BUỔI SÁNG, MƯA - NGỒI
TRONG QUÁN
Cô
gái núp hiên mai ngại giày
ướt
gió vô-duyên, thổi tóc
quyện mây đen
cây
dù rộng bất
lực buông cô chủ
nước
bủa vây,
chẳng giúp quả có hèn.
Chân
trời mịt, hột gieo to lẫn
nhỏ
hột
vừa
vừa, hột lấm tấm chen
nhau
cơn
gió
nhỏ, gió to, gió vừa
hắt
mưa cổ thời, mưa mới
độ chung màu.
Chợt
ngẫm nghĩ, nàng Kiều sầu
Ngưng-Bích
sóng
vỗ giường mắt trắng
bệch ai
thăm
tân
toan giọt, đêm thấm
tràn quê cũ
nhát dao đời, trăm nhát
cứa băm-vằm.
Đôi
khi nghĩ, phải chi là giọt nước
rưới
ruộng
cha, rưới thấm mảnh vườn
khô
Mẹ
thôi
gánh đôi thùng xin khắp chốn
bầy cá vui sinh-sản khắp
sông hồ.
Ngụm
một ngụm cà-phê vị chua loét
thèm canh chua Mẹ nấu,
tìm đâu ra
mưa
xứ lạ
có mưa về
con lạch
hãy nhắn giùm, đã trót
bỏ quê nhà.
Quán
lạ đế lạnh hồn thèm
rượu đế
rót
lưng ly xua sương quện
ngày đông
đám cỏ dại siêng nở bờ
công-sự
đêm
ngủ
hầm mơ ước ngắm bông hồng.
Chân
vẫn
dính đôi
giày
quen đất đỏ
Từ KonTum, lặn-lội
Tou-mơ-rong
sương Dakpek, âm u trời
Ben-Hét
mưa DakTo, Tân cảnh nắng
sưởi lòng.
Ngồi
quán sớm vẽ ra bông dĩ-vãng
Bậu
là bông quá-khứ hãy
còn tươi
vai
ốm nhách
nghe ra còn nằng nặng
đáy ba-lô thư giấu một bóng người.
Rời
quán vắng hột mưa dường
quyến-luyến
dù
nào che, che hết cảnh
tái-tê
mưa
nghịch-ngợm thổi
vô thân
mảnh
tuyết
tai
vẳng nghe
trời đất mở đường
về.
Nhìn
quán nhỏ thân quen lạ vẫn lạ
đi về nhà sực nhớ nhà
người ta
nửa thế kỷ vòng vo chân
còn vững
chưa lên voi xuống chó,
nghĩ thiệt là.
Lời Gió Mưa:
- Việt kiều - Theo Từ Điển Thiều Chửu định nghĩa chữ Kiều như sau: Kiều (Bộ Nữ) là: - Giai nhân đẹp. Chữ Kiều (bộ mộc) là: - Cây cầu. Chữ Kiều (Bộ cư) "Người ăn nhờ ở đậu, ở nhờ vùng khác, làng khác hay nước khác gọi họ là kiều cư, kiều dân". Bộ (khẩu). Kiều là một cái cây cao. Kiều là đẹp, duyên dáng "Kiều nữ, Yêu kiều".
Chữ Bào (Pào). Hán Tự có hai nghĩa: 1 – Cái áo khoác bên ngoài. 2 – Cái bị, cái bì, cái bao, cái bào thai.
Không có chữ nào gọi là “Kiều Bào” ở trong Tự-Điển.
Việt Kiều là
những người Việt mang quốc tịch Việt Nam sống nhờ
ở các quốc gia khác, chứ không phải nói các công
dân các quốc gia khác có gốc Việt.
Chữ Bào (Pào). Hán Tự có
hai nghĩa: 1 – Cái áo khoác bên ngoài. 2 – Cái bị,
cái bì, cái bao, cái bào thai.
***
Chữ Mới Lạ:
Bây giờ người ta viết, nói nhiều chữ mới lạ lắm. Nào là: "Con nhang, Con tuổi, Con facebook, Con chữ, Con học sinh, Con nhà, Con Xe, Con sân khấu, Con Iphone, Con đặc sản...". Viết ngược Mạo Từ (Cái - Con). Câu văn, Câu thơ, Câu hát, Câu ca, Câu Ca dao, Câu hò, Câu vè…, thì gom lại nói "Câu chữ"... " Thỉnh thoảng thì viết “Thi thoảng”. (Chữ thi trong tiếng Hán có âm khác là xác chết, "cương thi"). Mệt mói, chán nản, buồn chán, thì nói “Hoang hoải”. Qua lại, trao đổi thì nói “Tương tác”. Đường hai chiều (ngược, xuôi), thì nói "đường song hành". Dùng thứ chữ Hán Việt lộn xộn… Rồi, nào là: Cá thể - trâu, bò, heo, gà, vịt, ngỗng...". Hai người thì nói "Cặp đôi"; Hay hơn nữa, còn nói: “Nam cá nhân”, “Nữ cá nhân”. Đi hớt tóc thì nói đi “Cắt quả, Quả đầu đầu ”… Hột vịt lộn, thì nói "Quả vịt lộn". Đánh người thì nói: “Tác động vật lý”. Tất cả chữ đó không nằm trong Tự Điển Tiếng Việt & Hán Việt.
Nhạc phẩm "Để Trả Lời Một Câu Hỏi" của Nhạc sĩ (Trúc Phương), có câu: "Từ bàn tay tiên nắn nót từng nét gửi cho anh, để anh vui bước đường quân hành...". (Nét có nghĩa là chữ - nét chữ. Chẳng lẽ sửa (Nét) ra "CON CHỮ"?
Nhạc phẩm "Tình Thư Của Lính"của Nhạc sĩ (Trần Thiện Thanh) có câu: "Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay...". Chẳng lẽ sửa lại "CON CHỮ"?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét