By Photo Trang Y Hạ
Màu Than Của Đêm
Ba chiếc xe thồ, mỗi chiếc chở ba bao tạ
than, trọng lượng của mỗi xe tệ lắm cũng trên hai trăm ký lô. Mỗi xe thồ có hai
người thay phiên nhau cầm lái và phụ đẩy... Từ trong rừng - lúc nầy đã là năm
giờ chiều, đoàn người ăn vội vàng vài củ khoai lang, khoai mì nướng chấm với:
muối đậu phộng có thêm đường. Không cao lương mỹ vị nhưng mọi người ăn rất ngon lành,
không ăn thì không có sức mô mà đẩy xe than đến vựa để bán trong đêm nay.
Trời miền Đông, vùng Căn Cứ cuối năm nắng
cháy lẫn gió nồm nam thổi liên tu bất tận, cây cối thiếu nước lại thêm gió lùa xơ
xác trông thật tội nghiệp. Ban đêm gió vẫn còn sốt sắng thổi, nhưng yếu hơn...
Vùng đất rừng vào mùa khô, sau khi thu hái hoa màu xong người dân hầu như hết
việc làm, chỉ còn cách vô trong rừng: cưa cây, cưa củi, đốt than, chặt tre, lấy
mây, đục máng heo, đem ra chợ bán kiếm chút ít tiền lo sắm sửa cho ba ngày tết...
Khổn nỗi... phải lén lút! Nếu không lén lút, lỡ "may mắn" gặp các anh
cán bộ "kiểm rừng" là coi như - bị tịch thu sạch hết... Ba chiếc xe thồ
chở than hì hục đẩy vượt đường rừng lúp xúp chạy gần hai giờ mới về đến gần bìa
làng. Đoàn người dừng chân nghỉ ngơi bên bờ suối cạn. Đi ban đêm trời mát lại
thêm gió mùa rứa mà trên lưng áo mỗi người đều ướt nhẹp mồ hôi, đoàn người lấy
bình nước mắc trên xe đạp thồ ra chuyền cho nhau uống ừng ực... Uống xong tất cả
ngồi bên vệ đường thở dốc... Một người trong bọn họ nói:
- Mấy củ khoai mì, khoai lang, rơi rớt dọc
đường hết rồi anh hai ơi!
Người đàn ông - anh hai, làm "đoàn
trưởng" ngước nhìn lên bầu trời đầy sao... Cơn gió của đêm dịu mát hong mồ
hôi trên lưng áo, áo chưa khô còn hơi, ỉu... ỉu... Anh ta hỏi:
- Mấy giờ rồi rứa hè?
- Bảy giờ! Một người trả lời có cái giọng
giống: Kim Mao Sư Vương!
- Bộ... muốn "họ" biết anh em ta
đi bán than lậu chắc?
- Xin lỗi anh hai! Tại cái mỏ... ếch kêu
oang oang... của em sửa hoài mà hổng được...
Trên nét mặt khắc khổ của người anh Hai đượm
vẻ đăm chiêu, lo lắng... Anh ta đứng lên căng mắt nhìn về hướng con đường quanh
co hẹp tré đi tắt ở phía sau làng. Từ con đường tắt nầy có thể "vượt trạm"
nếu có người dẫn đường đi suôn sẻ chừng một giờ là đến chỗ vựa "thu mua"
than. Trong lòng người đàn ông anh hai cũng đã nghĩ đến chuyện "Sau khi
bán được số than sẽ dẫn các em tìm một nơi ăn uống, lai rai vài xị rượu cho ấm
lòng quân tử lúc thất thế sa cơ...".
Người anh hai nói:
- Các chú em đói lắm phải không? Ráng chịu
đựng khoảng một giờ nữa,... bán than xong chúng ta sẽ đi giải quyết chuyện cái
bao tử. Anh cũng đói lắm rồi!
Ba chiếc xe thồ than đã giấu trong mấy bụi
chuối... Một bóng đen lù lù càng lúc càng gần, cái bóng đen đi đến vừa đúng chỗ
"hẹn", anh ta: ngó... ngó... chung quanh không thấy ai. Cái bóng đen
đưa tay lên, búng: Tróc... Tróc...Tróc...! Thì ra, đó là tín hiệu... Tức thì
người anh hai từ trong bụi chuối bước ra, nói:
- Răng mà trễ như rứa hỉ? Đã qua bảy giờ tối
rồi, đi trễ quá "chó" sủa om sòm mấy anh "kiểm rừng" phát
giác là chết cả đám.
- Không răng... Bữa ni mấy ổng đang bận bịu
công việc - ăn đám thôi nôi đứa con trai của chủ vựa than... Em dẫn mọi người
đi đường tắt chừng hơn nửa giờ là ung dung băng qua đường cái quan thẳng ra
phía sau nhà - người của chủ vựa than đợi ở đó, họ sẽ cân mua nhanh gọn... Anh
hai khỏi lo, thằng em đã "ba-rê" hết trơn rồi.
Người anh hai ra lệnh cho đoàn xe lăn bánh.
Đúng là lộ trình đã có quân "tế tác" điều nghiên kỹ lưỡng nên cuộc "hành
quân đêm" không gặp chướng ngại vật hay địch quân phát giác. Khi gần đến
nhà chủ vựa than, đoàn quân tỏ ra căng thẳng, hồi hộp... Không hồi hộp làm răng
được, đi bán than chui mà...! Ánh đèn măn-xông từ trong nhà chủ vựa hắt ra chiếc
xe hơi có cái thùng sắt to kềnh đeo lủng lẳng phía sau đuôi trông rõ mồn một.
Trong nhà; tiếng cười, tiếng nói, tiếng cụng ly chan chát... Vọng thinh âm ồn
ào xoáy vô màn đêm đến nỗi con dế ngoài vườn sợ sệt nằm im không dám gáy...
Con chó vện ngồi phía trước hiên vẻ mặt vênh váo, hớn hở! Trong lòng nó rộn
ràng bởi được một bữa vui lây cái đám thôi nôi con của chủ nhà, nó say sưa - hít...
hít...! Ngửi ngửi... mùi thịt nướng thơm lừng, mơ... mơ... cục xương nên quên mất
nhiệm vụ canh gác...
Sau ngày "hòa bình - thống nhất"!
Xe đò bỏ xăng dầu, chạy bằng thứ nhiên liệu mới, đó là than củi! Chiếc xe nào
cũng có cái thùng sắt to tổ tía đeo lòng thòng nơi đít xe, người lơ xe ngồi
phía sau thỉnh thoảng cầm cái cục canh bằng gỗ: - gõ... gõ... vô thùng than. Nhất
là lúc xe bò lên dốc yếu lửa anh lơ xe càng gõ dữ tợn... Bụi than khói bay ra phủ
đầy trên đầu, đầy trên cổ, đầy trên quần áo hành khách... Thời đại nầy, không
có mấy ai dám mặc quần áo trắng đi xe than bao giờ. Xe than chở gỗ súc: gỗ lim,
gỗ căm xe, gỗ trắc, gõ đỏ, gõ bông lau, bằng lăng... chất kín trong lòng xe chạy
thẳng về Hố Nai, Biên Hòa bán cho các tiệm mộc. Hành khách đi xe đò ngồi đối mặt
nhau trên hai dãy băng ghế dọc theo thân xe, chân gác lên trên các súc gỗ được
che chắn bằng tấm bạt và giỏ xách của hành khách... để ngụy trang. Che là che
cho có chứ tất cả các trạm đều đã được bôi thuốc, nên xe chạy trơn tru... Đôi
khi cũng có bị "ách"! Lý do: ngoài ý muốn...
Cung cấp than cho các nhà xe là người đốt
than. Người chủ xe mua than không phạm pháp. Người đi đốt than, bán than mới là
kẻ phạm pháp, bởi - Tội phá rừng! Người anh hai và người dẫn đường - sau khi
cân bán than xong, liền chạy thẳng ra điểm hẹn với đồng đội đang đợi... Trong
lúc ngồi nhâm nhi chút rượu, người anh hai nói:
- Thời nhà Trần, đã ba lần đánh tan giặc
Nguyên chạy trối chết về tàu. Một đạo quân xâm lăng khét tiếng hung bạo, chưa
có một quốc gia nào dám đương đầu chống lại... Vậy mà, vua tôi nhà Trần bằng
"Hội Nghị Diên Hồng" đã viết một trang sử hào hùng cho dân tộc Việt
Nam nghìn đời lưu dấu sử xanh! Một trong các tướng đánh giặc Nguyên giỏi thời
nhà Trần có danh tướng Trần Khánh Dư. Ông tướng nầy giỏi thì có giỏi thật,
không cần phải bàn cãi mần chi! Ông có để cho hậu thế một câu nói nổi tiếng mà
người Việt Nam thường cho là nói "thẳng như ruột ngựa":
"Tướng soái là chim
ưng, dân lính là vịt. Dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ".
Có lẽ do câu nói nầy mà - các tướng lãnh,
quan chức các đời kế tiếp hiểu sai ý nghĩa trong câu nói thẳng thắn của ông nên
bắt chước để: hành dân, xem người dân như: vịt, hoặc tệ hơn vịt....! Chẳng những
hành dân mà còn hành cả người trong thân tộc của họ nữa! Cũng may là chỉ có một
ông danh tướng nói, chứ nhiều ông danh tướng - mỗi người nói một câu "rất
hay và thẳng thắn" như ông danh tướng Trần Khánh Dư thì các thế hệ cháu
con "bắt chước" làm sao cho hết.
"Dân
lính là vịt, vịt phải nai lưng ra làm và đóng thuế cho các quan phụ mẫu hưởng
thụ, quan phụ mẫu sẽ kiểm soát vịt từ: vật chất đến tinh thần. dân lính là vịt
chỉ biết - ăn và lao động... Ngoài ra, không cần chi phải biết ba cái thứ tào
lao thiên địa "tự do - nhân quyền - chủ quyền..." gì ráo. Tất cả đã
có người khác lo..."!
Lúc ông danh tướng Trần Khánh Dư "bãi
chức" về quê đi buôn bán than. Không biết ông danh tướng có ép giá để mua
than giá rẻ của đám bần dân rồi đem đi đầu cơ tích trữ trục lợi hay không? (thời
đó than củi chỉ để dùng cho việc nấu ăn, sưởi ấm, chứ không dùng làm nhiên liệu
chạy xe đò như bây chừ). Một vị lãnh tụ giỏi, hay một vị tướng, dù tài ba đến
đâu - nếu không đức độ, không lòng nhân, thì dù có lưu danh thiên cổ - người đời
vẫn không trọng vọng... Có trọng vọng đi chăng nữa cũng chỉ là... ngoài mặt, hoặc
bắt ép phải trọng vọng chứ trong lòng không "khẩu phục tâm phục". Ông
danh tướng Trần Khánh Dư đâu có biết rằng người bần dân (vịt) trực tiếp đốt than,
đốt cho ra được một mẻ than cực khổ biết chừng nào! Bởi từ chỗ người dân không
có đất để canh tác, hoặc có đất nhưng chỉ vài ba công, trong khi gia đình lại
đông con thành thử làm nông không đủ sống buộc phải vô rừng đốt than, cưa củi...,
dù biết rằng làm như vậy là phạm tội phá rừng. Người đốt than củi hít phải khói
bụi độc hại từ bụi tro than cho nên thân thể của họ bị nhiễm nhiều thứ bịnh, cọng
với sức nóng từ lò lửa than, lâu ngày huyết trong người - khô, bầm... ói máu ra
mà chết!
Người anh hai nhớ lại câu hát ru của mẹ:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh
hùng lỡ vận lên nguồn đốt than
Ông danh tướng Trần Khánh Dư "về vườn"
sớm, lo đi buôn bán than chứ không trực tiếp đốt than, cho dù ông có trực tiếp đốt
than đi chăng nữa thì ông cũng không phải là người lỡ vận... Ông danh tướng đã
có cơ may và còn nhiều cơ may từ quyền lực phong kiến nhà trần ưu ái phong tặng...
Ngày xưa có thể - chế độ phong kiến không có các cán bộ "kiểm rừng"
nên ông quan danh tướng Trần Khánh Dư đi mua bán than công khai mà không sợ mấy
ông kiểm rừng bắt phạt, tịch thu... Người dân nghèo thuở trước - đốt than kiếm
sống hằng ngày coi bộ thoải mái hơn thời bây chừ? Thời bây chừ nghề đốt than thủ
công khó kiếm ăn quá, bởi lúc nào cũng sợ bị phạt, bị tịch thu, vì - tội phá rừng!
Tội phá rừng còn gọi là: Lâm tặc! Đủ loại lâm tặc cao thấp, lớn nhỏ ngang nhiên
đi phá rừng giữa ban ngày ban mặt... Không phá rừng thì biết lấy cái chi mà sống
đây hử...? Đốt than, người dân chỉ đốt mấy cây gỗ nhỏ kiếm ăn theo kiểu cò con,
vậy mà còn sợ bị bắt, phải trốn chui, trốn nhủi. Cây gỗ lớn, cây danh mộc
"lâm tặc chúa" cưa đi hết từ trước rồi! Nghề đốt than thủ công không
có khó, chỉ tốn công đào đắp một cái lò cho chắc chắn, sử dụng nhiều lần để đốt.
Đến khi lò sập, củi xa - tìm tới chỗ khác đắp lại lò mới. Cái cực là... phải đi
bán chui cho người ta mua công khai để dùng vô việc thay thế xăng dầu... Than
tuy đen nhưng đó là vàng đen của rừng! Người dân không ai dám lấy than sử dụng
vô việc bếp núc.
Mọi người ăn uống vui vẻ nhưng không say
vì ngày mai còn phải chăm lo mấy cái lò than... Trong lúc chờ than chín còn phải
lo đi cưa củi dự trữ, canh chừng các anh "kiểm rừng" phát giác hốt sạch
thì úp niêu. Mỗi khi bốc than ra khỏi lò đem đi bán, phải thông báo cho người dẫn
đường đi trước "rà mìn mở đường".
Người dẫn đường phải là người thân hoặc bạn chí thân, quen biết và giao du rộng
- thuộc lòng các nẻo đường ngang, đường dọc kể cả những con chó... Quan trọng
nhất là phải dò xem để biết được đường đi nước bước các ông "kiểm rừng"...
Tìm hiểu: "giờ nầy, anh ở đâu"?
Có đi "phục kích" hay rủ
nhau đi ăn nhậu...? Nhậu ở đâu? Để khi đi "hành quân đêm" không sợ bị
phục kích... Đôi khi cũng bị kế "Dương đông kích tây" bởi tiếng chó sủa...!
Người dẫn đường còn phải liên lạc với chủ vựa than ngày giờ mua than nhất định,
giá cả rõ ràng, chắc chắn. Gặp trường hợp khẩn cấp cần có tín hiệu thông báo cho
nhau, nếu giải quyết không được thì - rút rựa chặt dây vứt bỏ than, vác xe lên
vai chạy thục mạng mỗi người chạy mỗi ngã đường đừng để bị bắt thì khốn khổ cho
cái thân...! Đã từng xãy ra trường hợp như vậy rồi...! Con người sao giống y
chang loài đớp muỗi âm thầm bay đi ăn trong đêm tối không một tiếng kêu. Loài đớp
muỗi còn được tự do bay qua bay lại, tự do bay đi tìm cái ăn không sợ bị bắt nạt...
Màu than đen hòa cùng màu đêm đen âm u, đoàn quân thồ than lờ mờ nhìn theo lưng
người dẫn đường hối hả lao về phía trước bất kể đường sá gập ghềnh sỏi đá, hục
hang, chỉ mong sao cho mau mau đến nơi an toàn! (Biết có được an toàn hay không
nữa?). Trên đường đi miệng ngậm tăm, không ai nói với ai một lời. Đôi tai luôn
cảnh giác mọi tiếng động, không gian yên lặng đến nỗi nghe rõ hơi thở hồng hộc
của nhau... Từng giọt mồ hôi lăn dài trên trán, thấm nhẹp vô lưng áo dù đang đi
giữa trời đêm gió cuốn bụi đường!
Có một lần, người anh hai được người dẫn
đường dẫn thồ than qua một làng khác. Nơi đó, vựa than mua than giá cao... Ba
chuyến xe thồ than đẩy chạy như bay trong đêm đen... Bỗng từ trong kiệt vắng nhảy
ra một người đàn ông dáng đi nghiêng ngả, nói cái giọng nhừa nhựa:
- "Tao... là... là... "cha"
của thằng "kiểm rừng" đây! Tụi bay dám bắt mấy bao than của tao hử?
Ngày mai tao lên Trạm... là có chuyện đó...! Tui bay nghe rõ chưa hử...?".
Người dẫn đường bật tín hiệu cho đoàn xe
thồ than phía sau tấp vội vô hàng rào dâm bụt, tất cả đứng chết trân như tượng
đá, nín thở, mắt nhìn chăm chăm, thủ thế... chờ nghe hiệu lệnh tiếp theo... Có
lẽ người đàn ông say rượu? Chân bước nghênh ngang xiêu vẹo, đầu cúi gầm đi lướt
qua, miệng lảm nhảm:
"Một ngày nào... anh chết
đi... em nhớ mua cho anh cái ... hòm... Nghe dặn rằng... đừng có cúng... đừng
làm gà... đừng mời ai cả... em... ơi... !".
- Thiệt là... hú hồn, hú vía...! Đoàn người
đi bán than nhịn cười bởi gặp phải người say...! Mọi người nghĩ... có thể là mấy
bữa trước anh ta bị - các thầy "kiểm rừng" chặn bắt lấy hết than nên
anh ta uống rượu cho vơi đi bớt nỗi buồn thế sự...?
Bán than xong, người anh hai thở dài buồn
bã, than thở với mấy người em:
- Mình làm ra cục than quả là quá cực! Buồng
phổi lúc nào cũng chứa khí carbon độc hại, mặt mày, quần áo, thân thể, bụi than
quyện với mồ hôi dính đen thui đen thủi. Đêm tối chở than đi bán kiếm tiền mua
gạo lại lén lút như - thằng rình trộm trâu... Người giàu có họ mua trữ - hàng tấn
than, trữ hàng chục khối gỗ... để sờ sờ ra đó... Không một ai dám đụng chạm đến,
không một ai đến bắt hay "tịch thu"? Cuộc sống luôn luôn có sự nghịch
lý như vậy...! Trên đường đi bán than chúng ta chẳng những sợ: người say rượu
phá bỉnh mà còn sợ cả mấy con chó sủa ma... Thân phận chúng ta hiện nay có thua
chi "con vịt" của ông danh tướng Trần Khánh Dư thời nhà Trần ngày
xưa...?
Lần bán than đó, người anh hai và mọi người
nhớ đời. Dù đã gần nửa đêm, người anh hai không quay trở về nhà mà lại đi tìm: mua
rượu ngon, mua mồi ngon...! Đoàn người kéo rốc trở vô rẫy - ngồi trong chòi uống
rượu đàn hát vui vẻ thâu đêm một bữa ra trò... "...Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn"! Câu nói của người
xưa thật đúng nghĩa...
Thương thay cho số phận anh hùng lỡ vận, mạt
kiếp phải lên rừng đốt than! Đốt than hay đốt cuộc đời trong màu than của đêm.
Đi bán than - lần hồi... bán, sạch-sành-sanh tuổi đời hư hao buồn tủi? ./.
Trang Y Hạ
Miền Đông - mùa đông 1984
Nhớ Phú!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét