LỜI GIÓ MƯA: - NHỚ XUÂN
Trang Y Hạ
Hôm nay tôi được bạn Phạm Minh Tuấn tặng cho một bài thơ: “NHỚ XUÂN”.
Mùa xuân lại về, bao mơ
ước từ mùa xuân mới vẫn luôn tràn ngập trong lòng mọi
người – dù không nói ra nhưng ai cũng ôm ấp hy vọng
năm mới sẽ đem lại thịnh vượng và hạnh phúc...
Nhớ xuân ai lại không
nhớ, nhớ xuân là nhớ lại chính mình, nhớ mà bày tỏ ra bằng thơ thì còn gì cho bằng.
Đọc bài thơ “NHỚ XUÂN” của Phạm Minh Tuấn, tôi cảm
nhận ra rằng – có sự tương quan – giữa lớp người
trước và lớp người sau... Nhưng tựu trung – mùa xuân
– đầu xuân là ngày Tết. Ngày đó không bao giờ phai mờ
hay lãng quên. Không ai trong cuộc đời của mình mà lại
không Nhớ Xuân! Nhớ xuân lắm chứ... Nhớ da diết, nhớ
cồn cào - nhứt là trong ba ngày tết (mồng
một tết cha, mồng ba tết thầy) đã in sâu vào tâm khảm
từ thế hệ nầy sang thế hệ khác... Mùa xuân và ngày
đầu năm mới thiêng liêng là vậy
nhưng có mấy ai hiểu hết ý nghĩa sâu xa của xuân, của
sự huyền diệu đất trời trong mùa xuân – mùa khởi
thủy cho một năm.
Khổng Tử
ngày xưa cũng không biết chi về cái Tết của người
Bách Việt trong đó có Lạc Việt. Do đó ông chỉ viết
có vài chữ sơ sài gọi là ngày hội “Tế Sạ”. Theo
sự hiểu biết của tôi (tế sạ là
lễ cúng trời đất trong ngày đầu mùa xuống giống). Ở
trên vùng Cao Nguyên KonTum, DakTo, hằng năm người Thượng
từ lâu đời cũng đã có ngày lễ xuống giống. Ngày đó
họ xúm nhau vui chơi ăn uống..., đốt lửa, đánh cồng
chiêng ca xang cả mấy đêm liền thật là vui vẻ. Tôi may
mắn được tham dự một lần ở trong cái làng Daktri bên
dòng sông Pơko.
Ngày xuân,
ngày tết không ai mà không nhớ tới: - cha mẹ, ông bà,
anh chị em, chú bác, cô dì - còn sống hay đã chết. Tục
lệ ngàn đời đó vốn là di sản quý báu của người
Việt nhớ về cội nguồn. Trước tết, gọi là tháng
Chạp, tháng chạp tất cả con cháu – bên nội, bên ngoại
trong họ tộc kéo nhau đi ra nghĩa địa để chạp mả hay
còn gọi là “giẫy mả”, làm sạch cỏ rác trên các
mả, quét vôi lại các ngôi mộ tổ tiên cho mới nhằm để
mời tổ tiên ông bà về đón một cái tết cùng con cháu.
Tháng chạp cũng là tháng cuối mùa đông mưa phùn gió
bấc; cũng là tháng bông mía trổ trắng đồng… Thông
thường giẫy mả xong - sau đó nội ngoại kéo nhau về
nhà Thờ Tự dự Giỗ Chạp cúng tế để cầu nguyện xin
ông bà tổ tiên phù hộ cho năm tới được mùa và bằng
an…!
Mưa phùn
gió bấc lạnh tơi
con đi
chạp mả gom hơi ấm tình (TYH)
Tuy nhiên
không phải ai cũng có được diễm phúc ở gần nhà, ở
cùng với cha mẹ... Vì cuộc sống phải bôn ba, phải lăn
lộn khắp nơi bươn chải kiếm sống hoặc vì nhiều
nguyên do khác mà ngày tư ngày tết – ở một nơi phương
trời xa lạ chỉ biết ngậm ngùi hướng về quê nhà mà
rưng rưng nước mắt... Tôi đã từng trải qua những
tháng năm như vậy: - Thời ở lính, thời ở tù và thời
tỵ nạn chính trị. Không phải chỉ riêng cá nhân tôi,
mà các thế hệ con cháu sau nầy – họ cũng vì miếng
cơm, manh áo mà lang bạt khắp nơi trên thế giới thì làm
chi có mặt trong mấy ngày Tết; làm chi có hương xuân đầm
ấm với gia đình, với người thân…!?
“Nâng
ly rượu trắng đầy tâm tưởng
Ngày
xuân buồn một kiếp ly hương”. (PMT)
Nơi xứ
lạ, ngày tết cũng - có hoa vạn thọ, có hoa cúc vàng, có
bánh tét, có bánh ú, có bánh chưng, có nồi thịt kho, có
nồi canh khổ qua, có dưa hành, có củ kiệu, có nhang đèn
bánh trái và rượu trắng “vodka”, có bao lì-xì… Nghi
thức đủ đầy nhưng trong lòng thì lạnh lẽo trống trơn
bởi xa vắng hình bóng người thân yêu nơi quê nhà. Ngó
lên bàn thờ khói nhang nghi ngút – nhìn kỹ dường như
trong đôi mắt các đấng thiêng liêng cũng phảng phất
nét u buồn.
“Đêm
giao thừa Ba châm dây pháo
Tôi
nhớ mùi thơm của chiếc áo”.
(PMT)
Tuổi còn
bé – có đứa con nít nào mà không mê chùm pháo tết và
giành nhau mấy trái pháo còn sót lại trong đám xác
pháo... Mùi pháo thơm thơm thấm qua chiếc áo mới của mẹ
may cho. Mùi thơm của vải và mùi
thơm của pháo quyện vào nhau – đó là mùi của xuân -
mùi của tết - mùi của mẹ - mùi của bà ngoại…
Rồi lớn lên, đi vào quân ngũ – nơi tiền đồn khói
súng cũng thơm…, từ thơm cho tới “khét lẹt” bởi
khói lửa, bởi máu chảy xương phơi… Tiếng pháo giao
thừa từ tết Mậu Thân 1968 pha với tiếng đạn tổng
tấn công của cộng quân khắp miền Nam vẫn còn in đậm
trong dòng lịch sử; vẫn còn văng vẳng trong lòng mọi
người hiện nay cũng như hậu thế…Và cho mãi tới tận
bây giờ mỗi khi nhớ tới Xuân là nhớ lại mùa xuân
hoảng sợ năm xưa đó.
Tôi cũng
như bạn Minh Tuấn, nhớ xuân là nhớ tới mẹ.
“Có
dáng Má ngồi đưa võng buồn” (PMT)
Còn tôi,
tôi nhớ mẹ. Ngày xưa, Mùa Xuân về, tôi nhớ mẹ từ
nơi đóng quân. Ngày “hòa bình” tôi nhớ mẹ tôi lúc ở
trong tù. Ngày ở trong tù, tôi bị “kỷ luật”, nằm
trong phòng biệt giam bị xiềng cả hai chân gần nửa năm.
Một buổi trưa tôi ngồi ngủ gục - mơ mơ... màng màng...
tôi nghe mẹ nói - “Thứ bảy này mẹ tới thăm nuôi, đã
nửa năm rồi mẹ nhớ con lắm…!”. Quả đúng như giấc
mơ... Trưa ngày hôm sau tôi được thả ra khỏi phòng biệt
giam. Bị giam ngồi nằm trên sàn gỗ lâu ngày không được
chạm đất, nên khi chân tôi chạm đất thì bị giật như
bị điện giật té lăn kềnh mấy vòng…, may là không bị
gãy chân, gãy tay… chỉ bị trầy trụa! Tôi ân hận là
phải để cho mẹ và các em nhịn ăn, nhịn mặt đi thăm
và nuôi tôi – đi nuôi một thằng con trai, một thằng
anh trai độc thân “Vai năm tấc
rộng, lưng mười thước cao”.
Ngày ra tù tôi lại nhớ mẹ tôi ở nơi miền đất lạ
cách xa cả một Đại Dương. Ngày mẹ còn sống, mỗi khi
tết tới tôi gọi điện về thăm mẹ mà nghẹn ngào…Mẹ
tôi hỏi thăm đủ thứ chuyện, nhứt là hỏi về các đứa
con gái của tôi. Mẹ cười… nhưng tôi biết mẹ đang
khóc…! Mẹ tôi khóc ở trong lòng.
Tết
nầy lụi đụi không về được
gọi
địện mừng xuân sóng vỗ bờ
da
nhăn từng nếp hằn thêm mãi
mây
trắng cuối trời bay phất phơ (TYH)
Không
ai có thể quên câu hát trong nhạc phẩm “Sương Trắng
Miền Quê Ngoại”:
“Mẹ
biết bây giờ con ngồi hố nhỏ. Gió hẹn mưa thề, một
khi con về quê ngoại xưa để mẹ nhắn lời thăm. Đường
làng cũ năm nào khi con còn bé nhỏ. Theo mẹ đến trường,
con đường xưa còn đó. Tóc liễu vờn gió ru buồn...”
Giờ thì
mẹ tôi mất rồi, mẹ mất thật rồi! Từ một phương
trời xa xôi dù có trở về thăm mẹ...- cũng chỉ là nhìn
nấm mộ quanh hiu, lạnh ngắt... Xuân nầy tôi sẽ gọi
điện thăm mẹ như mọi năm... Gọi thăm mẹ từ hư
không, từ trong tâm tưởng, từ trong kỷ niệm chất chứa
của thằng con (thích đi xa không
chịu ở bên mẹ).
Thằng con bất hiếu ngày mẹ mất cũng không về chịu
tang. Tôi thua thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu. Ông nghe tin mẹ
mất – ông bỏ thi và khóc tới mù mắt để trở về.
“Ta
vẫn nhớ bao mùa xuân cũ” (PMT)
Dù sinh
sau nhưng vẫn có “mùa xuân cũ”. Mùa xuân cũ là nhân
chứng nối tiếp cho mùa xuân cũ của các thế hệ sau.
Nói gì thì nói vẫn buồn cho các thế hệ tiếp theo đều
(ám ảnh) bởi mùa xuân cũ của
người đi trước để lại với biết bao đau thương,
nhọc nhằn – nơi chính quê hương – nơi xứ người.
Mùa xuân không có lổi. Lỗi chăng là do con người không
biết trân trọng nâng niu mùa xuân, ngược lại còn lợi
dụng mùa xuân để buôn gian bán lận nhằm thỏa mãn
những toan tính ích kỷ và hận thù…
Tôi là
một người chiến binh già ngồi nhớ chuyện “Nguyên
Phong”. Nhớ về người “Chiến Sĩ Vô Danh” đã âm
thầm gục ngã để bảo vệ dòng giống, bảo vệ mảnh
đất Đại Việt xưa và (Việt Nam)
thân yêu ngày hôm nay. Nhớ xuân là nhớ “Huynh Đệ Chi
Binh” bỏ mạng ở trong tù... Nhớ xuân là nhớ người
dân hiền lành bỏ mạng vì cuộc chiến. Nhớ xuân là nhớ
người ra đi tìm tự do bỏ mạng trên rừng, trên biển.
Sau cùng là nhớ những người đã nói lên sự thật mà
bị tù đày bấy lâu nay.
Bỏ nước
ra đi chưa hẳn là có tội. Có tội chăng là đã ôm ấp
quê hương mà dường như đã mất, đã sống hờ hững,
sống nhờ vả như một đứa con ghẻ lạnh trên chính quê
hương mà đành bất lực. Để rồi:
“Thời
gian vẫn rơi ngập mái đầu” (PMT)
Mài gươm
dưới nguyệt bóng trăng soi
Gươm bạc
hay tóc ta đã bạc
sóng sau
vẫn trào dâng như thác
người
xưa đâu hãy thức dậy cùng xuân. (TYH)
Thời gian
vẫn rơi ngập mái đầu. Nghĩa là đã già và vốn thời
gian cho một đời người cũng đã tận. Công, hầu, khanh,
tướng hay hận thù rồi cũng bỏ lại sau lưng chỉ duy
nhứt còn lại là dân tộc – mong là sẽ mãi mãi trường
tồn.
Ban nhạc
(AVT) của miền Nam ngày xưa. Tôi nhớ
một câu mà họ đã trình bày trong nhạc phẩm:
“Tết
nhứt làm chi, ai bày... tết nhứt làm chi. Lo quần, lo áo,
lo đi... chạy tiền…”.
Trong câu
hát có ba chữ “lo”, ba chữ lo đã nói gần như đủ
hết ý nghĩa về ngày tết. Người giàu có thì họ sắm
quần áo mới đủ bộ cho gia đình họ, còn tiền bạc để
tiêu tết thì họ chẳng phải lo. Người nghèo thì chắc
chi sắm cho đủ bộ, còn nhà nào con đông có khi không
sắm nổi quần hay áo cho mỗi đứa... Tiền bạc thì phải
“chạy”... Chạy đây không phải là đi lạy lục người
khác vay mượn để “ăn tết” mà là lo toan, bươn chải
tìm mọi cách để có tiền mua chút thịt, chút bánh, bó
hoa cúng ông bà…!
Vòng tuần
hoàn “Xuân đến, xuân đi, xuân
lại đến”. Ngày xuân nâng ly
rượu chúc nhau bỏ hết những nhọc nhằn trong năm cũ...
Và quý hơn hết là: trong gia tộc, trong gia quyến cũng như
xóm giềng trong năm cũ có chuyện chi xích mích thì năm
mới xí xóa hết để cùng: “Ta
ngồi nhấp rượu chờ về đâu?!”…
Thì về với nguồn cội, về với sự thật, về với
nhân ái, về với những dự định cho tương lai… Chứ
còn về đâu nữa?!
Cảm ơn
bạn Minh Tuấn đã tặng thơ!
NHỚ XUÂN
Thơ: Phạm Minh Tuấn
Tặng: Anh Trang Y Hạ
Tôi nhớ căn nhà xưa cũ kỹ
Có dáng Má ngồi đưa võng buồn
Tôi nhớ những ngày Xuân đến muộn
Nhà mình trên mảnh ruộng chiều buông.
Tôi nhớ mùi Tết của năm xưa
Đêm giao thừa Ba châm dây pháo
Tôi nhớ mùi thơm của chiếc áo
Ngày mùng một Tết của năm nào.
Tôi nhớ những ngày Xuân xóm chợ
Có Ngoại già tóc bạc như sương
Nâng ly rượu trắng đầy tâm tưởng
Ngày Xuân buồn một kiếp ly hương.
Tôi nhớ Xuân xưa vàng hoa cúc
Nhuộm áo ai bay trong nắng chiều
Nỗi lòng chưa nói ai nào hiểu
Một chiều quán trọ hồn liêu xiêu.
Ta vẫn nhớ bao mùa Xuân cũ
Thời gian vẫn rơi nhuộm mái đầu
Xuân đến, Xuân đi, Xuân lại đến
Ta ngồi nhấp rượu chờ về đâu?!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét