Thư viện

22/1/18

Tháng Chạp Nhớ Nàng Huyền Trân



THÁNG CHẠP- NHỚ NÀNG HUYỀN TRÂN

              “Gạo tháng giêng, tiền tháng chạp”.
     Buổi sáng mặt trời còn đang chuẩn bị áo mão để "ra mắt" vạn vật trên quả địa cầu, thì tôi chuẩn bị chạy ra biển. Bầu trời tinh mơ còn tối om và lạnh... Ngọn đèn đường đã mờ lại mờ hơn bởi màng sương vây quanh tạo nên một bức tranh huyền ảo, nhưng tuyệt nhiên không thấy loài thiêu thân tới tự tử...! Thời gian sớm mai yên tĩnh hầu như mọi nhà còn đang say ngủ, chỉ trừ mấy người đi lao động sớm... Tôi cũng như một số người thích ra biển sớm để tập thể dục, hít thở mùi biển, nghe giọng nói thì thầm lẫn ồn ào của sóng biển. Biển ở vùng San Francisco rất lạnh chỉ thích hợp cho những người lướt ván. Tôi ra biển tập thể dục vào buổi sáng có hai nguyên nhân. Tôi yêu biển và tôi yêu những hình bóng thân yêu từ bên kia bờ đại dương thấp thoáng trong ký ức. Mỗi buổi sáng như vậy tôi cảm nhận như là được nghe lời nói của họ vọng sang...!

     Tháng chạp...! Ừ, là tháng chạp...! Ở chỗ tôi, nơi xứ lạ không bao giờ có tháng chạp mà chỉ có tháng mười hai, mặc dù trong lòng tôi - tháng chạp chất chứa biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn từ những lần chia ly mà chưa một lần được "châu về hiệp phố". Con thuyền tha hương cứ mãi linh đinh...!

     Sáng nay tôi đang pha cà-phê thì nhận đươc cuộc gọi của người em con ông chú: - "Anh hai ơi! Hôm nay là ngày chạp mả...".

     Tôi thật sự xúc động…! Vị đắng của ly cà phê bữa nay càng đắng thêm... Và, chính vị đắng đó đã làm cho vùng ký ức trong đầu tôi trỗi dậy... Tôi xa quê đã nhiều năm, xa vì lý do gì thì tôi chưa biết vì lúc đó tôi còn quá nhỏ... Tôi nhớ có một lần - năm tôi được sáu tuổi, cha tôi dẫn tôi đi chạp mả... Trời cuối đông mưa phùn gió bấc lạnh tơi, vậy mà mọi người trên tay cầm cuốc, cầm liềm hăng hái xúm nhau dọn sạch cỏ trên các nấm mộ của ông bà, một số các bà các cô đi thắp nhang, cắm hoa... Tới trưa công việc dọn cỏ xong xuôi tất cả trở về nhà thay quân áo mới, rồi tụ tập về nhà thờ tự.

     Tôi còn nhớ như in trong đầu khi cha tôi dẫn tôi tới ngôi nhà thờ tự, rồi đi thẳng tới nhà ông Xã Tuyết, nơi đó - dòng tộc mỗi năm sau khi giẫy mả xong thì mọi người kể cả trẻ con - tất cả tụ tập về để cúng bái tưởng nhớ tổ tiên ông bà, sau là ăn uống. Tôi còn nhớ trước sân lớn của nhà ông xã Tuyết lát gạch tàu, tháng chạp mưa phùn gió bấc, sân đóng rêu trơn trượt. Người ta phải trải rơm để làm lối đi vô trong nhà. Tôi không biết nên đi dạo trong sân và bị té ngã sóng soài may là không chuyện gì xảy ra. Và, tôi cũng còn nhớ trước bờ rao nhà ông xã Tuyết có một cái cây cổ thụ rất cao, có trái chín màu vàng to cỡ bằng ngón chân cái. Tôi không rõ đó là cây gì.

     Trong tộc có ấn định là khi giỗ chạp họ hàng bên ngoại cúng vái ông bà trước, ăn trước xong xuôi ra về rồi sau đó mới tới bên nội. Đó là lần chạp mả đầu tiên tôi đượcvà cũng là lần cuối cùng trong cuộc đời ba chìm bảy nổi của tôi.

     Trước đây khoảng mười năm. Một đứa cháu kêu tôi bằng bác nói rằng: - "Bác hai phải về nơi sinh ra trước tuổi bảy mươi".

     Lúc đó, tôi không hiểu ý câu nói của đứa cháu. Thời gian sau tôi mới hiểu... Đúng là phải về trước tuổi bảy mươi, để còn tỉnh táo nhận diện gia phả... Phải còn tỉnh táo, khỏe mạnh để mà "cụng ly" với ông bà tổ tiên; cụng ly với đàn em; với cháu chắt và nhất là đầu óc còn sáng suốt để nghe kể lại bao thăng trầm của dòng tộc...! 

                                                oOo

      Tôi tha phương vì những nguyên do của lịch sử phải dẫn tới tù đày và lưu vong để tìm nơi chốn nương thân. Tôi tự hào là đã sinh ra ở xứ Quế Sơn [núi quế] Quảng Nam. Tôi nhớ nàng công chúa Huyền Trân từ mấy trăm năm về trước, nàng cũng ly hương nhưng nàng đã đem về cho tổ quốc một vùng đất rộng lớn - Đó là hai châu Ô, Lý. Vùng đất nầy từ xa xưa có hai thứ thổ sản. Một là trái bòn bon. Hai là cây quế. Đó là chưa nói tới các thứ thổ sán, khoáng sản khác...!

      Theo chính sử. Một phần đất phía bắc Quảng Nam - lấy con sông Tranh từ thượng nguồn chảy xuống Đại Lộc, thì dòng sông Tranh có tên gọi khác là sông Vu Gia. Sông Vu Gia tiếp tục chảy ra Bàn Thạch giáp giữa (Duy Xuyên và Điện Bàn). Dòng sông nầy là ranh giới phân định giữa Việt Nam và Chiêm Thành - [kể từ khi vua Chế Mân cắt hai châu Ô Lý dâng cho vua Trần Nhân Tông để xin cưới nàng công chúa xinh đẹp Huyền Trân]. Chính sử ghi: Công chúa Huyền Trân và đoàn tùy tùng tới thành Đồ Bàn [Bình Định] để nhận lễ tấn phong Hoàng Hậu nước Chiêm Thành. Theo lễ nghi tôn giáo trước khi tấn phong Hoàng Hậu, Công Chúa Huyền Trân phải ghé thánh địa Mỹ Sơn [Trà Kiệu] trước để gặp nhà vua Chế Mân đang đợi sẵn ở đó để cùng cúng tế...!

     Trên đường đi vô "quê chồng" khúc khuỷu quanh co... Công Chúa cảm thấy mệt mỏi nên ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ bên dòng sông... Đứng trước cảnh núi non trùng trùng điệp điệp..., Công Chúa hỏi đoàn tùy tùng nơi đây là đâu...? Và, Công Chúa được biết dòng sông nầy là biên giới cuối cùng của nước Việt. Thân gái dặm trường lại thêm nỗi nhớ nhà; nỗi thương cảm cho thân phận mình trong những ngày tới sống lẻ loi nơi đất khách quê người...! Nàng công chúa đã khóc…! Và lạ thay, một giọt nước mắt lăn xuống dòng sông nhưng không hòa tan theo dòng nước mà lại trầm xuống đáy sông. Giọt nước mắt ấy đã hóa ngọc, đêm đêm nổi lên soi sáng cả một vùng sơn lâm vắng lặng. Bến sông nầy được đặt cho cái tên là Bến Giằng nhằm ghi nhớ lại sự giằng xé tâm tư của cô công chúa xinh đẹp xót xa cho cuộc "hôn nhân ngoại giao". Xót xa cho phận gái vì nhà, vì nước phải đành ưng chịu lấy ngoại nhân làm chồng. Nàng Công Chúa nước Việt đành gạt nước mắt bước chân xuống thuyền qua bên kia biên giới của nước Chiêm để làm Hoàng Hậu - vĩnh viễn rời xa tổ quốc! Bữa tiễn đưa phận má hồng đi "lấy chồng" tràn đầy nước mắt...!

     Tương truyền còn ghi lại rằng: Cây quế ngày xưa chỉ có vị cay nồng chứ không tỏa mùi thơm.  Chính mùi hương từ mái tóc dài, đen tuyền, óng ả của nàng Công Chúa tỏa ra khắp núi rừng rồi thấm sâu vô cây Quế... Từ đó cây quế cho mùi hương của quế... Người ta dùng vỏ quế để chữa bịnh, thân cây quế đẽo làm guốc cũng để chữa bịnh... Câu nói truyền tụng trong vùng Quảng Nam "gạo châu củi quế" đã nói lên giá trị của cây quế.

     Quá khứ định hình cho tương lai, và nhà hiền triết đã nói: Trong "The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói:
- "Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh tái diễn lịch sử".

     Tháng chạp trở về, nhưng tôi chỉ trở về bằng ký ức... Tôi còn biền biệt phương xa, không những tôi còn biền biệt phương xa mà nhiều lớp con cháu sinh sau đẻ muộn cũng tiếp nối tôi để rồi biền biệt phương xa với nhiều nguyên do...! Nàng Huyền Trân Công Chúa đi lấy chồng ngoại, chồng của nàng là một ông vua Chiêm Thành trẻ tuổi, hào hoa và nàng đã đem về cho tổ quốc hai châu Ô & Lý. Nàng quả là có công lớn với nước Việt.

     Mấy trăm năm sau, hậu thân của nàng Công Chúa Huyền Trân là những cô gái ở những vùng quê nghèo, không ruộng đất, không được học hành. Các cô gái đó - họ cũng rất là xinh đẹp, họ cũng rất là hiền lành, họ cũng có rất nhiều ước mơ cho hạnh phúc của riêng mình. Nhưng than ôi: "Gia bần tri hiếu tử. Nước loạn thức trung thần". Vì chữ hiếu, vì gia cảnh mà các cô nhắm mắt đưa chân để cho ngoại nhân dùng tiền bạc "lựa" làm vợ hầu mong đổi đời...! Các cô cũng có nhiều "Bến Giằng" trước khi theo chồng bằng máy bay - phó mặc xác thân cho sự may rủi…! Cho dù các cô không đem về cho tổ quốc được một tấc đất nào như Công Chúa Huyền Trân, nhưng bù lại các cô đã mang về cho đất mẹ rất nhiều những đứa cháu ngoại kháu khỉnh; các cô đem về "ngoại tệ" - trước giúp cha mẹ, anh chị em, cha mẹ của các cô rất ư là tự hào vì đã có con gái đi lấy chồng ngoại quốc. Ai có nhiều con gái lấy chồng ngoại quốc là nhà có phước, dòng tộc thơm lây!

     Ngày mai tôi lại đi ra biển tập thể dục... Tôi nhìn biển xanh cho đôi mắt thêm xanh. Tôi nhìn sóng cho lòng tôi dậy sóng...Biển nơi xứ lạ nầy có khác gì biển ở quê nhà, nhưng tại sao trong lòng cảm thấy không có biển, không có biển vì không nghe trong gió tiếng thì thầm của ngọn phi lao [dương liễu]. Tôi quay về tháng chạp với nỗi lòng của một kẻ tha phương. Tôi vì lịch sử mà phải chịu tha phương đã đành, nhưng lớp con cháu có đứa lại đi theo bước chân của tôi...!

     Tháng Chạp, tôi nhớ tháng chạp có mưa phùn gió bấc; nhớ dòng họ Trần Phước... của tôi ở Quế Sơn. Tôi tưởng nhớ nàng Công Chúa Huyền Trân. Nàng có công rất lớn. Còn tôi...? Tôi là một kẻ vô tích sự, một kẻ lang bạc nơi xứ người!

Tôi lại làm thơ cho tháng chạp:

Tháng Chạp

MƯA lạnh ngắt ủ trời trầm lạnh ngắt
PHÙN gieo sương nặng sương muối liên miên
GIÓ trở chứng hắt vô lòng hiu-hắt
BẤC khơi đêm, đêm vọng thuở tiên-hiền
LẠNH xoay nóng vòng tròn xoay miên viễn
TƠI áo tơi rệu rã tả tơi đời
CON chim én gánh tin xuân én liệng
ĐI ra gò ngắm gò đất héo tươi
CHẠP tháng tận dậy men lòng chưa tận
MẢ cỏ già lớp trẻ có già theo
GOM hơi thở lắng nghe từng hơi thở
HƠI tiền nhân sưởi nhân nghĩa quê nghèo
ẤM trà nóng, nóng ấm vùng quá khứ
TÌNH tộc thân, vốn thân tộc như keo.

Mưa Phùn Gió Bấc Lạnh Tơi,
Con Đi Chạp Mả Gom Hơi Ấm Tình”.
(Trích hai câu trong thi tập của Trang Y Hạ).

Trang Y Hạ.






    

    


    

    

     
    








    

    


    

    

     
    


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét