THÁNG
CHẠP- NHỚ NÀNG HUYỀN TRÂN
“Gạo
tháng giêng, tiền tháng chạp”.
Buổi
sáng mặt trời còn đang chuẩn bị áo mão để "ra
mắt" vạn vật trên quả địa cầu, thì tôi chuẩn
bị chạy ra biển. Bầu trời tinh mơ còn tối om và
lạnh... Ngọn đèn đường đã mờ lại mờ hơn bởi màng
sương vây quanh tạo nên một bức tranh huyền ảo, nhưng
tuyệt nhiên không thấy loài thiêu thân tới tự tử...!
Thời gian sớm mai yên tĩnh
hầu như mọi nhà còn đang say ngủ, chỉ trừ mấy người
đi lao động sớm... Tôi cũng như một số người thích
ra biển sớm để tập thể dục, hít thở mùi biển, nghe
giọng nói thì thầm lẫn ồn ào của sóng
biển.
Biển ở vùng San Francisco rất lạnh chỉ thích hợp cho
những người lướt ván. Tôi ra biển tập thể dục vào
buổi sáng có hai nguyên nhân. Tôi yêu biển và tôi yêu
những hình bóng thân yêu từ bên kia bờ đại dương thấp
thoáng trong ký ức.
Mỗi buổi sáng như vậy tôi cảm nhận như là được
nghe lời nói của họ vọng sang...!
Tháng
chạp...! Ừ, là tháng chạp...! Ở chỗ tôi, nơi xứ lạ
không bao giờ có tháng chạp mà chỉ có tháng mười hai,
mặc dù trong lòng tôi - tháng chạp chất chứa biết bao
nhiêu kỷ niệm vui buồn từ những lần chia ly mà chưa
một lần được "châu về hiệp phố". Con thuyền
tha hương cứ mãi linh đinh...!
Sáng
nay tôi đang pha cà-phê thì nhận đươc cuộc gọi của
người em con ông chú: - "Anh
hai ơi! Hôm nay là ngày chạp mả...".
Tôi
thật sự xúc động…! Vị đắng của ly cà phê bữa nay
càng đắng thêm... Và, chính vị đắng đó đã làm cho
vùng ký ức trong đầu tôi trỗi dậy... Tôi xa quê đã
nhiều năm, xa vì lý do gì thì tôi chưa biết vì lúc đó
tôi còn quá nhỏ... Tôi nhớ có một lần - năm tôi
được sáu tuổi, cha tôi dẫn tôi đi chạp mả... Trời
cuối đông mưa phùn gió bấc lạnh tơi, vậy mà mọi
người trên
tay cầm cuốc, cầm liềm hăng hái xúm nhau dọn
sạch
cỏ
trên các nấm mộ của
ông
bà, một
số các bà các cô đi thắp nhang, cắm hoa...
Tới
trưa công việc dọn cỏ xong xuôi tất cả trở về nhà
thay quân áo mới,
rồi
tụ
tập về
nhà thờ tự.
Tôi
còn nhớ như in trong đầu khi cha tôi dẫn tôi tới ngôi
nhà thờ tự, rồi đi thẳng tới nhà ông Xã Tuyết, nơi
đó - dòng tộc mỗi năm sau khi giẫy mả xong thì mọi
người kể cả trẻ con - tất cả tụ tập về để cúng
bái tưởng nhớ tổ tiên ông bà, sau là ăn uống. Tôi còn
nhớ trước sân lớn của nhà ông xã Tuyết lát gạch
tàu, tháng chạp mưa phùn gió bấc, sân đóng rêu trơn
trượt. Người ta phải trải rơm để làm lối đi vô
trong nhà. Tôi không biết nên đi dạo trong sân và bị té
ngã sóng soài may là không chuyện gì xảy ra. Và, tôi cũng
còn nhớ trước bờ rao nhà ông xã Tuyết có một cái cây
cổ thụ rất cao, có trái chín màu vàng to cỡ bằng ngón
chân cái. Tôi không rõ đó là cây gì.
Trong
tộc có ấn định là khi giỗ chạp họ hàng bên ngoại
cúng vái ông bà trước, ăn trước xong xuôi ra về rồi
sau đó mới tới bên nội. Đó
là lần chạp mả đầu tiên tôi
đượcvà
cũng là lần cuối cùng trong cuộc đời ba chìm bảy nổi
của tôi.
Trước
đây khoảng mười năm. Một đứa cháu kêu tôi bằng bác
nói rằng: - "Bác
hai phải về nơi sinh ra trước tuổi bảy mươi".
Lúc
đó, tôi không hiểu ý câu nói của đứa cháu. Thời
gian sau tôi mới hiểu... Đúng là phải về trước
tuổi bảy mươi, để còn tỉnh táo nhận diện gia phả...
Phải còn tỉnh táo, khỏe mạnh để mà "cụng ly"
với ông bà tổ tiên; cụng ly với đàn em; với cháu chắt
và nhất là đầu óc còn sáng suốt để nghe kể lại bao
thăng trầm của dòng
tộc...!
oOo
Tôi
tha phương vì những nguyên do của lịch sử phải dẫn
tới tù đày và lưu vong để tìm nơi chốn nương thân.
Tôi tự hào là đã sinh ra ở xứ Quế Sơn [núi quế]
Quảng Nam. Tôi nhớ nàng công chúa Huyền Trân từ mấy
trăm năm về trước, nàng cũng ly hương nhưng nàng đã
đem về cho tổ quốc một vùng đất rộng lớn - Đó là
hai châu Ô, Lý. Vùng đất nầy từ xa xưa có hai thứ thổ
sản. Một là trái bòn bon. Hai là cây quế. Đó là chưa
nói tới các thứ thổ sán, khoáng sản khác...!
Theo
chính sử. Một phần đất phía bắc Quảng Nam - lấy con
sông Tranh từ thượng nguồn chảy xuống Đại Lộc, thì
dòng sông Tranh có tên gọi khác là sông Vu Gia. Sông Vu Gia
tiếp tục chảy ra Bàn Thạch giáp giữa (Duy Xuyên và Điện
Bàn). Dòng sông nầy là ranh giới phân định giữa Việt
Nam và Chiêm Thành - [kể từ khi vua Chế Mân cắt hai châu
Ô Lý dâng cho vua Trần Nhân Tông để xin cưới nàng công
chúa xinh đẹp Huyền Trân]. Chính sử ghi: Công chúa
Huyền Trân và đoàn tùy tùng tới thành Đồ Bàn [Bình
Định] để nhận lễ tấn phong Hoàng Hậu nước Chiêm
Thành. Theo lễ nghi tôn giáo trước khi tấn phong Hoàng
Hậu, Công Chúa Huyền Trân phải ghé thánh địa Mỹ Sơn
[Trà Kiệu] trước để gặp nhà vua Chế Mân đang đợi
sẵn ở đó để cùng cúng tế...!
Trên
đường đi vô "quê chồng" khúc khuỷu quanh co...
Công Chúa cảm thấy mệt mỏi nên ra lệnh cho đoàn tùy
tùng dừng chân nghỉ bên dòng sông... Đứng trước cảnh
núi non trùng trùng điệp điệp..., Công Chúa hỏi đoàn
tùy tùng nơi đây là đâu...? Và, Công Chúa được biết
dòng sông nầy là biên giới cuối cùng của nước Việt.
Thân gái dặm trường lại thêm nỗi nhớ nhà; nỗi thương
cảm cho thân phận mình trong những ngày tới sống lẻ
loi nơi đất khách quê người...! Nàng công chúa đã
khóc…! Và lạ thay, một giọt nước mắt lăn xuống dòng
sông nhưng không hòa tan theo dòng nước mà lại trầm
xuống đáy sông. Giọt nước mắt ấy đã hóa ngọc, đêm
đêm nổi lên soi sáng cả một vùng sơn lâm vắng lặng.
Bến sông nầy được đặt cho cái tên là Bến Giằng
nhằm ghi nhớ lại sự giằng xé tâm tư của cô công chúa
xinh đẹp xót xa cho cuộc "hôn
nhân ngoại giao". Xót
xa cho phận gái vì nhà, vì nước phải đành ưng chịu
lấy ngoại nhân làm chồng. Nàng Công Chúa nước Việt
đành gạt nước mắt bước chân xuống thuyền qua bên
kia biên giới của nước Chiêm để làm Hoàng Hậu - vĩnh
viễn rời xa tổ quốc! Bữa tiễn đưa phận má hồng đi
"lấy chồng" tràn đầy nước mắt...!
Tương
truyền còn ghi lại rằng: Cây quế ngày xưa chỉ có vị
cay nồng chứ không tỏa mùi thơm. Chính mùi
hương từ mái tóc dài, đen tuyền, óng ả của nàng Công
Chúa tỏa ra khắp núi rừng rồi thấm sâu vô cây Quế...
Từ đó cây quế cho mùi hương của quế... Người ta dùng
vỏ quế để chữa bịnh, thân cây quế đẽo làm guốc
cũng để chữa bịnh... Câu nói truyền tụng trong vùng
Quảng Nam "gạo châu củi quế" đã nói lên giá
trị của cây quế.
Quá
khứ định hình cho tương lai, và nhà hiền triết đã
nói: Trong "The
of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George Santanaya)
cuối thế kỷ 19, có nói:
-
"Những kẻ nào không nhớ đến những chuyện xảy ra
trong quá khứ thì thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh
tái diễn lịch sử".
Tháng
chạp trở về, nhưng tôi chỉ trở về bằng ký ức...
Tôi còn biền biệt phương xa, không những tôi còn biền
biệt phương xa mà nhiều lớp con cháu sinh sau đẻ muộn
cũng tiếp nối tôi để rồi biền biệt phương xa với
nhiều nguyên do...! Nàng Huyền Trân Công Chúa đi lấy
chồng ngoại, chồng của nàng là một ông vua Chiêm Thành
trẻ tuổi, hào hoa và nàng đã đem về cho tổ quốc hai
châu Ô & Lý. Nàng quả là có công lớn với nước
Việt.
Mấy
trăm năm sau, hậu thân của nàng Công Chúa Huyền Trân là
những cô gái ở những vùng quê nghèo, không ruộng đất,
không được học hành. Các cô gái đó - họ cũng rất là
xinh đẹp, họ
cũng
rất là hiền lành, họ
cũng
có rất nhiều ước mơ cho hạnh phúc của riêng mình.
Nhưng than ôi: "Gia
bần tri hiếu tử. Nước loạn thức trung thần".
Vì chữ hiếu, vì
gia cảnh
mà các cô nhắm mắt đưa chân để cho ngoại nhân dùng
tiền bạc "lựa" làm vợ hầu mong đổi đời...!
Các cô cũng có nhiều "Bến Giằng" trước khi
theo chồng bằng máy bay - phó mặc xác thân cho sự may
rủi…! Cho dù các cô không đem về cho tổ quốc được
một tấc đất nào như Công Chúa Huyền Trân, nhưng bù
lại các cô đã mang về cho đất mẹ rất nhiều những
đứa cháu ngoại kháu khỉnh; các cô đem về "ngoại
tệ" - trước giúp cha mẹ, anh chị em, cha
mẹ của các cô rất ư là tự hào vì đã có con gái đi
lấy chồng ngoại quốc. Ai có nhiều con gái lấy chồng
ngoại quốc là nhà có phước, dòng tộc thơm lây!
Ngày
mai tôi lại đi ra biển tập thể dục... Tôi nhìn biển
xanh cho đôi mắt thêm xanh. Tôi nhìn sóng cho lòng tôi dậy
sóng...Biển nơi xứ lạ nầy có khác gì biển ở quê
nhà, nhưng tại
sao
trong lòng cảm thấy không có biển, không có biển vì
không nghe trong gió tiếng thì thầm của ngọn phi lao
[dương
liễu].
Tôi quay về tháng chạp với nỗi lòng của một kẻ tha
phương. Tôi vì lịch sử mà phải chịu tha phương đã
đành, nhưng
lớp con cháu có
đứa lại
đi theo
bước
chân của
tôi...!
Tháng
Chạp, tôi nhớ tháng chạp có mưa phùn gió bấc; nhớ
dòng họ Trần Phước... của tôi ở Quế Sơn. Tôi tưởng
nhớ nàng Công Chúa Huyền Trân. Nàng có công rất lớn.
Còn tôi...? Tôi là một kẻ vô tích sự, một kẻ lang bạc
nơi xứ người!
Tôi
lại làm thơ cho tháng chạp:
Tháng Chạp
MƯA lạnh ngắt ủ
trời trầm lạnh ngắt
PHÙN gieo sương nặng
sương muối liên miên
GIÓ trở chứng hắt
vô lòng hiu-hắt
BẤC khơi đêm, đêm
vọng thuở tiên-hiền
LẠNH xoay nóng vòng
tròn xoay miên viễn
TƠI áo tơi rệu rã
tả tơi đời
CON chim én gánh tin
xuân én liệng
ĐI ra gò ngắm gò đất
héo tươi
CHẠP tháng tận dậy
men lòng chưa tận
MẢ cỏ già lớp trẻ
có già theo
GOM hơi thở lắng
nghe từng hơi thở
HƠI tiền nhân sưởi
nhân nghĩa quê nghèo
ẤM trà nóng, nóng ấm
vùng quá khứ
TÌNH tộc thân, vốn
thân tộc như keo.
“Mưa Phùn Gió Bấc
Lạnh Tơi,
Con Đi Chạp Mả
Gom Hơi Ấm Tình”.
(Trích hai
câu trong thi tập của Trang Y Hạ).
Trang
Y Hạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét