẽ mất chính nghĩa, mà một khi đã mất chính nghĩa thì các ông sẽ thua và kéo chúng tôi thua theo”. Và hậu quả là cả Mỹ và VNCH đều thua! Lời của tổng thống Ngô Đình Diệm là lời “tiên tri” chính trị yêu nước bậc thầy.

     Tại sao (một số trong giới tinh hoa) người Việt tỵ nạn hải ngoại lại chống tổng thống Trump kịch liệt? Chẳng lẽ tại “Lý Do” vì Tổng thống Trump nói trước Liên Hiệp Quốc, rằng: - “Từ Liên Xô, tới Cu Ba, tới Venezuela, bất cứ nơi đâu mà Chủ nghĩa xã hội hay Chủ nghĩa cộng sản được áp dụng, nó đều mang tới sự đau khổ, tàn phá và thất bại”. Mà đụng chạm?

     Chửi bới tổng thống Trump bằng lời lẽ thô bỉ, khiếm nhã, vô giáo dục? Chửi mạnh nhất là các hãng truyền thông người Việt, như: “Little SG Radio, Hồn Việt TV, SBTN, VFTV, Báo Người Việt, Việt Báo…”. Còn về cá nhân (người có bằng cấp tiến sĩ, hay những vị sĩ quan trong quân đội VNCH) thì nhiều.

     Ông Văn sĩ, Ký giả - Sĩ quan không quân Thiếu tá Bằng Phong Đặng Văn Âu, ông viết rất nhiều bài Xã Luận phản ảnh thực trạng như sau:

     - “Đám người tỵ nạn - Đeo huy chương, kéo cờ lên, hạ cờ xuống, phủ cờ, xếp cờ, hát Quốc Ca, cúi đầu mặc niệm, rồi ngồi vào bàn dự tiệc thịnh soạn và ra sàn nhảy, nhảy đầm có tính cách nặng phần trình diễn, còn nội dung tranh đấu Chống Cộng thì hoàn toàn không, vì sợ đề cập đến vấn đề chính trị, gây đụng chạm!”

     - Nếu tỷ phú Donald Trump không đắc cử Tổng thống năm 2016, làm sao chúng ta biết được bọn làm truyền thông trong Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản có một lũ làm tay sai cho cộng sản mà nhà báo Chris Phan tiết lộ”. (Trích: Thư Cảm Tạ Nhà Bình Luận Vũ Linh – Diễn Đàn Trái Chiều của Tác giả: Bằng Phong Đăng Văn Âu).

     Chửi tổng thống Trump: bựa, là thằng, là Hitler, là độc tài, là thanh lọc sắc tộc, là thương tôn da trắng, là trốn thuế, là hiếp dâm, là làm mất dân chủ…”. Tổng thống Trump có: “Ân oán giang hồ” gì với mấy người vậy hử?

     Người miền Nam có còn nhớ mấy năm đầu cộng sản “Giải phóng miền Nam”. Người cộng sản kêu “Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa, là: Ngụy, là thằng, con, là bọn mày, Bọn mày làm tay sai bán nước cho đế quốc Mỹ để ăn bơ thừa sữa cặn”. Một số vị tướng tá, bỏ nước ra đi trước khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì làm gì được nghe cộng sản chửi. Chỉ có người Lính, quăng súng đầu hàng, người Công Chức ở lại đi tù gọi là “cải tạo” nhiều năm - thì nghe chửi trần ai khoai củ; nghe chửi miệt mài sương gió! Bây giờ các người tỵ nạn xài thứ chữ đó để chửi tổng thống Trump!?

     Chúng ta mất thể chế (Việt Nam Cộng Hòa), nhưng chúng ta không thể để mất - Tư cách, nhân cách; để mất một giai đoạn lịch sử máu xương đổ xuống cho quê hương tự do miền Nam. Dù gì thì cũng đã từng ngồi học dưới mái trường miền Nam tự do thân yêu phải không? Học hành không phải đóng học phí đồng nào phải không? Y tế miễn phí phải không? Đừng nghĩ, ở nước ngoài là muốn chửi ai thì mặc sức phịa ra đủ thứ lý do để chửi”. Điều răn thứ tám trong đạo Công giáo Chớ Làm Chứng Dối”. Vạ miệng cũng là nghiệp chướng, “thần khẩu buộc xác phàm”!

     Ngày trước, Tổng thống Diệm lập ngôi nhà đệ nhứt cộng hòa với hai bàn tay không. “Tài chánh, cảnh sát, quân đội thời gian đó còn do người Pháp nắm giữ”. Giới nhân sĩ, giới trí thức không giúp thì thôi, - (một số) người và đảng Đại việt, Quốc dân còn thành lập chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) để chống lại chính quyền lúc còn phôi thai; ghép tội “gia đình trị”. Người ngoài làm ngơ thì tất nhiên ông Diệm phải cậy nhờ người thân trong gia đình, đó là lẽ thường tình. Ngược dòng lịch sử vua Quang Trung đánh quân Thanh xong, nhà vua chia đất nước làm ba vùng để ba anh em cùng nhau cai trị. Lịch sử chưa hề phê phán vua Quang Trung là “gia đình trị”.

     Nhiệm kỳ thứ nhất của tổng thống Trump, cũng có vài người con trai, con gái của ông ra làm cố vấn, làm cộng sự cho ông Trump mà không lãnh lương. Cô Lara Trump là đồng chủ tịch đảng Cộng Hòa. Vậy thử hỏi rằng: Gia đình ông Trump có phải là “gia đình trị” không? Sao người dân Hoa Kỳ không lên án?

     Người Quốc Gia mất thể chế tự do phải đi tỵ nạn (tự thấu hiểu thân phận, trách nhiệm) chớ đừng đổ thừa tất cả cho Hoa Kỳ phản bội. Chính tổng thống Ngô Đình Diệm là người “Khai Quốc Công Thần”! Vậy mà, một số người viết sách luận tội Cụ Ngô Đình Diệm? Giậu đổ bìm leo, không hề nhớ chính Tổng thống Ngô Đình Diệm đã gắn lon, phong chức cho bản thân. Nhân bất khả vô sỉ”. Nghĩa là: (Làm người mà không biết xấu hổ là không phải người). Và: “Thắng, phải thắng cho quang minh chính đại. Thua, cũng phải thua cho cốt cách”. Ngạn ngữ Pháp: “Con người là sinh vật mau quên”. Quả không sai đối với người uống nước quên nguồn. “Ẩm thủy tư nguyên”!

     Có một ông tỵ nạn, (tự giới thiệu) tốt nghiệp “Học Viện Hành Chánh Quốc Gia”. Năm 2024 ông có gửi cho Trang Y Hạ một đoạn văn qua tin nhắn. Nguyên văn như sau:

     “Tôi đọc văn thơ của Trang Y Hạ nhiều lắm. Anh viết rất hay và viết với một tấm lòng chân thật, từ ái, khiêm tốn và nhất là yêu nước; tuy nhiên, Anh nên dè dặt, thận trọng, khách quan khi viết về chính trị” bởi người ta làm chính trị với cái đầu chứ không phải với con tim" (On fait de la politique avec la tête et non avec les autres parties du corps ou de l'âme / We do politics with the head and not with other parts of the body or soul). Tách riêng, Ông Ngô Đình Diệm là một người tốt, đạo đức, nhân ái, yêu nước, là một nhà hành chánh liêm khiết, một vị quan gương mẫu, nhưng Ông Diệm không phải là một chính khách (stateman) hay chính trị gia (politician) vì Ông Diệm không có tầm nhìn chiến lược. Nếu Ông Diệm không mang tham vọng xây dựng một triều đại Ngô-Đình thay thế cho vương triều Nguyễn-phúc mà thực hiện: 

    Một: - Khoan hay đừng tiêu diệt hết Cao Đài, Hòa Hảo, Quốc Dân Đảng, Đại Việt khi chính quyền quốc gia chưa (và không thể) có đủ lục lượng nhân sự thay thế họ (giáo phái, chính đảng) để giữ gìn trị an tại xã ấp thôn quê nhằm chống lại Việt Cộng nằm vùng. 

    Hai: - Tôn trọng thể thức sinh hoạt dân chủ, chỉ làm Tổng thống hai nhiệm kỳ, chấp nhận một thiểu số Dân biểu đối lập trong Quốc hội của các tôn giáo và đảng phái. 

    Ba: - Mỹ nản lòng và bỏ VNCH vì "tất cả / all" những người lãnh đạo VNCH (1954-1975) đều không có tinh thần tôn trọng sinh hoạt dân chủ mà tệ hại nhất là từ Tổng thống Ngô Đình Diệm. 

    Bốn: - Với trình độ Trung học Đệ nhất cấp (Đệ Tứ) và không học chữ Nho, Ông Diệm KHÔNG CÓ VĂN TÀI đâu nên Anh Trang Y Hạ đừng gán bài thơ HOÀI BẢO đó cho Ông Diệm là tác giả. Đấy là một bài thơ của một nhân sĩ khác (Nguyễn Sĩ Giác) rồi được thay đổi vài chữ mà ý thơ mâu thuẩn nhau: Đến bến không có thuyền, không có lái thì lấy gì để nêu bến nhằm đợi nước trong? Tôi rất quý tấm lòng lương thiện của Anh Trang Y Hạ. Ông Nhu KHÔNG CÓ TÀI GIÀ CẢ ngoài một mớ kiến thức khảo cổ. Mỹ đã cảnh cáo hai lần bằng bạo lực chính trị qua đảo chánh ngày 11-11-1960 và bỏ bom Dinh Độc Lập của Đảng viên Quốc Dân Đảng Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc năm 1962 mà việc phòng vệ thủ đô quá trống trải như vậy trong biến cố 1-11-1963. Chỉ có hai Tiểu đoàn thiện chiến mà đã chiếm lãnh toàn bộ lãnh thổ chính trị thủ đô chứ Sư đoàn 5 của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu chưa đặt chân lên lãnh thổ Sài Gòn và Chợ lớn (chỉ còn ở lãnh thổ Gia Định để nếu thuân lợi thì làm lực lượng "cách mạng," nếu bất lợị thì làm lực lượng cứu giá!). Tuy nhiên phải ghi nhận cả hai, Ông Diệm và Ông Nhu là những người liêm khiết, yêu nước, mặc dầu không có tài "Trị Quốc." Ông Diệm là một nhà hành chánh tận tụy với dân, với nước. 

     Nhưng ... gia đình Ông Diệm PHÁ NÁT VIỆT NAM CỘNG HÒA, TÀN ÁC với dân Miền Trung, THAM NHỮNG, BẦN TIỆN bằng cách giết người trong việc cạnh tranh kinh doanh. Không thể vì thương Ông Diệm mà nói rằng Ông Diệm không có trách nhiệm. Làm nguyên thủ quốc gia mà để cho một Ông Anh và một Thằng Em phá nát quốc gia như thế thì đâu có tài lãnh đạo đất nước. Tôi rất quý tấm lòng của Nhà văn Trang Y Hạ.”
Trần Việt L.

     Tôi nói thật, nếu là “Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh” thật, thì không thể viết bừa bãi như vậy. (Ông cho biết là người Quảng Nam, gia đình theo đảng Đại việt, quốc dân đảng, năm nay đã tám mươi [80] tuổi). Tự nhận là người khoa bảng mà viết văn bất nhất (lúc khen, lúc chửi) gọi: “Thằng em (ông Nhu) phá nát quốc gia; Ông Diệm Phá Nát Việt Nam Cộng Hòa; Ông Diệm Tàn Ác; Ông Diệm Tham Nhũng, Bần Tiện; Ông Nhu Không Có Tài; Ông Diệm Không Có Văn Tài, Ông Diệm và Ông Nhu không Có Tài”.

     Xin mời ông Trần Việt L xem qua thành phần chính phủ của nền Đệ Nhứt Cộng Hòa để thấy rõ chính phủ Ngô Đình Diệm: - Có tài hay không có tài? - Có đàn áp giáo phái hay không?

   NỘI CÁC CHÍNH PHỦ NỀN ĐỆ NHỨT CỘNG HÒA
Gồm: 18 Bộ Trưởng:
- Người bên Phật giáo giữ : 8 Bộ trưởng
- Người bên Công giáo giữ : 5 Bộ trưởng
- Người bên Khổng giáo giữ : 5 Bộ trưởng
Cấp tỉnh có: 38 Tỉnh:
- Người bên Phật giáo giữ : 26 Tỉnh trưởng
- Người bên Công giáo giữ : 12 Tỉnh trưởng
Tướng lãnh có 16 tướng:
- Người bên Phật giáo : 13 Tướng
- Người bên Công giáo : 3 Tướng
Chánh Văn Phòng Tổng thống Ngô Đình Diệm:
- Ông: Võ Văn Hải. Người Phật giáo
Chánh Văn Phòng Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu:
- Trung tá Phạm Thư Đường. Người Phật giáo.
(Nguồn: Thư Viện).

     Tình hình miền Nam (loạn sứ quân) lúc đó. Điều hành quốc gia muôn vàn khó khăn, nhất là buổi ban đầu dựng nước! Dù gì thì hai Cụ cũng đã chết, bia mộ của hai Cụ không được ghi tên (cúng cơm) từ năm 1963 cho tới hôm nay và chẳng một ai thăm viếng nhang khói! Ông lại hù dọa tôi “Anh nên dè dặt, thận trọng, khách quan khi viết về chính trị”. Xin thưa: Tôi đã viết “Hồi Ức Về Tổng Thống Diệm”!

     Năm nay (2025) là tròn năm mươi năm [50] mất miền Nam tự do! Vậy mà một số người quốc gia tỵ nạn vẫn còn hằn học thù hận “lịch sử”! Lịch sử của một thời tự do mà chính họ đã sống ở trong vòng tay của lịch sử thân yêu đó. Buồn và đau xót lắm thay!

     Xin hãy Công Tâm với lịch sử! “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục. Tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Thi sĩ: (Gamzatov, thuộc quốc gia Daghestan).

     Một số sử gia có lương tri, viết về “Nền Đệ Nhứt Cộng Hòa” với lòng chân thành và tôn trọng sự thật. Tôi giới thiệu hai cuốn sách sau đây mà tôi đã mua: “THIÊN MỆNH KHÔNG CÒN” (Hoa Kỳ Phản Bội Tồng thống Việt nam Ngô Đình Diệm). Tác giả: Giáo sư đại học (GEOFFREY D. T. SHAW). Nhà xuất bản tiếng Anh: IGNATIUS FRESS SAN FRANCISCO. (Bản dịch tiếng Việt: Decency & Clarity, Inc.).Và, cuốn “ĐỜI MỘT PHÓNG VIÊN & NHỮNG NGÀY BÊN CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM (Tái bản lần thứ 10). Tác giả: Văn Bia (Nhân Ảnh Xuất Bản 2018).

     Một người lính, quên lời thề: “Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm”, ném bom thủ đô (Dinh Độc Lập) mà tự hào sao? Giết người đã xây ngôi nhà tự do để có chỗ tá túc mà tự hào sao? Giết vị nguyên thủ công chính và yêu nước mà tự hào sao? Tổng thống Ngô Đình Diệm, nói: Nếu Việt-cộng thắng, thì quốc gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-Hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc-tài của một bọn vong-bản vô gia-đình, vô tổ-quốc, vô tôn-giáo”. (Trích: diễn-văn buổi khánh thành đập Đồng Cam (Tuy-Hòa) ngày 17.9.1955).

     Thánh Phaolô nhắn nhủ với cộng đoàn (Cô-lô-xê 4,6): "Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối đáp sao cho phải với mỗi người. Trước khi nói, tự hỏi lời sắp nói có đúng không? Nó tử tế không? Nó có cần thiết không?

     Tổng thống Donald John Trump nêu khẩu hiệu “MAGA” – (Make America Great Again) cả một tâm lòng yêu nước, cũng vì làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại mà ông bị cả một guồng máy “đối lập” đánh tơi bời hoa lá trong mấy năm qua! Nếu Hoa Kỳ không mạnh lên thì nền tự do dân chủ sẽ mất. “Nếu đất nước này mất tự do, chúng ta sẽ không còn một nơi nào trên trái đất để chạy trốn”. (Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan). “Nếu mất tự do ngôn luận con người sẽ như một bầy cừu bị dẫn tới lò sát sinh”. (Tổng thống Washing ton).

     Người tỵ nạn chỉ là - Người Có Quốc Tịch” chứ không phải là công dân đích thực của quốc gia sở tại. Đừng tự hào ta là con của thượng đế vỗ ngực xưng tên “Mày biết bố mày là ai không?” trên vùng đất tạm dung thân!

     Lâu nay những hãng truyền thông dòng chính, những nhà tỷ phú Mỹ họ vốn không mấy ưa thích tổng thống Trump, thì nay họ đã nhận ra đâu là Chính Nghĩa đâu là Tà Quyền và họ đã quay đầu trở lại nhiệt tình ủng hộ tổng thống Trump. Ví dụ: - Amazon, - CoCa Co-La, - Tim Cook, tổng giám đốc đại tập đoan Apple, - Jeff Bezos của Washington Post, - Mark Zuckerberg của Facebook, - Sam Altman của AI ChatGPT, - Google, - Twitter… Và, còn rất nhiều tập đoàn kinh doanh lớn và tỷ phú Mỹ cũng đã phấn khởi tặng tiền cho tổng thống Trump trong ngày đăng quang nhậm chức. Đó có phải là: “Hữu xạ tự nhiên hương” hay không?

Hãy nghe Ông Donald J. Trump nói:
     - "Chưa bao giờ có một Tổng thống nào bị đối xử tàn ác và bất hợp pháp như Tôi. Các thẩm phán và công tố viên Đảng Dân chủ tham nhũng đã chống lại đối thủ chánh trị là một Tổng thống như Tôi, ở mức độ bất công chưa từng thấy trước đây. Những thẩm phán tham nhũng, hoặc những thẩm phán mù quáng trước lòng căm thù của họ đối với tôi và hệ tư tưởng chánh trị của tôi để “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”

     Và: Tổng Thống Trump từng tuyên bố: "Nếu bạn đến Mỹ từ một quốc gia khác và cố gắng mang - chủ nghĩa thánh chiến, - chủ nghĩa bài Mỹ - chủ nghĩa bài Do Thái vào trường đại học của chúng tôi, chúng tôi sẽ ngay lập tức TRỤC XUẤT bạn." . Và tổng thống Trump kêu gọi hủy bỏ ngay lập tức tất cả các chương trình "Lý thuyết chủng tộc quan trọng trong trường học. Bởi sự hùng mạnh của nước Mỹ, không phải xây dựng trên sự thù hận!" .

     Cuối cùng, là xin các ông bà tỵ nạn làm truyền thông - các vị muốn viết thì cứ viết, nói gì thì cứ nói - nhưng tuyệt đối đừng nhân danh ai, đừng diện cho ai - bởi các vị không có quyền gì để “nhân danh và đại diện” (Người Việt Hải Ngoại). Quý vị hãy tự xác nhận “tọa độ” đang đứng ở đâu nơi xứ Hoa Kỳ nầy.

     “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. (Thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu)

     Xin mượn hai câu Thơ cổ để bày tỏ tâm lòng. “Hoàng hoa linh lạc vô nhân khán, Độc tự khuynh tâm hướng thái dương”. Tạm dịch thơ: (Hoa vàng rụng thế nhân nào đâu thấy. Một thân trơ lặng lẽ ngóng bình minh).

Trang Y Hạ
Nước Mỹ và người Mỹ đoàn kết vui mừng ngày nhậm chức của tổng thống Donald J Trump ngày 20.1.2025.



1/1/25

UỐNG RƯỢU VỚI THI SĨ THÁI DIỄM

 



UỐNG RƯỢU VỚI THI SĨ THÁI DIỄM

    Một nửa trăm-năm hồn-sử-lịch,
    xác còn nguyên-vẹn ngắm thời-qua. (1975 – 2025).

Sương thiên-cổ trận bày vây kín cổ
tiền-nhân gương rọi ngực bới tuổi tên
thủy-đài mọc ám thần mờ phế-tích
không gian xưa lưu dấu ấn sấm rền.

Chân mỏi rớt in hình thiên-lý sóng *
lọt xuống sàng lất-phất nửa chòm râu
gió ngao-ngán quay lơ mò lạc hướng
sa-mạc mưa ngập tóc bạc đen màu.

Hung-Nô đất, thương chi cô Thái-Diễm
Đồ-Bàn thành, đâu nhớ gái Huyền-Trân
cầm đôi đũa văng vẳng hồn Ất-Dậu
Mậu-Thân tan xác Huế máu ngập tầng.

Cối-Kê thất gối nằm-gai-nếm-mật
nước nhà tan, Câu-Tiễn tự huỷ thây
ngóng về Sở, Tử-Tư phò lộn chúa
hận lưu-vong chưa trả món nợ nầy.

Nam-Quan-Ải đè sĩ-phu xa vắng
Nguyễn-Trãi gan hú rủ tụ Lam-Sơn
Lệ-Chi-Viên cảo-nhân gây oan-nghiệt *
trách “mưu sâu kế bẩn” phủ oán hờn.

Lương thời buổi huy-hoàng đâu còn giữ
kích-trầm-sa, Hỏa-Diệm ngóng Ba-Tiêu
mảnh nguyệt tỏ gươm cùn đâu để dũa
dụi mắt chờ, ngáp-ngáp hứng thủy-triều.

Tầm tấm bảng chỉ đường trèo vách đá
soi Tử-Phòng lượm dép giữa dòng sâu
Bách-Lý-Hề ngự lưng trâu huých sáo
có mong chi phú-quý đợi công hầu.

Già-hồ-phách, cuồn-cuộn Thập-bát-phách
rung tầng mây dồi-dội đất Hán-Trung
chim én vội bắn tin vui đất trích
biền-biệt quê, quê hoan hỉ trùng-phùng.

Từng giai-tác ghì đêm thâu quên sáng
trướng-huỳnh soi ngọn “Bút-hạ-sinh-hoa”
ôn, ôn thủa ngâm ao trời nước vũng
đêm âm-thầm thổ-lộ nến nhợt-nhòa.

Sao xứ lạ ngậm “Tiếu-nhi-bất-ngữ’
nửa trăm năm, biết dài nữa hay thôi
ôm nét chữ, giữ “Lưu-phương-bách-tuế”
đường trần đi, đường bày sẵn lõm-lồi.

Tâm nhẹ hẫng đã mấy lần phiên-phiến
nhuận-sắc đời, nâng đời đẹp rừng hoa
tia nắng chở, chở hương ngàn điểm-xuyết
ngọc trong xanh, lầm-lỡ trót vi-hà.

Tửu đầy tĩn y nguyên đà chếnh-choáng
nét chữ vui xúi cây viết rung-rinh
thơ cổ nhạc vẽ dung-nhan Thái-Diễm
cảm người xưa đối ẩm bóng với hình.

Trang Y Hạ

Cước chú:
*- Nữ Thi Thái Diễm (177 – 249). Còn gọi là Sái-Diễm. Tự: Văn Cơ. Chiêu Cơ.
*- “Lạc bến mái chèo khua viễn-xứ,
Triều dâng con quốc vọng đêm sương.” (Trang Y Hạ).
*- “Ngoài năm mươi tuổi ngoài chân thế,
Ắt đã tròn như nước ở bầu.”. (Nguyễn Trãi).

LỜI GIÓ MƯA:

     Thấm thoát mà đã tròn năm mươi năm (50). (Tròn nửa thế kỷ thì quá bình thường không có gì phải đề cập). Tuy nhiên, nửa thế kỷ – đối với lịch sử là đã có biết bao sự kiện cần phải kể lại; phải nhớ lai. Từ năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm 1975], người (Miền Nam Quốc Gia mất đi Chính Thể Tự Do, Hợp Pháp, Hợp Hiến và có Liên Hiệp Quốc công nhận). “Mất nước là mất tất cả”, bị tù đày, mất Tư-Hữu-Ruộng-Đất, sống lưu vong trên chính mảnh đất tổ tiên; sống lưu vong trên khắp thế giới… Những mong đất nước “thống nhất về địa lý” sẽ “Hóa hổ, Hóa rồng” - dù đất nước đang đi theo “Kinh Tế Thị Trường Tư Bản Tự Do” (WTO) do Hoa Kỳ chủ trương. Đi theo kinh tế “Tư Bản” là đi theo kinh tế miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) ngày xưa. Việt Nam Cộng Hòa “chôn rồi mà chưa chết”. Vui hơn nữa là “Nền Âm Nhạc Quốc Gia miền Nam” không phôi phai mà ngược lại còn in đậm trong tâm khảm.

     Từ sau một ngàn chín trăm bảy mươi lăm [1975], phe cộng sản miền Bắc gán tội cho âm nhạc miền Nam là: “Nhạc ủy mị, nhạc đồi trụy, nhạc phản động” và cấm hát. Họ gom chung các nhạc phẩm là nhạc Boléro. (Họ không hiểu Boléro chỉ là điệu nhạc trong các điệu nhạc), như: Tango, Bolero, Val, Slow, Slow Rock, Cha Cha Cha, Rumba, Lambada, Pasodoble, Blue… Điệu nhạc Boléro vốn xuất phát từ Tây Ban Nha, sau đó tràn vào Cu Ba, được nhạc sĩ (Jose Pepe Sanchez) người Cuba phổ biến. Điệu Boléro tràn vào Việt Nam từ những năm một chín năm mươi [50] và biến thể theo phong cách nhạc Việt. Nhạc sĩ Trúc Phương với các nhạc phẩm nổi danh từ điệu nhạc Boléro. Nhạc phẩm hay của Boléro, đó là ca khúc “Bésame Mucho” (do nghệ sĩ Mexico Consuelo Velázquez, 1932). Nhạc phẩm được (Nat King Cole, Frank Sinatra và The Beatles cover) trình diễn. Điệu nhạc bolero của Cuba và Mexico được UNESCO vinh danh năm 2023.

     Trong "The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói:
- "Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh tái diễn lịch sử".
     Trang Y Hạ. Kính chúc: Ông, Bà, Anh, Chị, Em…! Năm mới (2025) – Một năm mới: - Tràn Đầy Sức Khỏe & Hy Vọng!




17/12/24

MƯA SAN FRANCISCO

 



MƯA SAN FRANCISCO

Cà-phê nóng lạnh tanh tràn phế-phủ
mưa rủ đông rưới du tử ướt mèm
giấu run-rẩy tay nhăn nheo ấp-ủ
mặt đường vui tắm gội sạch lấm-lem.

Ngã-tư dốc mây đen đâm vô quán
đoàn âm hồn gõ tường kiếng hỏi thăm
cột đèn cóng châu thân dường loạng-quạng
quán lơ-ngơ, biết ai đó chống cằm.

Ông bạn thủa trót già, tự dưng trẻ
bỏ chỗ ngồi theo nhịp bước quân-hành
bàn than-thở mỗi mỗi ngày trống ghế
ghế ngậm sầu nuốt sương đọng tàn canh.

Mưa gặp hội lấn-lướt mưa mưa miết
phố quen quen lạ lạ phố trơ trơ
thọc vô túi mò mò tìm cây viết
chạm mềm mềm lớp tuổi mộng xa mờ.

Gió cắt-cớ hất tung trang sử-lịch
nhòe-nhoẹt hình nét chữ tội tình quê
lửa hy-vọng dội trời tia phấn-khích
sá chi đông lý-lắc phủ tư bề.

Ẩm-thấp mộng rêu phong mờ xưa trất
chèo-queo thân ngẫm-nghĩ khối âm-u
phành gia-phả té ra đà dị-tật [1]
thắp từ tâm, ngọn nến níu đèn-cù.

Ông lang-bạt kéo gia-tài lỉnh-kỉnh
trốn thần mưa dựa tường kiếng nghê-nga
gió cà-rỡn hòa-âm thanh tịch-mịch
hai cảnh đời gần quá hóa nhạt-nhòa.

Đưa tay vuốt tóc nâu cô starbucks
mắt xanh lơ, ngỡ hột nhãn long-lanh
vội mừng quýnh chân tay con lật đật
bão đáy sâu xuồng kỷ-niệm tròng-trành.

Mưa nhìm-nhịp oằn gánh đời oằn thấp
ngóng cố-hương lúa vàng ngập mênh-mông [2]
cha hối-hả ngược xuôi chân mải vấp
mẹ lăng-xăng té úp mặt xuống đồng.

Ngồi sờ-sẫm, vân-vê cô starbucks
mưa siêng-năng kỳ cọ tháp-giáo-đường
thông đứng thẳng xót đời thông lây-lất
một thân chờ thế-sự vẽ mấy chương.

Trang Y Hạ
Mùa đông:
Ngắm mưa, vọng Giáng Sinh
với lão bạn tù già Trần Phước Hân.
Cước chú:
- [1] -“Bạch ngọc vi hà”. (Viên ngọc trắng có tỳ vết).
- [2] - Nam vọng thần loan hà xứ thị,
Hy luân nhất phiến dũng thương lang”.

(Ngó về Nam, xe vua ở phương nào,
Chỉ thấy mặt trời nổi lên trên biển xanh).
Trích “bắc quy quá Cổ Phao tự”.
của (Trần Danh Án, 1754 –1794).



22/10/24

LY BÔI

 



LY BÔI

Trang Y Hạ

     Ly bôi, là chén rượu cùng nhau uống lúc chia ly (ly là chia ly, bôi là cái chén để uống rượu). Theo [bộ giác] chữ “thương” cũng là cái chén để uống rượu. “Phủng thương thượng thọ”. (Nâng chén rượu chúc thọ). Và, Trường Ca của Khuất Nguyên (Thời Chiến Quốc), gồm 373 câu Ly Tao. (Ly - là chia ly. Tao - là buồn rầu lo lắng). Tao cũng là (hèm rượu). Từ đó “ly tao” cũng đồng nghĩa với “ly bôi”.

     Vậy “ly bôi” là nâng chén rượu uống lúc Biệt Ly. “Biệt ly nhớ nhung từ đây, chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay” * . Biệt ly - nỗi buồn kẻ ở người đi - người đi ra ngoài ngàn dặm quan san bằng chén rượu tiễn đưa trong cảnh lưu luyến không muốn rời. Chén rượu tiễn đưa không chỉ là ở các đấng nam nhi mà còn in đậm trong tình yêu, tình vợ chồng: Đoạn thơ tài tình tả rất thực, rất cảm động lúc bịn rịn chia ly của hai người: (Thúc Sinh và Nàng Kiều):

  “Người lên ngựa kẻ chia bào,
      Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san.
      Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
      Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
      Người về chiếc bóng năm canh,
      Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
      Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
      Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”. (Nguyễn Du).

     Thi hào Vương Hàn (Vương Hàn (687-735) với bài thơ “Lương Châu Từ” cũng đã để lại trong lòng người một nỗi buồn não nuột, não nùng khi phải uống vội vàng chén rượu để ra chiến trường:

       “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
      Dục ẩm tỳ bà mã thương thôi
      Túy ngoại sa trường quân mạc tiếu
      Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. (Vương Hàn).

Tạm dịch:
      (Rượu bồ đào, chén dạ quang
      Uống nhanh lên ngựa tiếng đàn giục đi
      Say nằm chiến địa cười chi
      Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về)! *

     Tuy nhiên, không phải lúc nào ly bôi cũng để chỉ chúc cho những người tráng sĩ đi ra chiến đấu ở ngoài sa trường. Có những chén rượu mà người tráng sĩ rót ra để mời: - Mời người vợ, người mẹ, người cha, người anh em ruột thịt bị chết và được vùi lấp sơ sài nơi vùng chiến địa. Tại mặt trận An Lộc – Thị Trấn An Lộc năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Một người lính địa phương tử thủ trong suốt thời gian bị vây hãm. Vợ con của người lính bị đạn cộng quân làm sập ngôi nhà và họ bị chết hết. Người lính đặt tấm hình của vợ trên mộ bia và cầm bi đông rót chung rượu tiễn linh hồn người vợ yên nghỉ nơi miền cực lạc. Người lính chỉ còn biết nhờ chung rượu nồng ấm nói thay cho tình vợ chồng đã nồng ấm bởi không còn giọt nước mắt để khóc.

     Thử tìm hiểu, rượu từ đâu mà có? Từ thời thượng cổ con người còn ăn lông ở lỗ chỉ biết săn bắn, hái cái cây ăn để tồn tại. Trái cây trong rừng quá nhiều ăn không hết chín rụng thành đống, thối rữa lên men nước chảy ra đọng thành vũng các loài thú hoang ngửi mùi thơm hăng nồng xúm nhau uống và say, cả con voi to lớn nhưng khi uống loại nước hăng nồng đó rồi cũng say đi nghiêng ngả.

     Con người từ khi đã biết dùng lửa, biết canh nông - đó là giai đoạn biết chưng cất rượu, làm men rượu. Men rượu làm bằng bột gạo ngào trộn với các loại thảo mộc [thuốc Bắc] giã nát vo tròn ủ kín. Thảo mộc gồm: cảm thảo, xuyên khung, uất kim, tiểu hồi, bạc hà, nhục đậu khấu, bạch truật, cam thảo… Người Trung Hoa có nhiều loại rượu nổi tiếng với những cái tên nghe rất kêu, như:

     (Động Đình Xuân Tửu – Kiếm Nam Xuân Tửu – Tường Vi Lộ Tửu – Hồng Lộ Tửu – Trúc Diệp Thanh Tửu – Ngũ Gia Bì Tửu – Nữ Nhi Hồng Tửu, còn có tên khác (Hoàng Tửu Thiệu Hưng) – Mao Đài Tửu…!).

Người Việt cũng có nhiều loại rượu nổi danh, như:

     (Kim Long Tửu - Mẫu Đơn Tửu – Kim Sơn Tửu – Bàu Đá Tửu – Gò Đen Tửu – Phú Lễ Tửu…)!

     (Kim Long Tửu, Loại rượu nầy thuộc vùng Quảng Trị đưọc người Pháp ưa chuộng, đã xuất cảng về Pháp và các quốc gia Châu Âu).
Ngoài ra: Ngày xưa còn có các loại rượu chưng cất để dành riêng cho vua chúa uống, gọi là Ngự Tửu. “Hoàng Triều Ngự Tửu”, là thứ rượu ngon dành riêng vua chúa uống. “Ba tuần ngự tửu, hai cành cung hoa” (Nhị Độ Mai). Thời xưa, quan tướng có công với vua, với nước đều được vua ban “Ngự Tửu” thưởng công! Tuy nhiên, không phải lúc nào được uống Ngự Tửu của vua ban cũng là vinh dự mà ngược lại (đôi khi) - đó là loại rượu ngâm độc được, uống vô hộc máu chết ngay tại chỗ.

     (Phương Tây biết tới rượu theo “Thần Thoại Hy lạp”.
      Phương Đông biết tới rượu từ “Hội Bàn Đào Tây Vương Mẫu”).

RƯỢU VỚI ĐÔNG Y:

     Thời Tam Quốc, có thần y nổi tiếng Hoa Đà đã dùng rượu và thảo mộc chế ra thuốc gây mê có tên là “Ma Phi Tán”, thuốc nầy khi uống vô làm cho người được “giải phẫu” ngủ say mê không biết đau. Thần y Hoa Đà đã từng chữa bệnh cho nhiều người có địa vị cao quý trong thời của ông, như: Quan Công, Tào Tháo, Lữ Bố, Trần Đăng… Cuối cùng ông bị Tào Tháo bỏ tù và chết ở trong tù. Sách thuốc của ông cũng thất truyền từ đó. Ông còn dùng rượu để ngâm dược liệu vì theo quan niệm Đông Y rượu dẫn thuốc nhanh [nếu biết uống rượu] và ngâm rượu với dược liệu để xoa bóp... Từ đó cho tới nay người ta dùng rượu ngâm thuốc chẳng những ngâm thuốc chữa bệnh mà còn ngâm nhiều loại hoa quả tạo ra nhiều loại rượu rất thơm ngon. Theo Tây Y thì lại cho rằng, rượu bia không tốt cho sức khỏe, các bác sĩ cấm uống bia rượu và khuyên đừng uống bia rượu.

RƯỢU VỚI BẠN HỮU:

     Bạn hữu mỗi khi gặp nhau - hạp tính tình, hạp tính cách - hơn nữa lại cùng một ý hướng [lý tưởng] thì dù xa xôi cũng tìm tới hàn huyên nâng chén uống tới mềm môi vẫn chưa say - dù có say cũng chỉ là say nghĩa, say tình bởi đó là “tri kỷ”, còn nếu như biết đờn, biết ca thì xem như “tri âm” - Bá Nha & Chung Tử Kỳ.
"Rằng: "Nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ"
Kiều (Câu 463 - 464)

Bài: Xuân Nhật Tây Hồ Ký (Âu Dương Tu).

     “ Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
     Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
     Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
     Năng ức thiên nhai vạn lý nhân”. […]

Dịch thơ:
     (Gặp bạn hiểu nhau ngàn chén ít
      Chuyện trò không hợp nửa câu dư
      Mới biết trên hồ cầm chén rượu
      Nhớ người vạn dặm buổi tạ từ.). *

     Và, cũng có khi chén rượu làm tan rã nghĩa kim bằng bởi một vài nguyên do chính trị không thể dàn hòa, hoặc hai bên chiến tuyến phải đối địch... Trong “Thuyết Đường”. Bài “Tống Tửu Đơn Hùng Tín”, có câu: “Chén rượu xưa kết tình bạn hữu, ly rượu nay dứt nghĩa kim bằng”. Người xưa nói: “Rượu tình, rượu nghĩa”, cho dù là như vậy, nhưng cũng phải tùy nơi, tùy cảnh, tùy trình độ hiểu biết và tha nhân...

     Ngoài ra, tửu lượng mỗi người mỗi khác, có người uống vài ba tĩn chưa say, có người uống vài ngụm đã say lúy túy nói năng mất kiểm soát.... Tính cách uống rượu cũng khác nhau, có người khi rượu vào thì nói huyên thuyên chẳng cho ai nói và cứ cho ý kiến của mình là đúng; có người rượu vào thì lại khóc lóc kể lể như con nít; có người rượu vào thì gây sự với bất cứ ai kể cả vợ con, cha mẹ, anh chị em, cô chú bác hàng xóm; có người khi rượu vào thì ngồi trầm ngâm tư lự, đuổi ruồi không bay; có người khi có rượu vào thì ngâm thơ, ca hát, kể đủ thứ chuyện rất vui!

     Người xưa nói mượn rượu giải sầu “Dục phá thành sầu duy hữu tửu”. Chỉ có rượu mới giải được nỗi sầu, như: “Sầu thất tình, sầu cuộc đời đổi trắng thay đen, sầu thất chí bởi thi rớt, sầu vì nợ nần, sầu vì vợ ốm con đau, sầu vì bị phản bội, sầu bị kẻ khác vu oan giá họa, sầu vì bị tù đày vô lý, sầu bị mất nươc, sầu vì ế chồng, ế vợ, sầu vì nghèo, sầu vì chiến tranh…”. Sự buồn rầu có căn tính, mãn tính như vậy thì dù có mượn chén rượu “giải vây” cũng chỉ là tạm thời - “Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu. Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu” (Rút dao chặt nước nước càng chảy. Nâng chén tiêu sầu sầu càng sầu). (Lý Bạch).

     Mượn rượu giải sầu càng sầu, một khi tỉnh rượu lại càng sầu thêm, bởi rượu là chất men (cồn) sẽ tan biến, còn nỗi buồn thì vĩnh viễn. Người buồn uống rượu càng nhiều sẽ làm tê liệt thính giác. Do tê liệt thính giác nên chính người say rượu khi phát âm họ không kiểm soát được tầng suất âm thanh quá lớn của họ, mà họ cứ nghĩ là mình đang nói chuyện bình thường. Phần nhiều kẻ say rượu họ cần phải nói lớn tiếng, nói lớn tiếng mà không biết rằng mình đã nói lớn tiếng. Người ngồi chung bàn cảm thấy khó chịu với tiếng hét chói tai đó tất nhiên phải phản ứng. Phản ứng cho dù là phản ứng lịch sự, tế nhị thì cũng bị cho là xúc phạm. Vậy là sinh ra cãi lộn ở nơi bàn nhậu - đôi khi mất bình tĩnh dẫn tới đánh đấm, xô bàn, đạp ghế - gây thương tích trầm trọng và mất mạng. Người say không kiểm soát được tư cách hành động lời nói dẫn tới mất luôn cả nhân cách.

RƯỢU VỚI THI NHÂN:

     Thi nhân, hầu hết họ là người học thức, có nhận thức, có hồn thơ lai láng nên trong tâm hồn luôn xao động như ngọn sóng lăn tăn trên mặt hồ với những chiếc lá vàng rơi trong làn gió nhẹ, cũng có khi giấu kỹ uẩn khúc nhân sinh quan quặn thắt mà đành chịu đựng để giải bày qua ngôn ngữ của thơ. Chung rượu, đối với thi nhân chỉ là chất cường toan pha loãng cháy ngầm - khơi dậy một cõi rất riêng lung linh huyền ảo mơ mộng và thực tại gào thét rồi từ đó cho ra: “Tài Tình”. Tài tình hay hơn cả “Thơ Tình”. Chính thi hào Nguyễn Du đã nhận thức cái “tài tình” đó qua câu thơ:
Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Thơ Tài Tình Hoàn Toàn Khác Với Thơ Tình.

     Đọc Truyện Kiều chắc ít ai nhận ra câu thơ “Tài Tình” của đại thi hào Nguyễn Du “Một gian nước biếc mây vàng chia đôi”. Câu (2419).

     Tài tình không phải tự nhiên mà có tài tình. Tài tình thuộc về “Siêu Nhiên” là của trời ban cho. Tài tình giỏi hơn tài ba. Có thể hiểu, đó là “Nhận Thức”. Nhận thức (Cognition và Cognition affluence) - sự giàu có về nhận thức - siêu giác quan (ngoài giác quan). Chính nhận thức đẻ ra kiến thức. Thơ tình chỉ là một mảng nhỏ thậm chí rất nhỏ ở trong tài tình. Không phải ai cũng nhận thức để được tài tình, nhận thức là dự cảm, thấu cảm sự việc chuyển động ngấm ngầm xuyên suốt - hiện tại, quá khứ, tương lai hầu tìm ra tinh túy từ trong vũ trụ mà trong mỗi con người là một vũ trụ thu nhỏ.

     Rượu với thi nhân như hình với bóng, trong cơn men lâng lâng người thi nhân tài tình nhận được một giác quan siêu nhiên nhập vô trong người, chữ nghĩa từ thiên cổ rủ nhau chạy về lung linh huyền ảo - đó là: (hồn thu thảo, - bầy xác sóng, - hồn nước mây, - trăng mỏng, - trăng vở, - trăng nghẹn…). Đó là ngôn ngữ rất riêng của thơ. Tuy vậy, thi nhân họ vẫn luôn (Tỉnh Táo), họ chỉ say bằng con tim nóng chứ không say bằng cái đầu nóng, họ chỉ say trong chất men ngôn ngữ huyền dịu và tài tình. Cho dù là ngôn ngữ của thơ nhưng tuyệt đối thi nhân không bao giờ vi phạm quy ước ngôn ngữ, như: viết sai văn phạm, viết sai chánh tả, viết sai ngữ pháp, viết sai mạo từ (cái ra con, con ra cái). Hoặc viết ngược, như: “vẹn nguyên, pha phôi, vọng vang, giản đơn, đáu đau…”!

     Quy ước ngôn ngữ vốn đã có từ lâu, từ rất lâu. Kẻ nào phản đối, phản kháng lại ngôn ngữ Hàn Lâm mà quần chúng đã công nhận Quốc Ngữ thì đó là một hành vi chính trị độc tài, sa đọa, giả dối và áp đặt.

     Một số tác giả ngày nay cố tình hay vô tình xài thứ chữ Việt quái đản, dị hợm đã góp phần làm rối rắm, dẫn tới - “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ”. Tựa bài văn của Tác giả: (Trịnh Thanh Thủy).
Chữ nghĩa hiện nay. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Tịnh Thy, Giảng Viên Chương Trình Giáo Dục Khai Phóng, nói:

     - “Nhà văn sai, nhà thơ sai, nhà giáo sai, nhà báo sai, nhà khoa học sai; cử nhân thạc sĩ sai, tiến sĩ giáo sư sai; sách vở giáo trình sai, đề thi đáp án sai, luận văn luận án sai, từ điển sai; âm nhạc sai, văn chương sai, báo chí sai, công văn sai… Tất tần tật đều có sai. Đặc biệt, các nhà báo, nhà ngôn ngữ, giáo viên, giảng viên dạy tiếng Việt và Văn học – những người sống bằng nghề chữ nghĩa và dạy người khác chữ nghĩa - mà cũng sai.”. Và, “…Tiếng Việt đã và đang sai đến mức quá sâu rộng, mười năm sau là đủ để cơn sóng sai phạm này phá huỷ tiếng mẹ đẻ của người Việt.”.

Và, cũng theo một vị cựu giáo sư văn chương, nói:

     - “Sai nhiều là ở trong các tác phẩm của các thi nhân, bởi [một số] chưa thấu hiểu, chưa cảm nhận để phân biệt đâu là ngôn ngữ thơ; đâu là ngôn ngữ Hàn Lâm Văn Chương Tự Điển. Từ đó các thi nhân “phịa” ra các thứ chữ quái đản, dị hợm, vô hồn, vô nghĩa, tối nghĩa rồi cho rằng đó là ngôn ngữ thơ; là nhân cách hóa, thậm chí viết còn sai "Mạo Từ" - Cái ra con và Con ra cái. Ví dụ như: "Con chữ, Con tuổi, con xe, con nhà... Cái trâu, Cái gấu, Cái gái..."!

     Thời Nhà Đường, các thi hào, thi bá cho thơ hòa chung với tửu, nhiều không kể ra hết. Tuy vậy, thơ tiêu biểu về rượu nổi danh có thể nói đó là Thi hào Lý Bạch, như bài:

Tương Tiến Tửu

       “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
      Mạc sử kim tôn không đối nguyệt
      Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
      Thiên kim tán tận hoàn phục lai”. (Lý Bạch ). 

Dịch thơ:
     (Người đời được dịp cứ vui vầy,
      Đừng để chén không dưới bóng nguyệt
      Trời sinh ắt đã có chỗ dùng
      Xài sạch ngàn vàng hẳn trở lại). *

     Đỗ Phủ – Lý Bạch hai người đã từng gặp nhau ở Lạc Dương, vì mến tài nhau mà kết thành đôi bạn vong niên (Đỗ Phủ nhỏ hơn Lý Bạch mười một tuổi). Đỗ Phủ, trong bài “Xuân Nhật Ức Lý Bạch”. Ông viết:

      “Vị bắc xuân thiên thụ
        Giang Đông nhật mộ vân
        Hà thời nhất tôn tửu
        Trùng dữ tế luân văn”.
Dịch thơ:
       (Bắc sông Vị cây mùa xuân lặng ngắm
        Giang Đông ngày lẫn bóng phủ mây chiều
        Hy vọng sẽ hội kiến nâng ly rượu
        Thơ văn ngồi bàn luận dưới trăng xiêu). *

      Và, Đỗ Phủ, năm bảy trăm năm tám [758] vùa ra tù. Ông đến Khúc Giang (Tây An, Thiểm Tây) vì quá túng quẩn phải đem cầm quần áo để sống. Đỗ Phủ buồn phiền nên sa đà với tửu để quên nỗi buồn thất sủng. Ông nợ tiền rượu chủ quán. Ông trút sự nhục nhã vào thơ: Trích: (Khúc Giang Trì).

     “Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
       Nhân sinh thất thập cổ lai hy”.

     Tạm dịch: (Nợ tiền uống rượu là chuyện thường, nhưng lại là chuyện hiếm hoi đối với một người đã bảy mươi tuổi). 

     Vậy đó, đã già (bảy mươi tuổi) đầu rồi mà còn nợ tiền rượu mới là chuyện hiếm thấy xưa nay! Ý chính là vậy, chứ không phải sống tới “thất thập cổ lai hy” mới là hiếm. Tuy nhiên, câu “thất thập cổ lai hy”, cũng là kính trọng người sống thọ (thời xưa). Ngày nay sống trăm tuổi là chuyện thường, “bách tuế vi kì”. (Trăm năm là giới hạn).

     Tào Thực, con trai Tào Tháo, ông từng làm bài thơ “Thật Bộ Thi”. (Bảy bước ra thơ), ông uống rượu rất khỏe. Ông viết: “Quy lai yến Bình Lạc - Mỹ tửu đẩu thập thiên”. (Trở về mở yến ở quán Bình Lạc, Rượu ngon uống mười ngàn đấu).

     Trong tác phẩm Lục Vân Tiên cũng có câu: “Cùng nhau kết bạn đồng tâm, khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi”. Rượu và thi nhân không thể tách rời “Dĩ tửu trợ văn, dĩ văn hội tửu” và “Phi tửu bất thành lễ”. Lễ đây là đối đãi phải lễ (qua lại) với nhau chứ không hẳn là “nghi lễ cúng bái”, cúng bái ông bà tổ tiên đôi khi không nhất thiết phải có rượu, chỉ cần một chén nước cũng đã tỏ rõ tấm lòng thành. Tuy vậy, người xưa cho tới ngày nay luôn dùng rượu trong các dịp “Quan – Hôn – Tang – Tế”.

     Truyện Thủy Hử, có Võ Tòng đánh hổ trên đồi Cảnh Dương, tửu lượng uống tới mười tám chén. Trong “Thiên Long Bát Bộ & Tiếu Ngạo Giang Hồ”, nhân vật Kiều Phong, Lệnh Hồ Xung, Tổ Thiên Thu là những hảo hán, tính tình hào sảng dùng rượu kết giao bằng hữu. "Ẩm tửu dung hòa đích quân tử". Họ coi rượu là Đạo Tửu, ở bất cứ nơi đâu họ đều uống các danh tửu: (Nữ Nhi Hồng Tửu. Trúc Diệp Thanh Tửu. Bách Thảo Mỹ Tửu).

RƯỢU: SỰ CHẾT & MẤT NƯỚC:

     Truyền thuyết phao tin thi hào Lý-Bạch say-sưa bên bờ sông Thái Thạch lờ mờ thấy trăng chìm đáy nước, vội vàng nhảy xuống vớt trăng lên để rồi chết đuối. Từ đó thiên hạ cho xây một cái đài, tên là “Tróc-Nguyệt-Đài” (Đài Bắt Trăng). Thật ra thì đã có bằng-chứng cụ thể là Lý-Bạch tự vẫn mà chết. Tuy nhiên, phần nhiều người mê thơ Lý Bạch không thích ông tự tử. Chính chuyện thêu dệt ôm trăng mà chết đã làm cho thơ của ông càng nổi tiếng hơn. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cho Từ Hải chết đứng cũng là vì thương đấng anh hùng nghe theo lời khuyên của giai nhân (Thúy Kiều) mà chết thảm thiết.
Đọc Tam Quốc [sách phần nhiều là hư cấu]. La Quán Trung hư cấu việc: Trương Phi say rượu, bị tên lính “thợ may” dưới quyền cầm cây kéo đâm chết, qủa thực vô lý. Thực tế [sử] là Trương Phi bị phục rượu độc mà chết một cách oan nghiệt. Thủ phạm chính là Gia Cát Lượng và Lưu Bị. Tuy rằng ba người (Lưu - Quan - Trương) có “kết nghĩa vườn đào” lúc chưa hình thành nước nước Thục, nhưng một khi Nhà Thục ra đời có danh chính ngôn thuận về mặt địa lý, có chính quyền hành chánh thực tế - thì cách cư xử, cách đối xử [thưởng, phạt], cách xưng hô chỉ là “bề tôi”. (Dưới con mắt vua chúa, tình ruột thịt còn bị tru di, huống hồ là tình kết nghĩa). Chuyện quốc gia đại sự thì không thể để tình cảm lấn lướt. Quan Vân Trường, chính là kẻ cản trở chính sách và chiến lược liên hoàn “địa lý, quân sự, chính trị” của Nhà Thục với Đông Ngô. Lưu Bị mượn tay Đông Ngô giết Quan Trường bằng lý do “hôn nhân chính trị”, nhưng đã quá trễ. Bề trái của lịch sử "ngầm" quả thật là kinh khủng.

     Trần Thúc Bảo (Trần Hậu Chủ) vị vua cuối cùng của Nhà Hậu Trần thời Nam Bắc Triều trong lịch sử Trung Quốc cũng vì mê uống rượu với giai nhân mà mất nước.

     Theo “Lĩnh Nam Chích Quái” vị vua Hùng Vương cuối cùng cũng vì mê uống rượu mà để đất nước rơi vào tay Thục Phán. Sử lịch xảy ra năm Giáp Thìn (257 TCN).

Theo: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.

     Vua Trần Anh Tông vị vua thứ tư của Triều Trần vì mê uống rượu “Xương Bồ” say không biết trời trăng mây nước. Thái Thương Hoàng (vua cha) ghé thăm mà không hay biết. Thượng Hoàng (Trần Nhân Tông) có tâm lòng nhân hậu đã bỏ qua sau khi nghe lời trần tình mà không truất phế ngôi vua. Vua Trần Anh Tông hối lỗi và bỏ hẳn uống rượu để chăm lo việc nước.

RƯỢU VỚI TÔN GIÁO:

Phật Giáo:

      Phật Giáo cầm uống rượu. Phật tử thọ giới Bồ Tát không được uống rượu. Kinh “Phạm Võng” uống rượu làm hư tổn bản thân, người nấu rượu bán rượu đồng lõa với tội lổi. Phật dạy “Người uống rượu sinh ra ba mươi sáu [36] thứ tội lỗi, đó là vô lượng tội”. Phật tử không nên dâng rượu cho Phật và cũng không thể uống rượu nếu không muốn lên Niết Bàn hưởng phú quý!

Thiên Chúa Giáo (Công Giáo).

     “Trong ngày Lễ Vượt Qua. Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, rồi tất cả đều uống chén rượu này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” (Mt 26,29).

     Theo luật, Linh Mục mỗi ngày phải dâng một thánh lễ, tất nhiên trong thánh lễ có rượu và bánh thánh tượng trưng (mình và máu) của Chúa. Do đó đạo Công giáo không hoàn toàn cấm rượu, chỉ khuyên giáo dân hạn chế tiêu thụ để gìn giữ sức khỏe.

     Cổ nhân uống rượu với một phong cách thoát tục (thần tiên) chứ không phải uống bừa bãi theo kiểu (trần tục) bạ đâu uống đó “buồn cũng uống, vui cũng uống, không vui không buồn cũng uống”, bạ đâu uống đó gọi là “nhậu”, nhậu nhẹt bê tha, say sỉn, la hét, chém giết nhau và nằm ngủ vất vưởng ngoài đường, ngoài chợ, quần áo bẩn thiểu, đầu tóc bù xù trông chẳng còn là con người. Tửu đối với thi nhân; các bậc anh hùng đại trượng phu, họ lấy rượu để bày tỏ chính khí, hào khí đầu đội trời chân đạp đất. Tào Tháo uống rượu cùng với Lưu Bị mà luận anh hùng là vậy đó. Tửu [rượu] cũng là một “định ước bất thành văn” kết nối giữa người với người; với bằng hữu; với quân thần “tửu vua ban” và người với thánh thần khi tế lễ trời đất, tổ tiên.

     Người xưa nói, chén thù, chén tạc là một hình thức tiêu biểu của sự tôn trọng và mến khách. Người chủ nhà nâng chén rượu chúc mừng khách, gọi là “tạc”. Người khách đáp trả lại gọi là “thù”. Tình cảm quý mến đó gọi là “thù tạc”.

     Ly bôi, tức là chén rượu uống trong lúc chia ly hay còn gọi là chén rượu tiễn đưa.

      “Hơi thở biệt ly tràn phế-phủ,
       Tiễn đưa lệ ngọc ẩn cung mây,
       Mộ lạnh miếu đền ai đó ngủ,
       Thức đi, hấp lại cảnh chia này” (Trích thơ: Trang Y Hạ).

     Rượu chia ly, – dù chia ly bất cứ lý do nào đều để lại nỗi buồn trong lòng người (đi và ở), nỗi thương nhớ cho cả hai bên không dễ gì một sớm một chiều mà có thể nguôi ngoai. Người thiếu phụ tiễn đưa chồng đi chinh chiến, để rồi đêm đêm ngồi bên ngọn đèn dầu tơ tưởng nhớ mong, lo lắng: “Chàng từ đi vào nơi gió cát. Đêm trăng nầy nghỉ mát nơi nao”? Đôi khi một lần tiễn đưa là xa nhau mãi mãi.

     Tạm trích hai câu thơ của (Trang Y Hạ) để dừng lại giây phút Ly Bôi!
     “Uống đi rượu sẽ giải bày,
       Hốt vài dúm nắng ấm tay tặng người”.

Trang Y Hạ, 2012.

* Trang Y Hạ. (Dịch Thơ).

Cước chú:

* Biệt Ly - Ca khúc của nhạc sĩ Doãn Mẫn


                    Bữa cơm đơn sơ ngoài chiến trường!