Theo giai thoại, thì Lương Ý Nương là con gái của Lương Tiêu Hồ, hay còn gọi là Lương Công. Sống vào thời Hậu Chu (907-955), nơi vùng đất có dòng sông Tiêu Tương chảy qua, thuộc huyện Ninh Lăng, Hồ Nam. Lương Ý Nương vốn nổi tiếng là đẹp và hay chữ... Ngày sinh và ngày mất của Lương Ý Nương không rõ. Lương Ý Nương có mối tình rất thắm thiết với người anh con cô con cậu ruột, cùng họ tên là Lý Sinh. Hai người hay hẹn hò bên nhau trong những đêm trăng sáng, và thề bồi rằng sẽ ở bên nhau cho đến trọn đời (theo tục lệ người Hoa, anh em con cô con cậu được lấy nhau như trường hợp thi sĩ Lục Du và nàng Đường Uyển). Nhưng cha mẹ cấm cản..., Lương Ý Nương đau khổ, bà làm bài thơ "Trường Tương Tư" trong độ mùa thu sang - bài thơ đã đi vào thi sử trong mấy nghìn năm sau.
Tôi đã viết về chuyện tình thi sĩ Lục Du - Đường Uyển - "Hai người họ lấy nhau, rồi phải xa nhau và chết vì nhau...!". Nay tôi chuyển thơ của thi sĩ Lương Ý Nương - để thương cảm mối tình không thành - qua điệu thơ lục bác liền vần, đậm tình quê hương Việt Nam, hơn nữa là đễ dễ cảm nhận nỗi "...tương tư" của bà. Tôi ngưỡng mộ và trân trọng bài thơ của thi sĩ, tôi mạn phép dịch - dù dịch bài thơ chưa hoàn hảo, nhưng với tấm lòng thành kính - mong hương hồn thi sĩ niệm thứ!
長 相 思
Trường Tương Tư
落 花 落 葉 落 紛 紛
Lạc hoa lạc diệp lạc phân phân,
盡 日 思 君 不 見 君。
Tận nhật tư quân bất kiến quân.
腸 欲 斷 兮 腸 欲 斷,
Trường dục đoạn hề trường dục đoạn,
淚 珠 痕 上 更 添 痕。
Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân.
我 有 一 寸 心,
Ngã hữu nhất thốn tâm,
無 人 共 我 說。
Vô nhân cộng ngã thuyết.
願 風 吹 散 雲,
Nguyện phong xuy tán vân,
訴 與 天 邊 月。
Tố dữ thiên biên nguyệt.
攜 琴 上 高 樓,
Huề cầm thượng cao lâu,
樓 高 月 花 滿。
Lâu cao nguyệt hoa mãn.
相 思 未 必 終,
Tương tư vị tất chung,
淚 滴 琴 玄 斷。
Lệ trích cầm huyền đoạn.
人 道 湘 江 深, (1)
Nhân đạo Tương giang thâm,
未 抵 相 思 畔。
Vị để tương tư bạn.
江 深 終 有 底,
Giang thâm chung hữu để,
相 思 無 邊 岸。
Tương tư vô biên ngạn.
君 在 湘 江 頭,
Quân tại Tương giang đầu,
我 在 湘 江 尾。(2)
Ngã tại Tương giang vĩ.
相 思 不 相 見,
Tương tư bất tương kiến,
同 飲 湘 江 水。
Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
夢 魂 飛 不 到,
Mộng hồn phi bất đáo,
所 欠 唯 一 死。
Sở khiếm duy nhất tử.
入 我 相 思 門,
Nhập ngã tương tư môn,
知 我 相 思 苦。
Tri ngã tương tư khổ.
長 相 思 兮 長 相 思,
Trường tương tư hề, trường tương tư,
長 相 思 兮 無 盡 極。
Trường tương tư hề, vô tận cực.
早 知 如 此 罫 人 心,
Tảo tri như thử quải nhân tâm,
迴 不 當 初 莫 相 識。
Hồi bất đương sơ mạc tương thức.
LỜI GIÓ MƯA
Trang Y Hạ
Trong thơ của người Tàu xưa, có thể nói thơ của nữ thi sĩ Lương Ý Nương viết về tình yêu là rất sâu nặng và vang vọng mãi tới nghìn sau, với các đoạn thơ thấm đẫm nỗi u hoài nhớ mong, và có thể hy sinh cả mạng sống cho tình yêu… Thơ của nữ sĩ làm từng bốn câu, theo lối biền ngẫu.
Từ lâu đã có nhiều tác giả dịch
thơ của nữ sĩ. Tuy nhiên chỉ dịch theo từng đoạn riêng biệt theo lối Đường Thi,
dịch theo “hàn lâm” kiểu “sao y bản chánh” - chứ không dịch liên hoàn để kết nối
ý thơ… Tôi vì yêu thích thơ tình của nữ thi sĩ, cảm thấu hồn thơ cũng như cách
xử dụng ngôn ngữ thơ của nữ sĩ quá thật lòng, tha thiết. Từng câu thơ chở ý
nghĩa nồng ấm, sâu đậm - không làm mất đi đức hạnh, duyên ngầm của người phụ nữ
thời phong kiến.
Là người Việt Nam, yêu thơ lục
bác. Tôi cố công dịch ý - dịch kết nối ý thơ liên hoàn suốt các đoạn thơ của nữ
thi sĩ để cho người đọc cảm thấy suôn sẻ, đồng thời thấu hiểu hơn chân tình của
nữ thi sĩ đối với tình yêu. Thơ tình của nữ thi sĩ Lương Ý Nương có phong cách
thư thái, trang đài, diễm lệ, không ủy mị hay sáo ngữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét