NGƯỜI CON GÁI BỒNG
SƠN
Trang Y Hạ
Ngày tôi về công tác tại
xã Tri Lễ, theo lịch công tác thì ít nhứt cũng phải nửa
năm. Trong lòng có mơ ước được làm quen với một người
con gái ở trong cái xã nầy. Tôi vốn nhút nhát lại thêm
công việc bù đầu, bù cổ nên chuyện riêng tư dần dà
rồi cũng quên bẵng luôn.
Bầu trời Cao Nguyên,
DakTo đã chuyển sang mùa nắng... Mỗi buổi sáng sương
muối dày đặc, lạnh tê tái… Khoảng chín hoặc mười
giờ lúc đó mới thấy ánh mặt trời, tia nắng ban mai bừng lên
nhưng chỉ là một thứ ánh sáng trang trí cho đẹp chứ không đem lại hơi ấm bởi mùa đông gió
núi... Tôi nhớ ngày đầu mới tới xã Dinh Điền nầy
mọi thứ còn bỡ ngỡ, thiếu thốn... Đơn vị chen chúc
ở trong ngôi nhà hành chánh tạm thời và bắt tay làm
công sự phòng thủ... Tôi phải xin ở tạm trong một ngôi
nhà của người dân gần đó.
Người phụ nữ chủ nhà
khoảng ngoài bốn mươi tuổi, dáng vẻ bệ vệ, nghiêm
nghị, bà mở cửa bước ra chào chúng tôi và hỏi:
- Các anh tới xin ở gồm
có mấy người?
Bà nói giọng (Bồng Sơn.
Tam Quan). Tôi trả lời:
- Da thưa cô chúng tôi có
hai người. Chúng tôi xin cô chú cho ở tạm chừng mươi
hôm một khi đơn vị làm công sự... hoàn tất thì sẽ
dời ra đó. Chúng tôi rất biết ơn cô chú!
Bà chủ dẫn chúng tôi ra
phía sau... Căn nhà bếp hơi tuềnh toàng, nhìn kỹ thì
cũng khá sạch sẽ, rộng rãi... Bếp núc lạnh tanh, hình
như gia đình không thường xuyên nấu ăn ở nhà thì phải?
Chúng tôi nhanh chóng ổn định chỗ ngủ rồi đi chợ...
Vợ chồng bà chủ nhà làm nghề gì thì mới đầu tôi
chưa biết, tôi chỉ thấy hai người chở nhau trên chiếc
xe HonDa 67 rời khỏi nhà từ sớm... Người phụ trách máy
truyền tin “Âm-Thoại-Viên”, anh ấy ở chung với tôi.
Anh ta đi chợ: mua một mớ rau cải và cá... Ngặt một
nỗi là không có thau chậu để mà rửa... Tôi nhìn lên
nóc bếp thấy một cái thau nhôm khá lớn, nghĩ là vật
dụng nhà bếp, nên lấy xuống dùng... Tới chiều tối vợ
chồng chủ nhà đi làm về. Bà chủ mở cửa bước ra hỏi
thăm chúng tôi:
- Các anh có nấu nướng,
ăn uống gì chưa?
- Dạ thưa cô chúng tôi
tự lo được. Có điều là tôi chưa kịp mua thau, nên mạo
muội lấy cái thau nhôm của cô trên giàn bếp xuống: rửa
cá, rửa rau… Mong cô bỏ qua cho. Tôi nói xong, tôi thấy
vẻ mặt bà chủ sững sờ! Tôi chưa biết chuyện gì, nên
có phần hơi lo lắng.
Bà chủ nhà hình như đoán
được ý nghĩ của chúng tôi.
Bà nói:
- Không có chuyện gì đâu.
Trong người của tôi hôm nay hơi mệt…! Bà chủ cầm cái
thau nhôm đi vô nhà.
Ngày hôm sau, trước khi
đi làm, ông bà chủ nhà dặn dò chúng tôi dùng nước nấu
ăn ở trong cái thùng phuy, còn thau chén, soong, nồi ở
trong tủ và dặn thêm rằng khi dùng xong nhớ dậy nắp kỹ
càng vì đã vào mùa nắng, bui đất đỏ do xe nhà binh
chạy tung bụi… Bây giờ tôi mới hiểu cái giếng có
nắp đậy làm bằng tấm tôn, có ổ khóa cẩn thận là
sợ bụi - (nước hút bụi).
Ở quận DakTo có hai xã
Dinh Điền. Một là xã Diên Bình nằm trên trục quốc lộ
14, bên dòng sông Dakpsi, còn xã Tri Lễ nằm trên tỉnh lộ
512, cạnh dòng sông Pơ-Kô, kế cận Phi trường Phương
Hoàng. Tỉnh lộ 512 bắt đầu từ Tân Cảnh chạy qua
Trung Đoàn 42, Phi Trường Phượng Hoàng, xã Tri Lễ, làng
Daktri, làng Dakmot, làng Yanglokơram và chạy thẳng ra ngã
ba biên giới (Việt-Miên-Lào). Nơi đây có tiền đồn Ben
Hét, còn có tên gọi khác là đồn (Bạch Hổ). Chiều dài
tỉnh lộ khoảng hơn ba mươi cây số.
Phi Trường Phượng Hoàng,
ban đầu chỉ là Phi Trường dành cho phi cơ trực thăng.
Đầu năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu [1966]. Sư Đoàn
Không Vận của Hoa Kỳ đổ quân về Phi Trường... Họ mở
rộng phi đạo dài thêm ra để cho các loại máy bay vận
tải chở quân trang, quân dụng và các phương tiện chiến
tranh đáp xuống... Đồng thời họ cũng tuyển mộ thanh
niên người Việt, người Thương - thành lập đơn vị
bảo vệ Phi Trường cũng như tăng viện, yểm trợ các
nơi trong quận DakTo khi hữu sự... Ngoài ra mỗi tuần có
hai chuyến “công-voa” dài dằng dặc chở phương tiện
chiến tranh từ Bến Cảng Qui Nhơn tới Phi Trường Phượng
Hoàng và tiền đồn Ben Hét.
Nơi đầu Phi
Trường Phượng Hoàng (tính
từ Tân Cảnh đi vô) đã hình thành vài
dãy phố tạm bợ – mái lợp bằng
tôn, vách che bằng ván ép... Người
ta mở quán xá đủ loại: Tiệm tạp hóa, Tiệm ăn uống,
Quán nhậu, Quán Bar, Bi-da, Bóng bàn, Hớt tóc, Uốn tóc,
Tiệm giặc quần áo... Khách khứa tới hầu hết là lính
Mỹ, lính Việt... Nói chung là phục vụ nhu cầu cho lính
Mỹ nhiều hơn. Dọc theo Phi Trường, sát Tỉnh lộ - người
Mỹ họ làm hàng rào bằng lưới mắt cáo cao ba mét. Ở
cuối Phi Trường Phượng
Hoàng (ngay đầu cầu Tri Lễ) cũng hình thành
một cái chợ trời, các Dãy
Sạp dài hàng ba bốn chục mét,
hầu hết buôn bán trao đổi hàng hóa Mỹ. (nơi đây cũng
có quán nhậu).
Người dân xã Tri Lễ
hiện nay hầu hết không còn làm nông. Một số họ đi
buôn bán nhỏ, một số họ đi lượm rác của quân đội
Mỹ thải ra ở cuối Phi Trường (gần cầu Tri Lễ) mỗi
ngày... Bãi rác Mỹ nằm trên một mảnh đất rất rộng.
Nơi đó có hàng chục thùng “Tô-Nô”, “Conex” đầy
ắp các loại rác mà trong các thứ rác Mỹ đó có nhiều
thứ còn dùng rất tốt: (Thùng giấy carton, Ván ép, Gỗ
thùng đạn, Trái cây, Đồ hộp. Đồ nhựa, Muỗng inox,
Vải dù, Dây dù, Kem đánh răng, Bàn chải, Đồ cạo râu,
Xà bông cạo râu, Bao nylon, Gạo, Gạo sấy, Rau, Củ, Quả,
Bánh, Kẹo, Búa, Đinh, Kềm, Ốc, Vít, Viết …). Nói chung
là cứ lượm rác Mỹ đem về phân loại ra, cái nào tốt
thì đem đi bán cho các con buôn ở Chợ Trời, các thứ
còn lại không bán được thì để ở nhà mà dùng…
Trong rác Mỹ đó cũng có một số hàng hóa của người
Việt bởi lính Mỹ thích mua, hoặc được các cô gái
“mời mua”… Một thời gian sau họ đem đi bỏ vô thùng
rác. Ngoài ra lính Mỹ còn đem đồ dùng của
họ tới các: (Tiệm, Sạp) bán một
số mặt hàng có giá trị: (Xà bông,
Thuốc lá, Nước hoa, Rượu,
Bia, Quần áo lính, Giày,
Máy ảnh, Đồng hồ, Radio,
Giường xếp, Poncho, Đèn
pin, Ba lô, Hòn quẹt zippo, Súng ngắn. Thuốc diệt ruồi
muỗi, Thùng phuy, Thùng Tô Nô…). Nhìn
chung lính Mỹ khi cần tiền là cái gì của họ họ cũng
đem đi bán. Hoặc mỗi khi có lệnh di chuyển đi chỗ
khác, hay rút quân khỏi căn cứ - họ cũng tháo đồ đem
đi bán!
Vợ chồng người chủ
nhà mà tôi đang ở nhờ họ cũng có một cái Tiệm chuyên
giặt đồ Mỹ ở cái “phố” mới nổi nơi đầu Phi
Trường. Giặt ủi quần áo Mỹ thường trúng được Mỹ
Kim (đô-La đỏ) và các vật dụng khác do lính Mỹ bỏ
quên trong các túi quần áo... Ở
xứ có đạo Công Giáo,
như xã Diên Bình quý Cha
Giáo Xứ
cấm giáo dân nhận giặt
quần áo Mỹ. Lý do, trong túi quân áo lính Mỹ có hình
ảnh “tục
tiểu”... Giáo
dân nào bất tuân sẽ bị cấm không được
lên rước lễ hoặc dứt
phép thông công.
Ngày Chúa Nhựt, tôi thấy
vợ chồng chủ nhà không đi làm. Tôi có nghe tiếng nói
của người con gái từ nhà trên vọng ra... Tôi đoán có
thể đó là con gái của họ. Đã gần bốn ngày trôi qua
bây giờ tôi mới biết chủ nhà có con gái nên trong lòng
cũng ao ước muốn gặp… Tôi nghe tiếng cô gái mở cửa
sau bước ra. Cô vui vẻ, nói:
- Chào ông! Ông về xã
công tác thời gian được bao lâu? Tôi là con gái lớn ở
rong gia đình nầy. Hân hạnh được gặp các ông và cũng
hy vọng chúng ta sẽ là bạn tốt.
Tôi xếp quyển sách nhìn
phớt qua khuôn mặt cô gái. Cô không đẹp mấy nhưng
phong cảnh dễ nhìn, vui vẻ, dáng người cao ráo, khỏe
mạnh... Đặc biệt là giọng nói Bồng Sơn của cô nghe
rất êm tai.
Tôi cũng tỏ ra lịch sự
và vui vẻ, nói:
- Xin chào cô. Tôi tới
xin ở nhờ cha mẹ của cô đã mấy bữa. Hôm nay thật
hân hạnh được gặp cô. Tôi nghĩ rằng cô đang đi học
ở xa mới về nhà? Còn thời gian tôi tới xã nầy công
tác thì chưa biết. Nhưng có lẽ cũng khoảng... Sáu tháng.
Cô gái cười, nói:
- Thưa ông. Không phải
tôi đi học đâu... Tôi đi buôn bán đồ Mỹ ở kế bên
đầu cầu Tri Lễ nầy đó... Nghe cha mẹ tôi nói:
“...Trong nhà có ba ông cán bộ dân-sự-vụ
tới xin ở tạm”.
Tôi tò mò muốn biết, nên buổi chiều tôi gom hàng về
sớm để bên nhà bà dì và ngủ luôn bên nhà bà dì.
Cô gái nói tiếp:
- Tôi trông ông rất...
quen! Tôi thấy ông ở đâu đó rồi thì phải?
Cô gái nhíu mày chừng
vài ba giây rồi reo lên:
- Tôi nhớ ra rồi. Đúng
rồi:
- Ông là lính ở trong Phi
Trường Phượng Hoàng? Đôi ba lần tôi có thấy ông đi
ra phố ở đầu Phi Trường - uống bia, hớt tóc... Ông là
sĩ quan! Tại sao bây giờ ông lại chuyển qua ngành "Cán Bộ Nông Thôn vậy?".
Biết rằng đã bị “lật
tẩy”… Tôi không thể chối. Tôi đành mỉm cười, nói:
- Chuyện còn dài lắm cô
ơi…! Hôm nào rảnh tôi sẽ cho cô biết lý do nha!
Cô gái có vẻ không chịu.
Cô nói:
- Buổi trưa, (bất cứ
buổi trưa nào) nếu ông rảnh rỗi - ông đi bộ ra Sạp
Hàng của tôi ở đầu cầu. Chúng ta sẽ nói chuyện,
(chuyện của ông). Có được không vậy hở ông?
Giọng cô gái có vẻ như
quả quyết, pha chút nghiêm nghị…, làm cho tôi hơi sờ
sợ.
Tôi đành phải nói:
- Thôi được. Nhưng tôi
mà ra chỗ cô bán hàng nói chuyện, cha mẹ cô họ thấy
họ nghi ngờ... thì làm sao? Hoặc nếu có anh chàng nào đó
ganh ghét khi tôi ngồi nói chuyện với cô thì làm sao đây?
Cô gái cười hiền từ,
nói:
- Ông lo quá xa rồi đó!
Cha mẹ của tôi đã biết về ông rồi... Hơn nữa ông
đang ở trong nhà của chúng tôi mà. Hơn nữa, ông là đơn
vị trưởng của một đơn vị mà… Vả lại, xưa nay tôi
cũng đâu có quen người nào để tới nỗi họ phải ganh
tỵ với ông... (dù nếu có, thì chắc gì họ dám ganh
tỵ). Thanh niên ở trong cái xã nhỏ nhoi nầy phần nhiều
ít học hành. Một số đi lính, số còn lại lo đi lượm
rác Mỹ. Tôi vô nhà lo phần công chuyện của tôi đây!
Cô ấy là người con gái
duy nhứt tôi quen ở cái xã Tri Lễ nầy. Và cũng là người
con gái duy nhứt hẹn hò với tôi. Và cũng là lần đầu
tiên tôi được người con gái hẹn.
Công sự phòng thủ đã
làm xong, sát bên đồn Nghĩa Quân. (Nói là đồn chứ thật
ra là cái nhà xây gồm hai phòng khá rộng dùng để trực
chiến ban ngày, ban đêm các anh Nghĩa Quân về nhà ngủ).
Quân số đâu chừng một tiểu đội, khi chúng tôi tới
thì họ nhường hẳn ngôi nhà cho chúng tôi ở tạm và
làm văn phòng. Ban ngày họ cử một người ứng trực, số
còn lại về nhà đi làm kiếm sống... Khi nơi ăn, chốn ở
đã ổn định, công việc phân phối xong cho anh chị em.
Một buổi trưa trời oi bức tôi mang khẩu súng Colt 45 và
đem theo khẩu súng Garant đồng thời rủ thêm một người
nữa đi ra bờ sông Pơ-Kô tắm và dò xem địa hình...
Ngồi nhìn dòng nước trong xanh, hiền hòa lờ đờ chảy
quanh co qua các bãi đá mà tự hỏi: Tại sao cái xã Tri Lễ
nầy chỉ có khoảng hơn trăm ngôi nhà, trong vườn lại
không có lấy một cây ăn trái, duy nhứt chỉ lưa thưa
mấy lùm chuối sứ bị gió mùa khô thổi rách te tua...
Đất “bazan” màu mỡ, dòng sông Pơ-Kô hiền hòa chảy
quanh năm... Vậy mà dân trong xã lại không canh tác? Đang
suy nghĩ miên man, bất chợt ngó qua bên kia bờ sông, bờ
sông bên kia rừng lá âm u huyền bí... Tôi thấy một con
vật nho nhỏ hì hụp bơi về phía chỗ tôi đang ngồi.
Ban đầu cứ tưởng là con chó, nhưng con vật bơi tới
gần thì càng lớn, lúc đó tôi mới nhận ra là một con
Mang đi lạc. Người bạn đi cùng bắt con Mang đó đem về
đồn với vẻ mặt mừng rỡ…!
Người lính Nghĩa Quân
thấy con Mang thì hốt hoảng, nói:
- Mang đi lạc vô làng là
nát làng đó ông sếp ơi. Mang lạc là điềm chẳng lành
ông sếp ơi!
Tôi không bao giờ tin mấy
điều dị-đoan, nhưng tôi cũng không phản đối. Con Mang
đem đi làm thịt khao thưởng cho tất cả mọi người…
Bẵng đi một thời gian chẳng thấy chuyện (không lành)
xảy ra, mọi người cũng quên luôn chuyện con Mang đi lạc.
Tôi nhớ lời cô gái hẹn… Tôi sửa sang quần áo chỉnh
tề rồi đeo súng, một mình thả bộ ra đầu cầu Tri Lễ
- nơi cô gái ngồi bán hàng... Thấy tôi đi bộ tới, cô
nàng mừng rỡ ra mặt, hình như cô nàng đã chuẩn bị
chỗ ngồi sẵn cho tôi (ngồi hơi gần nàng). Tôi tản lờ
và ngồi vô vị trí đó, nếu ai tới mua hàng, họ sẽ
nghĩ tôi là người nhà.
Tôi gợi chuyện:
- Cô Bồng Sơn ơi. Vì sao
mà cái xã cô ở không có lấy một cái cây để che mát
cho mùa nắng cháy vậy. Ngồi trong nhà mái tôn nóng hầm
hập như thiêu, như đốt?
- Ủa…! Làm sao mà ông
biết tôi ở Bồng Sơn? Cô gái ngạc nhiên nhưng ánh mắt
hình như: vui...vui…!
- Tôi nghe giọng cô nói,
nên tôi mới đoán rằng: cô ở Bồng Sơn. (Tam Quan). Mà
cô có thích cái tên Bồng Sơn không?
Cô gái im lặng một hồi
rồi tự giới thiệu:
- Tôi tên là Bích, họ Lê
Thị. Bây giờ nghe ông gọi tôi là: Bồng Sơn, thì cũng
được đi, thì nghe cũng hay. Dù gì nơi (xứ dừa) đó
cũng là quê hương gốc của tôi mà!
Tôi nói tiếp:
- Vậy cô có biết hai chữ
Bồng Sơn có ý nghĩa như thế nào không? Hai chữ đó nếu
giảng giải ra thì hay lắm đó.
Cô gái không trả lời
tôi. Cô nhìn chăm chăm lên dãy núi cao ở xa xa... Tôi cũng
nhìn theo... Trên dãy núi cao mây mù, sương mù bao phủ cả
ngày, đã có lần chiến trận xảy ra phi cơ không thấy
rõ “mục tiêu” để ném bom đành phải quay trở về.
Trên các đỉnh núi, giới quân sự đặc tên: “Căn cứ
hỏa lực 5 & 6…”. Ở trên đó họ xây công sự kiên
cố, trang bị những khẩu đại pháo 155 ly, 175 ly. do quân
đội Mỹ trấn giữ nhằm yểm trợ cho toàn vùng DakTo…
Trên các dãy núi có xảy ra nhiều trận đánh lớn, xương
máu của hàng ngàn thanh niên hai miền (Nam, Bắc) nằm lại
vĩnh viễn nơi triền núi mà nào có ai nhang khói… Cô gái
thở dài, nét mặt trầm trầm có vẻ suy nghĩ về một
điều gì đó mà tôi không thể đoán ra. Tiếng súng đại
bác tôi đã nghe quen tai. Người dân sống trong thời chiến
tranh giấc ngủ cũng không yên ổn!
Đem
nghe đại bác dội ngang,
tưởng như từ phía
thiên đàng ghé thăm. Thơ:
Trang Y Hạ
Bất chợt cô gái quay
người lại nhìn thẳng vô mắt tôi, nói:
- Ông biết không? Xã Tri
Lễ chúng tôi là một xã Dinh Điền – hình thành từ năm
– một ngàn chín trăm năm mươi bảy [1957] – với số
dân ban đầu khoảng – một ngàn năm trăm người – từ
các quận ở Bình Định mà nhiều nhứt là Hoài Ân, Bồng
Sơn lên lập nghiệp... Ban đầu người dân được chính
phủ trợ cấp lương thực trong tám tháng, các vật dụng
dùng để canh tác kể cả các loại hột giống chính phủ
cung cấp đầy đủ. Đất canh tác cũng được san ủi
bằng phẳng rồi được phân chia cho từng gia đình... Ông
thấy đó. Từ cầu Tri Lễ cho tới dốc cầu Dakmot là một
Bình Nguyên rộng lớn dựa theo con sông Pơ-Kô, rất thuận
lợi cho sản xuất nông nghiệp. Dân ở đây có trồng cây
cao su cây đay ngắn ngày và các loại hoa màu khác... Cuộc
sống ổn định thì tai họa ấp tới... Tai họa lớn đó
là đám tướng lãnh phản chủ nhận tiền Mỹ giết chết
gia đình (Cụ Diệm), giết chết nền “Đệ Nhứt Cộng
Hòa” non trẻ. Người dân vùng Dinh Điền như rắn mất
đầu, còn đám tướng lãnh lo đấu đá tranh giành quyền
bính mà bỏ bê người dân, đất nước, rừng cao su bị
đốt cháy rụi, ấp chiến lược phá bỏ, an ninh lỏng
lẻo… Từ đó người dân ở trong Dinh Diền bỏ đi về
quê hoặc lưu tán khắp nơi... Ông thử nhìn xem ở xã Tri
Lễ ngày nay chỉ còn khoảng hơn một trăm nóc nhà. Hiện
giờ ở xã: không Trường học, không Trạm xá, không Nhà
thờ, không Chùa. không Chợ… (trước đây đều có). Tôi
chỉ học hết lớp nhứt! Hôm nay các ông về... Tôi hy
vọng rằng các ông sẽ giúp dân Tri Lễ phục hồi lại
những thứ đã mất.
Cô gái đang nói, bổng
ngưng bặc rồi chạy nhanh ra đường nhận mấy thùng
hàng... Tôi thấy có một thùng rượu Whiskey 45 loại chai
vuông; một thùng rượu Naponeon nắp đen, một thùng thuốc
lá Mỹ. Một thùng trái cây cũng của Mỹ và các thứ
hàng hóa lỉnh khỉnh khác.
Cô gái xin lỗi tôi, rồi
cô nói chậm rãi:
Ông biết không? Trời
sanh, nhưng trời không diệt. Chính con người mới
“Truy cùng diệt tận”…
Dịp may cho xã Tri Lễ nầy là lính Mỹ tới đóng đồn ở
Phi Trường Phượng Hoàng. Họ xây dựng công sự chiến
đấu, họ mở rộng phi đạo, họ tái thiết đường
sá... Họ mang tới vùng đất Cao Nguyên một luồng sinh
khí mới - ấm áp, thân thiện, văn minh đồng thời tạo
công ăn việc làm… Dân ở Tri Lễ còn trụ lại ít ỏi,
bám theo lính Mỹ mà sống… Nói chính xác hơn là xúm
nhau đi lượm rác của quân đội Mỹ, phục dịch các nhu
cầu cho quân đội Mỹ, cũng nhờ có rác Mỹ mà một số
người trở nên giàu có và rất giàu có!
Tôi ngồi im lặng chăm
chú nghe cô gái nói chuyện như là tâm tình san sẻ nỗi
dằn vật của con người ly hương đi tìm một vùng đất
hứa mà bị thất hứa hơn là sự diễn đạt một đề
tài trong một áng văn “nghị luận”!
Cô ấy nói tiếp giọng
trầm trầm:
Ông biết không? Cái xã
Tri Lễ các cây ăn trái trụi hết lá, đứng trơ cành...
Nguyên do là từ chất bột trắng đựng trong các thùng
màu vàng chất đống ở cuối Phi Trường Phượng Hoàng
đó! Tôi nói vậy chắc ông sẽ ngạc nhiên lắm phải
không? Ông ngạc nhiên là đúng thôi. Những cánh rừng
chung quanh đây vẫn đang còn đang xanh um kia kìa...? Trong
rác Mỹ có đủ thứ rác: từ thùng carton, ván ép, bao
nylon, ván thùng đạn, tôn, cây gỗ thông, nhựa đường,
sơn các loại... Người dân trong xã gom về: phân loại ra
dùng làm nhà, làm vách nhà, đóng bàn tủ ghế... Tận
dụng hết chứ không bỏ thứ gì. Trong số rác đó có
một số (vô tình) dính loại hóa chất hoặc thấm thứ
nước hóa chất từ bột trắng do lính Mỹ pha loãng […].
Thứ bột trắng đục đó chính là thuốc diệt cỏ, hay
còn gọi là nước hóa chất làm rụng lá cây... Loại cây
trụi lá trước tiên là loại cây trong thân có mủ: cây
mít, cây xoài, cây đu đủ… Xã Tri Lễ trước đây ở
trong vườn, trong rẫy nhà nào cũng trồng: mít, xoài…
xum suê, xanh mát. Vậy mà, bây giờ tìm một cái tàng cây
để tránh nắng cũng chẳng có. Người dân ngang qua Phi
Trường; đi lượm rác ở Phi Trường Phượng Hoàng thỉnh
thoảng được nghe phảng phất cái mùi (hăng, nồng),
nhưng nào có ai biết đó là mùi gì? Người dân đi lượm
rác đặt cho cái tên, là: (Mùi Mỹ). Nhưng cho dù là mùi
gì đi chăng nữa, thì người dân xã Tri Lễ vẫn luôn
luôn biết ơn và nhớ ơn người lính Mỹ.
Tôi thật sự cảm mến
người con gái mà tôi gọi là Bồng Sơn. Vấn đề cô san
sẻ với tôi chắc cô cũng đã xếp lớp trong đầu từ
lâu, có thể cô chưa gặp được (người hiểu chuyện)
để lắng nghe cô nói. Tôi hy vọng tôi sẽ là người đầu
tiên hiểu chuyện… Không biết có đúng không?
Bất chợt cô gái hỏi:
- Ông vẫn nghe tôi nói đó
chứ? Tôi nói ông nghe có chán không vậy? Cô gái khui một
lon bia rót vô trong ly đá, rồi mời tôi…! Cô nói tiếp
tục nói như phân trần, như minh chứng:
Mấy điều tôi nói với
ông vừa rồi... Tôi nghĩ là đúng. Bởi có tới ba, bốn
cái làng người Thượng ở chung quanh xã Tri Lễ và Phi
Trường Phượng Hoàng. Làng Thượng Daktri ở bên kia bờ
sông Pơ-Kô, có cây cầu treo bằng bốn dây cáp kiên cố
hình chậu, hai bên vách cầu, được che chắn kín mít, vì
sợ trẻ con lọt xuống sông. Cây trái trong làng của họ
vẫn tươi tốt, rừng chung quanh làng của họ vẫn rậm
rạp... Làng Dakmot, làng Yanglokơram, ở xa hơn một chút,
nhưng có hề hấn gì đâu? Người Thượng, không bị cái
“Mùi Mỹ” làm ảnh hưởng tới cái làng của họ.
Người Thượng không bao giờ đi lượm rác Mỹ, cũng
không đem bất cứ vật dụng gì của lính Mỹ về trong
làng. Ngoại trừ thức ăn (đồ hộp, bánh kẹo) – những
thứ đó nếu có ai cho họ thì họ nhận và cảm ơn chứ
tuyệt đối không bao giờ xin. cũng không mua đồ Mỹ. Họ
sống khép kín, hạn chế tiếp xúc với người Việt chứ
đừng nói gì tới người Mỹ lạ hoắc, tới từ một
đất nước xa lạ.
Tôi ngồi nghe cô gái Bồng
Sơn phân trần khúc chiết, lý luận chặt chẽ. Tôi thầm
khen cô có cái nhìn bao quát và cũng tràn đầy lòng nhân
ái. Tôi nhớ lại thời gian tôi làm “Thường Vụ” đại
đội (Lính Việt) ở Phi Trường Phương Hoàng. Tôi chứng
kiến người lính Mỹ - quả thật - họ đúng là lính nhà
giàu, họ xử dụng phương tiện chiến tranh của họ đem
qua thật là hoang phí... Hành quân mà có đụng độ - bất
kể nhiều hay ít - họ bắn đạn bay như trấu - họ gọi
pháo binh rót đạn như mưa… Phi cơ B-52 thả bom tới tấp…
Đồ dùng cá nhân của họ, họ cũng đem bán hoặc cho,
thậm chí đem cho hoặc bán luôn đồ dùng cá nhân của
bạn hữu... Có lần, một người lính Mỹ xách một cái
giường xếp cá nhân (sườn nhôm), đem gởi ở chỗ tôi.
Anh ta nói “Tôi đi công việc bảy ngày,
cái giường để ở bên trại,
bạn tôi sẽ đem đi bán, đi cho”.
Cô gái Bồng Sơn nói không sai:
“Mấy
ngôi nhà trong xã Tri Lễ, nhà nào cũng tích trữ đầy ắp
đồ rác Mỹ các loại, không thiếu thứ chi”.
(Lính Mỹ xa nhà, nhớ vợ
con... Do đó hễ thấy con nít, thiếu nhi là họ mến. Họ
lân la làm quen… Họ cho: kẹo, bánh… Họ tặng: sách vở,
viết, quần áo, nón, giày dép... Họ tham gia trò chơi của
thiếu nhi… Họ, là: (Bác sĩ, Y tá Quân y), đi vô thôn,
làng - khám bịnh, chữa bịnh, phát thuốc!).
Tôi làm “Thường Vụ”
ở trong Phi Trường Phương Hoàng, nhưng tôi không được
quyền đi qua bên phía đơn vị lính Mỹ ở trừ khi có
công việc cần phải gặp trực tiếp cấp chỉ huy của
Mỹ. Do đó tôi không biết gì nhiều... Hằng tuần họ
[Mỹ] giao cho tôi thứ gì thì tôi nhận thứ đó đem cung
cấp cho đơn vị, nếu thiếu hụt hoặc có nhu cầu thì
tôi làm danh sách yêu cầu cung cấp bổ sung… (Thường
thì nếu có yêu cầu là họ chấp thuận ngay).
Một lần tôi bị viêm
phổi nặng. Bác sĩ Thiếu tá người Mỹ chuyển tôi xuống
“Bịnh Viện Dã Chiến” ở dưới lòng đất chữa trị
săn sóc trong hơn một tháng. Tuy là một Bịnh Viện Dã
Chiến nhưng thiết bị y tế, giường bịnh không thua gì
một Bịnh Viện lớn, hằng ngày, tới bữa ăn tôi đi lên
phòng ăn ở trên mặt đất đứng xếp hàng cùng với
lính Mỹ. Tôi theo họ lấy: muỗng, nĩa, dao, đĩa, ly (tất
cả làm bằng nhựa và bằng giấy). Tiếp theo là đi tới
quầy thức ăn – thích ăn món gì thì lấy món đó: (đùi
gà, thịt bò, khoai tây, trứng, cá, rau, trái cây, nước
trái cây, sữa, giấy chùi miệng…). Ăn bao nhiều thì lấy
bấy nhiêu... Ăn uống xong thì gom hết các thứ thừa thải
đem ra bỏ vô thùng rác.
Lính Mỹ, họ ngủ nghỉ,
làm việc đều ở dưới hầm, hầm kiên cố, rộng rãi…
Hầm làm bằng những cây gỗ thông hình vuông, dài –
(mười hai mét, mỗi mặt gỗ, rộng bốn tất), lợp ván
ép bên trên, vách chung quanh hầm kể cả nền hầm và bậc
thang cũng làm bằng ván ép (đặc biệt là ván ép Mỹ
không thấm nước). Sau đó họ dùng xe ủi ủi đất phủ
lên mặt hầm dày cỡ hai hoặc ba mét... Trên mặt đất
chỉ có: đài ra đa, cột anten, nhà ăn, nhà vệ sinh, sân
tập thề dục, vọng gác... Máy bay cũng nằm trong các ụ
công sự có vòm che bằng sắt kiên cố.
Theo như cô gái nói, thì
tôi có thấy những thùng màu vàng, đựng bột trắng và
hàng chục cái “xì-tẹc” nằm ở cuối Phi Trường...
Tôi không quan tâm, vì tôi đã biết… Tôi không rõ (cô
gái Bồng Sơn) nghe thông tin ở đâu mà cô biết khá rành
rẽ…? Vậy mới biết tai mắt của người dân quả thật
rất là tinh tường. Không thể giấu họ bất cứ việc
gì.
Cô gái lại nhắc tôi
giải thích hai chữ Bồng Sơn với vẻ mặt hí hửng. Tôi
nghĩ mẹ của cô gái chắc cũng đã cho cô ấy biết sơ
qua về “lý lịch” của tôi.
Tôi nói chặn đầu:
- Mẹ cô đã cho cô biết
về tôi rồi phải không?
Cô gái trả lời:
- Tên của ông là Trần
Hoang Sơn. Mẹ tôi nói vậy. Hoang Sơn là ông bị đi lạc
trên rừng hoang phải không? Đi lạc mà tại sao lại mò
về ngồi kế bên tôi vậy?!
Tôi
phì cười và cô gái cũng phì cười…! Sau trận cười
bầu không khí nơi cái sạp chật chội có vẻ đỡ ngột
ngạt hơn và cũng thân thiện hơn!
Tôi
hỏi cô gái:
-
Cô có biết hai
chữ Bồng Sơn ý nghĩ
ra sao không?
Không
đợi cô gái trả lời. Tôi giải thích:
-
Bồng có thể hiểu là nâng lên, đồng nghĩa với ẵm
(Bồng
- Ẵm).
Bồng cũng có thể
hiểu là: bồng bềnh (nhẹ).
Sơn là núi. Vậy Bồng Sơn là đám mây bồng bềnh trên
ngọn núi...
Nghe
tôi giải thích xong. Cô gái bỗng reo lên có vẻ khoái
chí:
-
Tôi hiểu rồi... Bồng Sơn có nghĩa, là: Hồi
còn bé,
tôi là (chị
hai)
của ông Sơn. Tôi ẵm
ông Sơn đi chơi vòng
vòng trong xóm... Tôi cho
ông biết… Tôi lớn
hơn ông hai
tuổi lận đó!
Chúng
tôi lại cười…! Tôi nói tiếp:
-
Tôi có nghe
mẹ tôi nói rằng: “Nhứt gái hơn hai, nhì
trai hơn một”. Lấy
nhau theo câu “Thành
Ngữ”
nầy là hạnh phúc lắm đó! Cô
có thích không?
Cô
gái biết
tôi “ăn miếng,
trả miếng”. Cô
trề môi:
-
Ông... ông...
đừng có ngồi đó mà
mơ mộng hão huyền!
Kể
từ đó… Những
lúc rỗi rảnh, hai chúng
tôi vẫn thường gặp nhau ở chỗ
Sạp
Hàng…
Cha mẹ của cô gái cũng
không nói gì về chúng
tôi có
lẽ họ mặc nhiên công nhận hai chúng tôi là một cặp
trai gái hạp nhau trong tinh thần bạn hữu. Người trong xã
cũng vậy - dù gì thì
kể từ ngày đoàn công
tác chúng tôi về xã,
bộ
mặt của xã đã khởi sắc: Trạm xá, Trường học, Hành
Chánh, Hộ Tịch, Văn
Nghệ... hoạt động trôi chảy, vui
vẻ, thuận lợi trở
lại.
Khoảng
cuối năm một
ngàn chín trăm sáu mươi chín [1969].
Lính Mỹ ở Phi Trường Phượng Hoàng có
dấu hiệu rút
bớt quân số.
Mấy căn cứ hỏa lực
trên dãy núi (Ngọc-Rinh-Rua) họ cũng bàn giao lại cho quân
đội (Việt
Nam Cộng Hòa).
Cái phố: mái
lợp tôn, vách
ván ép - nơi đầu đường
Phi Trường cũng từ
từ vắng khách...
Một thời hoàng kim
người muôn phương kéo
nhau tụ
về buôn bán, giao dịch đông
vui, sầm
uất bây
giờ họ cũng lần lượt
ra đi… Quán xá
đã bắt đầu
rục rịch đóng
cửa... Khách bây giờ
phần nhiều là lính Việt từ Trung Đoàn 42; từ tiền
đồn Ben Hét. Nhưng
rồi cái phố “bộc phát, bộc tàn”
một thời cũng
tới lúc
phải dẹp
bỏ khi
không còn lính Mỹ. Một
thời gian sau nếu
ai có
dịp đi ngang qua đó
thì còn thấy một đám đất đỏ loang lở
tiêu sơ, ảm đạm, cỏ tranh,
cỏ hôi mọc xanh rì…
Một vài cái quán còn
sót lại chỉ là bộ xương cách trí xiêu vẹo, tôn,
ván ép bị ai đó tháo
gỡ đem đi đâu mất
tiêu!
Tuy
vậy,
cái Dãy
Sạp
chợ trời nơi
đầu cầu
Tri Lễ vẫn
tồn tại một thời
gian nữa cho
tới khi người lính Mỹ cuối cùng âm
thầm rút
đi.
Người
lính Mỹ cuối cùng ra đi về lại nơi xứ họ mà chẳng
có một
lời từ biệt! (Chợt
tới, chợt đi chẳng hẹn hò)! Không
biết họ có còn nhớ cái Phi
Trương Phượng Hoàng, cái xã
Tri Lễ nho nhỏ bên dòng sông Pơ-Kô? Không
biết họ có còn nhớ
tiếng nói, tiếng cười nắc
nẻ của các cô gái
trong các
quán Bar? Không biết họ
có còn nhớ
mấy câu tiếng Việt mà mấy cô gái
trong quán Bar dạy cho họ
nói? Không biết họ có
còn
nhớ người tình của họ sẽ chờ thư hồi âm của họ
hay không? Không biết họ
có còn nhớ các em thiếu nhi mà họ
thương mến? Biết
bao nhiêu câu hỏi nhưng không một ai có đủ (thẩm quyền)
để trả lời.
Còn
riêng tôi, tôi
biết chắc một điều là những người lính Mỹ họ chụp
rất nhiều hình ảnh nơi họ đóng quân hay đi lại gặp
gỡ với người dân trong vùng họ công tác... Họ đem các
tấm hình ảnh, đoạn
phim đó đem
về Mỹ cất giữ làm
kỷ niệm…!
Cuối
cùng thì
Dãy
Sạp
bên đầu cầu Tri Lễ cũng dẹp bỏ... Người
dân ở xã Tri Lễ quay sang các nghề khác. Dù gì trong mấy
năm qua đi lượm rác Mỹ họ cũng tích cóp được một
số vốn tối thiểu để dự
phòng khi hữu sự...
Trong nhà họ vẫn con khá nhiều đồ Mỹ. Mùi Mỹ dù có
phai nhạt nhưng mùi Mỹ còn
đọng lại trong lòng họ
thì không bao giờ phai nhạt. Họ có
nuối tiếc! Họ
có hụt
hẫng! Còn riêng về phía cha mẹ cô
gái Bồng Sơn thì họ giàu,
họ giàu có là nhờ cái tiệm
giặt quần áo cho lính Mỹ và buôn bán
hàng hóa với lính Mỹ. Tôi cảm
nhận rằng là vợ chồng họ có
dự định sẽ trở về quê cũ (Bình Định)
hoặc đi tới một địa phương nào đó an toàn,
thuận tiện để cho họ gầy dựng
lại cuộc sống. Tôi không biết họ sẽ
bỏ đi lúc nào?
Cô
gái Bồng Sơn bây giờ chuyển qua buôn bán rau củ
các loại ở trên đầu
dốc cầu Dakmot. Đơn vị
của tôi cũng đã được
lệnh di chuyển
về trên đầu dốc
cầu Dakmot (phía
bên Tri Lễ) để lo
ổn định đời sống
cho
mấy làng
Thượng từ trong rừng sâu mới
dời
ra vùng an toàn. Vậy là
tôi và cô gái Bồng Sơn vẫn còn
gặp nhau thường
xuyên... Chợ
rau cải chồm
hổm
chỉ sinh hoạt nội
trong buổi sáng, người
bán hầu
hết là phụ
nữ ở
xã Tri Lễ, chợ
nằm bên lề đường
đất đỏ Tỉnh
lộ 512, rất gần
công sự phòng thủ của đoàn
công tác chúng tôi.
Khách mua là các anh lính thuộc
mấy Tiểu Đoàn Biệt
Động Quân, Đơn vị
Pháo Binh, Đơn
vị Thiết Giáp
và người dân Thượng...
Tôi nhận được
từ cô gái Bồng Sơn
một vài
món ăn tự tay cô nấu và cũng tự tay cô đưa cho tôi,
(kể
cả rau cải)…, nhưng
không thường xuyên… Nói
thiệt
là... chúng tôi có yêu
nhau nhưng
hai
chúng tôi không
để lộ ra...
(Từ
xã Tri Lễ đi
tới trên
dốc cầu Dakmot, cách
nhau khoảng hơn ba
cây số)...
Tôi biết cô gái Bồng Sơn đi bán rau chỉ là
tìm
ra một cái cớ để
hai chúng tôi tiếp tục
gần nhau.
Một cái
cớ rất -
hợp lý, hợp tình, dễ
thương!
Một
buổi sáng sương mù còn dày đặc. Cô gái Bồng Sơn chạy
xe Hon-Da tới
chỗ tôi. Trong nét mặt
của cô có
vẻ buồn. Cô ngập ngừng nói:
-
Anh ơi…! Cha mẹ em mời anh tới
nhà, dự bữa cơm thân mật lúc ba
giờ chiều ngày mai.
Bữa
nay cô gái gọi tôi
bằng (anh)
chứ không gọi
là
ông như mọi ngày.
Tôi mừng rỡ cầm tay
cô, cảm
động nói: (Em
xinh lắm, rồi âu yếm
hôn lên trán cô!).
Cô để yên cho
tôi hôn
và cũng để
yên cho tôi
cầm tay
thật lâu...
Cô gái mở giỏ lấy
thức ăn đưa cho tôi như mọi ngày. Linh tính mách bảo có
chuyện không vui xảy ra nhưng
tôi không dám hỏi…
Chúng tôi trao nhau bằng
ánh mắt tràn đầy yêu thương thầm lặng.
Vẫn giữ vẻ mặt buồn, cô gái nói:
-
Anh nhớ tới nhà em đúng
giờ đó. Đừng
để mọi người
phải chờ…!
Em
trở về
lo công việc!
Nhìn
cô gái trở bước
chậm chạp đi
ra đường...
Tôi
than thở:
Em đi lững
thửng ân tình
ngàn năm nhớ mãi
dáng hình ấy thôi
tìm nơi đâu lá
mùa trôi
chim bạt gió vọng
cuối trời mây đưa.
Thơ: (Trang
Y Hạ)
Trong
bữa tiệc… Cha mẹ cô
gái cho tôi biết
rằng: “Gia đình chúng
tôi có thể về lại
Bồng Sơn... Nơi cái xã Tri Lễ
không còn là vùng đất hứa”.
Tôi đã dự đoán từ
trước nên không cảm
thấy bất ngờ. Có điều là
họ nói (có thể).
Có thể, là gián tiếp
cho tôi biết chưa chắc
họ sẽ đi về
đâu?
Họ không cho tôi một
chút hy vọng! Tôi biết
cô gái Bồng Sơn cũng đã
dự đoán như tôi. Từ
lâu nay
chúng tôi
yêu nhau trong thầm lặng,
cả
hai chúng tôi đều
đau lòng vì dự cảm được
rằng: tương lai là sự
chia ly! Tuy nhiên chúng
tôi vẫn luôn vui vẻ thanh
thản bên nhau được
ngày nào mừng vui
ngày ấy.
Trời
chiều uể oải chậm
chạp
hòa vô màu đêm. Đêm
mờ mờ hòa
cùng
sương núi.
Một vài cánh
chim nhởn nha bay
về đâu đó… Tôi và
cô gái Bồng Sơn chạy xe đi
về hướng
cầu treo nơi làng
Daktri. Tối
nay cầu treo là của
riêng cho
hai đứa
chúng tôi...
Chúng tôi dựa
lưng vô
thành cầu.
Hai chúng tôi ôm
nhau
thật
chặt… Cô
gái Bồng Sơn đang
khóc rấm rức…!
Tôi để im cho cô ấy
khóc... Thời gian ngừng
trôi; nước dưới sông
ngưng chảy...
Niềm xúc
động tựa cơn sóng
dâng trào thật lâu mới lắng
xuống.
Lúc
nầy, tôi mới
hỏi cô ấy
về cái thau nhôm:
-
Em à! Em cho anh biết lý do tại làm sao mà mẹ của
em không cho anh
dùng cái thau nhôm ngày
anh mới tới xin ở nhờ nhà em?
Anh đã một lần lấy
cái thau nhôm đó:
rửa rau, rửa cá…!
Cô gái Bồng Sơn nghe tôi nói
vậy,
cô
ngước lên nhìn tôi với
vẻ
mặt sững sờ không khác gì mẹ cô
lúc trước…
Cô lại ôm tôi chặt
hơn.
Cô
nhón chân hôn tôi...!
Cô
xúc động, nói:
-
Anh yêu ơi! Cái thau nhôm chỉ
để dành riêng
cho
phụ nữ giặt đồ
trong mấy
ngày... (nguyệt
lịch)!
Tôi
thầm thì:
-
Hóa ra là như
vậy…!
Ánh
trăng
nửa tháng
khi mờ khi tỏ soi
trên mặt sông Pơ-Kô
lấp lánh
màu sắc dập
dờn lượn trên
con sóng phản chiếu rực
rỡ…! Chiếc cầu treo
rùng
mình đung
đưa đôi khi chao
đảo cộng hưởng theo
từng hơi
thở
ấm áp
của hai trái tim
đang độ
yêu nhau.
Hơn
một
năm sau kể
từ ngày tôi
được chuyển công tác về Quận KonTum. Hôm nay (một
mình tôi) trở
lại thăm
vùng đất cũ, vùng đất
mà tôi đã
gieo mầm
tình yêu… Tôi dừng xe
gắn máy
đi lang thang tìm dấu tích
cái
Sạp
Hàng mà
tôi và cô gái ngồi
bên nhau
nhưng nào có thấy gì đâu. Tôi
nhìn lên dãy núi: thấy
bóng nắng, thấy
bóng mây... Bóng
người con gái tôi yêu
thì không
biết bay
về phương trời nào!
Khoảng
đất có Sạp Hàng khi
xưa cỏ mọc âm u, vắng
lặng… Một
vài người đàn ông
Thượng đang bới
tìm thứ gì đó…?
Tôi
cũng đang
bới tìm!
Tôi bới tìm
từ trong ký ức
kỷ niệm một thời gắn
bó với
(Người
Con Gái
Bồng Sơn).
./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét