KHỔNG NHO & NHỮNG
MÂU THUẪN
Tác giả: Trang Y Hạ
Khổng Nho, nội dung
tư tưởng chứa đầy mâu thuẫn đã để lại hậu quả
lâu dài cho người Trung Quốc; cho những quốc gia dựa vào
tư tưởng của Khổng Tử làm phương châm giáo dục để
rồi tự chuốc lấy hậu quả, là - nền giáo dục trì
trệ, lạc hậu
không thể theo kịp kỷ nguyên khoa học, công nghệ
tiên tiến như các nước Phương Tây.
(Tại sao gọi là
Khổng Nho? Bởi Nho Giáo có trước Khổng Tử. Khổng Tử
sinh sau, mới làm hoàn thiện thêm và làm cho phong phú
thêm).
Trong bài nầy, tác giả
không cố ý “chỉ trích người xưa”, mà chỉ phân tích
lời dạy của Khổng Nho nhằm phân tích, những “mâu
thuẫn, hậu quả” của Khổng Nho để lại mà các nhà
khoa bảng trí thức danh tiếng thế giới
cũng đã phê phán cốt để suy nghiệm chọn lọc
hầu chấn chỉnh lại nền giáo dục cho phù hợp với
thời đại công kỹ nghệ đang trên đà phát triển không
ngừng. [Phải hiểu rằng, cho dù là danh nhân, danh sĩ thì
họ cũng có những sai sót và khuyết điểm của người
xưa chứ không là toàn mỹ]. Từ lâu một số các quốc
gia theo Khổng Nho, lấy “tư tưởng” đó làm phương
châm giáo dục đã nhận thức và mạnh dạn chối bỏ để
tiếp nhận khoa học kỹ thuật nhằm đưa đất nước
giàu mạnh, như: Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Nam Hàn và
ngay cả Trung Hoa lục địa ngày nay cũng vậy.
Tiếp nhận “Một
nền văn minh, khoa học kỹ nghệ”, không phải là xóa bỏ
sạch hết các: Định đề; phạm trù đạo đức (nhân
bản vốn có) hoặc nền nếp văn hóa cố định gọi là
“truyền thống”. Tuy nhiên, đôi khi chính văn hóa truyền
thống cố hữu truyền từ đời nầy sang đời khác qua
mấy ngàn năm trong lũy tre làng đã tạo ra (thói quen lười
biếng, sợ hãi) không dám dấn thân, không dám xê dịch,
nghi ngại không dám tìm tòi cái mới, không dám thay đổi...
Điển hình là “Bản Điều Trần” canh tân đất nước
của ông Nguyễn Trường Tộ khi ông qua Pháp đã tận mắt
chứng kiến sức mạnh – quân sự, kinh tế… Bản điều
trần, bị vua quan Triều Nguyễn xóa bỏ. Từ đó, nước
Pháp mới có cớ để đô hộ Việt Nam gần cả trăm năm.
Nhà triết học Ấn Độ (Krishnamurti) khẳng định rằng
“Truyền thống cố hữu chính là nguyên nhân của nỗi
sợ hãi”. Bởi quá sợ hãi cho nên không dám phá bỏ cái
cũ, mặc dù cái cũ đã “rách nát”... ! Tệ hơn nữa là
đám quan lại hủ lậu cố giữ khư
khư định kiến vì lo sợ nếu thay đổi theo trào lưu
khoa học thì sẽ mất hết quyền hành, tài sản…
Tiếp nhận “khoa học
kỹ thuật” là thoát ra khỏi cái kén, thoát ra khỏi lũy
tre làng để nhìn thấy bầu trời cao rộng hơn, con người
khôn ngoan hơn và cuộc sống sung túc hơn.
Nhà Khai Sáng Nhật
Bản, (Fukuzawa Yukichi) đã trình bày trong “Thoát Á Luận”.
Ông luôn khẳng định rằng: “Khổng Nho chỉ dạy cho con
người hư hỏng, mất ý chí, áp đặt và thụ động…”.
Văn hào Lỗ Tấn
(Trung Hoa), nói: “Nho giáo là thuốc độc của tinh thần”.
Và ông còn nói tiếp: “Các giai cấp phong kiến Trung Quốc
trong lịch sử, dùng Đạo Khổng (Trung, Hiếu, Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín) để làm hòn đá gõ cửa nhà người ta.
Một khi chủ nhà nghe gõ, mở cửa cho vào thì nó lấy hòn
đá đập vô đầu chủ nhà”. Đọc truyện ngắn “Khổng
Ất Kỷ”, hoặc “Trường Minh Đăng” của Văn Hào thì
sẽ biết ngọn ngành.
Tôn Trung Sơn (Tôn Dật
Tiên), Trung Hoa, là người đưa ra chủ nghĩa Tam dân: “Dân
Tộc, Dân Quyền, Dân Sinh”. Ông cũng cho rằng: “Khổng
Giáo là trở ngại cho sự phát triển giáo
dục, trở ngại cho sự thịnh vượng quốc gia cũng như
không đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Người
dân không được dạy về quyền con người; không được
dạy về lòng yêu nước; không được dạy về cách làm
cho phát triển kinh tế, nông nghiệp và công nghiệp”.
Ông Nguyễn Trường
Tộ (1828 – 1871) làm quan thời Nhà Nguyễn, ông đã cực
lực phê phán: “Ý thức hệ Khổng Nho đã lỗi thời cần
phải dẹp bỏ để tiếp nhận ánh sáng văn minh Phương
Tây”.
Ông
Phan Chu Trinh nói: "Không bỏ Chữ Hán (Khổng – Nho).
Thì Không Cứu Được Nước Nam".
Ông
Mao Trạch Đông, nói: “Những người như chúng tôi chống
Khổng Tử có rất nhiều lý do khác. Khổng
Học độc
quyền bá chiếm Trung Quốc, làm cho tư tưởng của chúng
tôi không được tự do, phải buồn khổ làm nô lệ cho
thần tượng này suốt hai nghìn năm, thì cũng đã không
thể không phản đối.”.
Văn
sĩ kiêm Nhà Tư tưởng Khang Hữu Vi 1858 – 1927). Và,
Nhà Dịch Thuật kiêm Ký Giả Lương Khải Siêu (1873 -
1929), nói rằng: “Bất cứ loại hình văn hóa truyền
thống nào như: - “Nho, Đạo, Pháp, Mặc...” - đều
không thể cứu được Trung Quốc, hơn nữa là một gánh
nặng hoặc vật cản. Lối thoát duy nhất là từ bỏ hệ
tư tưởng truyền thống, cải cách duy tân, học theo văn
minh phương Tây, hiện đại hóa Trung Quốc về mọi mặt”.
Tiếc
thay, đề xướng của hai ông thất bại thảm hại.
Khổng Tử suốt đời
chạy tới nước nào thì “nịnh bợ” vua chúa nước đó
để mong được giữ một chức quan, nhưng khi đã nhận
được chức quan thì không hoàn thành nhiệm vụ. Sai lầm
của Khổng Tử là cho rằng: “Vua chúa và dân chúng
có cùng chuẩn mực đạo đức ngang nhau”. Do đó,
xài chữ “NHÂN” tùy tiện. Không
rõ có phải đó là một phương thức dạy học cách riêng
của Khổng Nho thời đó hay không? Khổng Nho tùy theo từng
bản tánh của từng đệ tử mà truyền dạy. Đối với
đứa ham ăn, ham uống, thì dạy: "Quân
tử thực bất cầu bảo".
Nghĩa là (Người quân tử ăn không
cầu no). Đứa hay gây sự, quậy
phá, bướng bỉnh, thì dạy: "Quân
tử hòa nhi bất đồng".
Đứa nói năng huyên thuyên bừa bãi không đầu không
đuôi, thì dạy: "Tiểu biện
hại nghĩa, tiểu ngôn phá đạo".
Đứa hay bêu xấu người khác, moi móc chuyện đời người
khác, thì dạy: "Nặc nhân
chi thiện, sở vị tế hiền; dương nhân chi ác, tư vi
tiểu nhơn". nghĩa là:
(Giấu điều
tốt đẹp của người là dìm kẻ hiền; chỉ phô bày
điều xấu của người là kẻ tiểu nhân). Cách dạy
“xé lẻ” đó theo quan điểm ngày nay là không phù hợp.
Khổng Tử suốt đời
chỉ mong làm quan; mong các vua chúa dùng (lễ nhạc) của
mình để “bình thiên hạ”. Ông dùng mọi cách khuyến
dụ nhưng chẳng ai thèm nghe, thậm chí còn xua đuổi. Từ
đó mà Khổng Tử cảm thấy chán nản đành trở về quê
cũ... Ông tự than: “Đời đục cả, ta trong với
ai”. Qua câu than thở đó đã đủ cho thấy Khổng
Nho không hoàn hảo, và hơn nữa là các bậc vua chúa cũng
không (mặn mà) mỗi khi “Thánh” Khổng Tử răn dạy.
Ông buồn chán mà than thở: “Cô đơn, mệt mỏi như
con chó không nhà”.
Tuy nhiên giới Nho
gia, Vua chúa độc tài, quan lại tham những thì đã nhìn
ra thuyết Khổng Nho rất có lợi cho họ trong việc đè
đầu, đè cổ dân chúng. Khổng Nho chính là sợi “dây
thừng” giúp họ siết cổ dân đen, biến dân đen thành
những con cừu ngoan ngoãn chui vào trong cái rọ: “Trung,
Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”, và một khi đã
chui vào rọ thì mãi mãi trung thành tuyệt đối mà không
có ý niệm thoát ra hay chống cự.
Chủ thuyết của
Khổng Nho là lấy “Lễ Nhạc” để giới thiệu cho các
vua chúa cách trị dân. Nhưng thật ra đó chỉ là “mị
dân” hòng nhằm ru ngủ đám dân chúng nghèo đói, ngu
dốt... Chính đời sống xã hội nghèo đói, loạn lạc
hằng ngày đã chỉ rõ ra rằng: (Một khi con người và xã
hội rơi vào hoàn cảnh bần cùng thì tất nhiên sẽ sinh
ra loạn lạc, giặc dã nổi lên khắp nơi!). Điển hình,
như: Loạn An Lộc Sơn, đời Nhà Đường. Giặc Khăn Vàng
(Hoàng Cân), thời Hậu Hán hay Thái Bình Thiên Quốc thời
Nhà Thanh”, đã quy tụ được hàng chục triệu người
nông dân theo họ nổi dậy làm binh biến…! Trong các cuộc
nổi dậy đó đã làm dân số giảm đi rất nhiều…! Văn
hào Lỗ Tấn, nói: “Lịch sử Trung Hoa là lịch sử ăn
thịt người”. Nghĩa là Trung Hoa luôn có chiến tranh (tự
chém giết nhau). Từ đó, nghèo khổ triền miên, - đó là
chưa kể thiên tai lũ lụt…! Ai cũng biết “Bần cùng
sinh đạo tặc”, hoặc “Có thực mới vực được đạo”.
Vậy thì “lễ, nhạc” đối với người bần cùng nằm
dưới đáy xã hội thì phỏng có ích gì?
Người xưa nói: “Phú
quý sinh lễ nghĩa”. Một khi đời sống no ấm mới có
thể tổ chức giỗ quảy cho ông bà, cha mẹ, anh chị
em... Đất nước giàu mạnh, kinh tế phát triển thì mới
đủ kinh phí tổ chức các “lễ hội truyền thống văn
hóa của dân tộc cũng như tưởng nhớ tới các bậc anh
hùng có công giữ nước”. Khổng Nho không dạy cho người
dân làm giàu để có cơm no áo ấm mà lại lấy “lễ
nhạc” để trị họ. Dạy như vậy là sinh ra loạn lạc,
cướp bóc. Giả dụ rằng thứ “lễ, nhạc” đó là
hình luật được công nhận trong xã hội phong kiến cũng
như bây giờ thì cũng không đủ sức răn đe để giữ
trật tự xã hội.
NHỮNG
CÂU DẠY: BẤT NHẤT, MÂU THUẪN
- Đối Với Người
Dân:
Khổng giáo khinh
thường người dân:
Ông
Khổng Tử nói: (Hình phạt không được dùng cho quan lớn).
“Hình bất thướng đại phu”. Vậy là vua
chúa, quan lại, phú hào, bá hộ... được quyền “kim bài
miễn tử” không phải chịu bất cứ hình luật nào. Lấy
lễ nhạc trị nước mà nói: (Lễ không kể đến bọn
thứ dân). “Lễ bất há thứ dân”. Vậy là
Khổng Nho chỉ nhằm phục vụ cho quyền lợi vua chúa,
quan lại là chính. Lấy lễ đối nhân xử thế vậy mà
lễ không kể đến bọn thứ dân. Bởi vậy vua chúa, quan
lại phong kiến gọi người dân là: “Bọn thứ dân, đám
bần dân, con dân, con đỏ”, một cách miệt thị. Vua
chúa “vi hành” người dân phải quỳ lạy, cúi đầu
chứ không được nhìn mặt. Dưới thời phong kiến, người
dân phải nai lưng đóng đủ các thứ thuế để cho guồng
máy quan lại hủ bại hưởng thụ. Ngược lại mỗi khi
có thiên tai dịch bệnh hay chiến tranh, nghèo đói thì
không biết kêu ai. Vậy “lễ nhạc” không đem lại an
bình cho xã hội!
Ngày
nay (thế kỷ hai mươi, hai mươi mốt), những thế kỷ của
kỹ nghệ khoa học, con người rất thông minh và văn
minh... Vậy mà một số quốc gia “độc tài” vẫn khư
khư ôm hồn ma Khổng Nho làm phương châm giáo dục thì
chỉ làm khổ người dân và đất nước càng chậm tiến.
Đại Việt (Việt Nam), hơn bốn ngàn năm vẫn ôm khư khư
Khổng Nho làm nền tảng giáo huấn mà bị nô lệ phương
Bắc hơn một ngàn năm, và rồi “bế môn tỏa cảng”
nên bị người Pháp đô hộ gần trăm năm, cho tới hôm
nay vẫn chưa thoát ra được, đã vậy còn tròng thêm chủ
thuyết Cộng Sản cùng “đồng chí” với Trung Cộng.
Sách
sử ghi chép rằng, sau khi Khổng Tử mất, “Lục
Kinh & Kinh Nhạc” đã
bị thiêu huỷ hoàn toàn. Học trò của Khổng Tử xúm
nhau tìm tòi ghi chép lại. “Tam sao thất bổn” thử hỏi
có còn chính xác hay không? Đời Nhà Tần “Đốt sách,
giết học trò”, thì sách của Khổng Tử cũng bị mất
đi khá nhiều.
-
Đối Với Phụ Nữ:
Khổng
Nho khinh thường phụ nữ:
Khổng
Nho đối xử không công bằng với phụ nữ, đã vậy lại
còn ràng buộc phụ nữ bằng các thứ giáo điều rất
khắc khe tới nỗi vô lý và bất nhân. Những người con
cùng cốt nhục do chính cha mẹ sinh ra mà lại phân biệt
giới tính (trai,
gái) theo cách
“Trọng nam, khinh nữ”. Khổng Nho xem con gái là ngoại
tộc, bằng câu nói: “Nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Nghĩa là: (một
đứa con trai thì coi là có, còn mười đứa con gái cũng
coi là không). Thật là bất nhân. Hoặc: “Nữ sinh
ngoại tộc” (Con gái sinh ra là con nhà người
khác). Vậy mà Khổng giáo còn nói: “Phu phụ tương
kính như tân”. Nghĩa là: (Vợ chồng phải kính
trọng nhau như một người khách). Khổng Nho, nói hay như
vậy thì tại sao lại bắt người phụ nữ phải: “Xuất
giá tòng phu”. Nghĩa là: (Một khi đã lấy chồng
thì phải phụ thuộc hoàn toàn người chồng). Kính trọng
lẫn nhau như khách, mà lại bắt người vợ suốt cuộc
đời phải cúi đầu nghe chồng phán bảo mà không được
phép cãi lại?! Vậy là người phụ nữ một khi đã lấy
chồng thì chẳng khác gì “nô lệ”, chẳng khác gì một
người “giúp việc & sinh con” mà không được trả
lương?! Nghĩ ra, thật là quá mâu thuẫn.
Lại
nữa, đã tôn trọng lẫn nhau, tại sao lại cho đàn ông
được quyền: “Nam hữu tam thê tứ thiếp”.
Nghĩa là: (Đàn ông được lấy nhiều vợ)! Còn người
phụ nữ thì: “Gái chính chuyên chỉ thờ một
chồng”? Lại nữa,
là: Tình vợ
chồng thiêng liêng cùng thề nguyền sống với nhau suốt
đời, sống tới “răng long đầu bạc”, đồng cam cộng
khổ lo nuôi dạy bầy con nên người, thì bảo là: “Phu
thê như y phục”.
Nghĩa là (vợ chồng như quần áo), muốn cởi bỏ lúc nào
cũng được. Dạy như vậy có khác gì xem phụ nữ là một
món hàng để mua bán, trao đổi…?! Trong khi đó anh em
ruột thì nói: “Huynh đệ
như thủ túc”.
Nghĩa là (Anh em như thể tay chân)?
Nghĩ
thử xem, anh em ruột chỉ sống chung nhà với cha mẹ khi
còn bé, nhưng một khi đã trưởng thành tất nhiên phải
lập gia đình rồi tách ra riêng mỗi người sinh sống mỗi
nơi, phận ai nấy sống chẳng ai lo cho ai được. Tục
ngữ, nói: “Của cha của mẹ thì ham, của anh của chi ai
làm nấy ăn” đó thôi. Anh em ruột có khi nào sống chung
suốt đời như vợ chồng được đâu? Vợ chồng vốn vì
tình yêu (trai,
gái) lấy nhau để
“truyền giống”, vì nghĩa ân mà nương dựa vào nhau
lúc - bệnh hoạn, lúc khó khăn, thì lại xem nhẹ, khinh
thường…!
Đau
đớn hơn nữa là Khổng Nho, tròng vô cổ người phụ nữ
bằng cái gông: “Tam tòng, tứ
đức”. Suốt cuộc đời họ
lệ thuộc hoàn toàn vô người đàn ông, đó là: [Cha,
Chồng, Con Trai].
Khổng Nho bắt buộc phụ nữ học: “Công,
Dung, Ngôn, Hạnh”, đó
cũng
là cái
gông tròng vô cổ phụ nữ
nhằm phục vụ chồng và nhà
chồng. Người phụ nữ chỉ lẩn quẩn ở trong nhà, may
vá thêu thùa và sinh con, còn chuyện ngoài xã hội không
được quyền tham gia.
Khổng
Nho quan niệm rằng: Chỉ có: “Nam
nhi đại trượng phu”, “Nam nhân quân tử”. Nghĩa
là: Người con trai mới là đúng là bậc quý phái được
tôn vinh; con trai mới làm nên việc lớn và đáng gọi là
chính trực. Do quan niệm như vậy mà trong mọi nghi lễ
chỉ có phái nam mới có quyền đứng ra chủ trì việc
cúng tế từ trong nhà ra ngoài xã hội, còn người nữ
mệt nhọc lo việc bếp núc để phục vụ thì chỉ loanh
quanh ở dưới bếp, ăn uống sau bếp chứ không được
quyền bước lên nhà trên! Khổng giáo dạy: “Nữ
nhân ngoại tộc”. Đã
ngoại tộc
thì suốt đời người phụ nữ theo chồng cũng ngoại
tộc, chỉ là được tiếng “con dâu”. Người xưa nói:
“Thương chồng mới lụy bà gia, Gẫm tôi với mụ chẳng
bà con chi”! Một khi người phụ nữ bị chồng, bị nhà
chồng đánh đập, ruồng bỏ thì chỗ dựa duy nhất là
cha mẹ ruột. Vậy thì tại sao nói phụ nữ là ngoại
tộc? Khổng Nho dạy: “Tam
niên vô tử bất thành thê”. Nghĩa
là: (Ba
năm không sinh con không phải là vợ). Không sinh được
con, đâu phải là cái tội của người vợ gây ra? Tại
sao lại quy tội cho một phía? Mắc mớ gì Khổng Nho tự
đưa ra cái “luật” vô lý nhằm chia rẽ tình chồng vợ,
làm tan nát tình vợ chồng đang sống êm ấm?! Khổng Nho,
tạo tiền đề cho đàn ông có quyền ruồng bỏ người
vợ đầu ấp tay gối đã được hai bên dòng họ cưới
hỏi và được chính quyền công nhận bằng “giấy giá
thú”. Khổng Nho quả thật độc ác!
Khổng
Nho dạy: “Duy
nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất
tốn, viễn chi tắc oán”.
Nghĩa
là:
(Chỉ
có phụ nữ và tiểu nhân là khó giáo dưỡng, thân thiết
với họ thì họ tự cao, lạnh nhạt với họ thì họ bất
mãn).
Khổng Nho không hiểu tâm lý và bản chất con người, bởi
ở trong con người thiện ác luôn đối chọi để tiến
tới “Chân – Thiện – Mỹ”. Vì không hiểu biết nên
đã phân biệt, khinh khi phụ nữ.
Khinh thường phụ nữ,
cho họ “dơ bẩn nguyệt lịch”! Vậy mà tất cả đàn
ông đều chui ra từ (chỗ dơ bẩn nguyệt lịch) ấy của
phụ nữ. Bà Đoàn Thị Điểm, nói: “Giai do thử đồ
xuất” quả là quá đúng! Hạ thấp giá trị người phụ
nữ là hạ thấp phân nửa nhân loại.
Khổng Nho xem thường
tiểu nhân. Giả dụ, không người tiểu nhân thì làm gì
có người quân tử? Không lẽ con người khi sinh ra là
biết làm người quân tử? Nếu được như vậy thì nơi
trần gian ô trọc chẳng khác gì chốn Thiên Đường! Ông
Tào Tháo ngày xưa đã tin dùng người tiểu nhân, ông còn
nói: “Dùng người tiểu nhân đúng chỗ họ sẽ làm được
rất nhiều việc hay”.
Trong
“Thiên Tự Văn”. Thiên Tự Văn là một cuốn sách ghi
chép các điều về giáo lý chính thống của Nho Giáo, như
sau: “Ngoại
thụ phó huấn, nhập phụng mẫu nghi”. Nghĩa
là: (Ra
bên ngoài nghe lời thầy dạy, về nhà nhớ lời mẹ). Câu
nầy mới nghe thì như có vẻ khen ngợi, nhưng thực ra là
áp đặt người phụ nữ nghe lời mà không được tự ý
phản kháng. Tuy vậy, Khổng Nho cũng có nhiều câu nói giá
trị. Điển hình, như: “Kỷ
sở bất dục vật thi ư nhân”.
Nghĩa là: (Cái gì mà mình không muốn thì đừng bao giờ
làm cho người khác).Dưới thời phong kiến
vốn dĩ xem phụ nữ không ra gì. Do đó Khổng Nho cũng
không dám cất tiếng nói để bênh vực phụ nữ. Đã
không dám bênh vực lại còn đổ thêm dầu vô lửa. Tuy
nhiên, trong lịch sử Trung Hoa vẫn có những bà mẹ có
học thức đã dạy con của họ trở thành bậc tài danh,
như: Âu Dương Tu, Tô Thức
Dưới thời phong kiến
vốn dĩ xem phụ nữ không ra gì. Do đó Khổng Nho cũng
không dám cất tiếng nói để bênh vực phụ nữ. Đã
không dám bênh vực lại còn đổ thêm dầu vô lửa. Tuy
nhiên, trong lịch sử Trung Hoa vẫn có những bà mẹ có
học thức đã dạy con của họ trở thành bậc tài danh,
như: Âu Dương Tu, Tô Thức (Tô
Đông Pha), Chu Tất Đại… Ngoài ra cũng có một số phụ
nữ được cha mẹ cho ăn học và trở thành văn thi sĩ,
như: Thi sĩ Thái Diễm trong thời Tam Quốc phân tranh mà
Tào Tháo rất coi trọng tài văn thơ cũng như trí nhớ của
bà. Tác phẩm “Hồ Già Thập Bát Phách” của bà vẫn
còn lưu truyền trong nền văn học Trung Hoa cho tới tận
ngày nay. Nữ thi sĩ Tiết Đào (768
– 831) nhà Đường. Bà để lại tập thơ “Cẩm Giang
Tập”. Nữ thi sĩ Lương Ý Nương (Nhà
Đường) để lại bài thơ “Trường Tương Tư” rất
nổi tiếng.
- Đối Với Nam Nhi:
Đối với con trai,
thì một mặt Khổng giáo khuyên: “Nam nhi chí tại
tứ phương”. Nghĩa là (Làm trai phải có ý chí ở
khắp bốn phương trời). “Chí làm trai dặm nghìn da
ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. (Chinh Phụ
Ngâm). Vậy mà lại ràng buộc một câu quá mâu thuẫn:
“Phụ mẫu tồn bất khả viễn du”. Nghĩa
là: (Cha mẹ còn sống thì không được đi xa). Ngày xưa
chính Hàn Tín cũng vì câu nói đó mà cứ lẩn quẩn ở
bên mẹ và mả mẹ, nên đã trễ nãi chuyện tiến thân
dù tài năng quân sự của ông rất giỏi, thậm chí còn
phải chịu “lòn trôn giữa chợ” để có lý do được
ở lại quê nhà. Bởi vậy, sử sách Trung Hoa thời trước
và thời sau chưa bao giờ khinh khi Hàn Tín chuyện “lòn
trôn”. Và khi Hàn Tín làm tướng nhà Hán, ông trở về
quê nhà báo ơn người bán thịt heo “bắt” ông lòn
trôn giữa chợ.
Khổng Nho, dạy: Tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Câu nói nầy ngày xưa là “kim chỉ nam” cho các đấng
nam nhi. Thời phong kiến luôn áp đặt thì làm gì có tề
gia? Vua chúa lập “Tam cung, lục viện”. Quan lại, Địa
chủ lập nhiều thị tỳ thê thiếp. Đàn ông thường dân
cũng có quyền năm thê bảy thiếp... ? Cuộc sống gia đình
đa thê như vậy, tất nhiên những người vợ và con cháu
của họ, dòng tộc bên ngoại của họ sẽ đấu tranh để
giành ảnh hưởng, quyền lợi. Và gia đình sẽ luôn - xào
xáo, bất ổn, bất an triền miên kể cả đối chọi nhau
ngấm ngầm... ! Vậy thì làm sao mà tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ cho được đây?
- Đối Với Quan Hệ
Vua Tôi:
Khổng Nho dạy:
“Thượng bất chính, hạ tất loạn”. Nghĩa
là (Ở trên không chính trực thì bên dưới sẽ loạn).
Vậy mà lại dạy: “Quân xử thần tử, thần bất
tử bất trung” là hết sức tàn nhẫn, độc ác!
Những người có tâm lòng ngay thẳng góp ý kiến xây dựng
thì không dám nói, mà có nói ra kế hoạch canh tân đất
nước, can gián nhà vua hoặc nói lên sự thật thì nhà
vua cũng không nghe lại còn ghép tội “khi quân”, bị
“Tru di tam tốc, Tru di cửu tộc”. Đã vậy còn dạy:
“Quân dĩ dân vi bản”. Nghĩa là: (Vua lấy
dân làm gốc). Nhưng lại dạy: “Một tấc đất là của
nhà vua, hột lúa, ngọn rau là nhờ ơn của vua ban cho”.
Trong khi đó vua chúa, quan lại “ăn bám” của dân mà
sống.
- Đối Với Tình Cha
Con:
Khổng Nho dạy: “Phụ
xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. Nghĩa là
(Người cha bắt con chết thì người con phải chết, người
con không chịu chết là bất hiếu). Người xưa có câu:
“Hổ dữ còn không ăn thịt con”, huống hồ là con
người! Tại sao lại dạy cho “người cha” mất đi nhân
tính như vậy? Người cha nào có phải quan tòa đâu mà xử
án giết chết con ruột của chính mình? Luật lệ của
vua chúa đặt ra để làm gì? Từ đó, ngươi cha lộng
hành rồi trở thành “Gia Trưởng”, có toàn quyền sanh
sát - bắt vợ con phải tuân theo ý mình bằng không sẽ
bị giết; bị đem đi bán cũng như lập nhiều thê thiếp
mà không dám cãi…! Khổng Nho dạy con người trở thành
“ngu trung” – trung thành một cách mù quáng – mọi sự
phản kháng đều bị ghép tội.
- Đối Với Vua Chúa,
Quan Trường:
Khổng
giáo với tham nhũng:
Trung
Quốc tụt hậu so với Phương Tây nhiều năm về - chính
trị, giáo dục, công nghệ, kinh tế, quân sự - cũng vì
cố bám theo Khổng Nho. Do đó các học giả Trung Quốc sau
nầy đã nhận thấy nguyên do tai hại của sự tụt hậu
và mạnh dạn từ bỏ. Khổng Nho có liên quan trong vấn
đề “tham nhũng, gia đình trị”. Lý do là dạy con
người chỉ biết nghe theo một chiều, chỉ chấp nhận
hiện tại - cho dù có chịu cảnh túng thiếu nghèo đói;
cho dù chịu ngu dốt; cho dù bị đàn áp; cho dù bị ly
hương... - mà không hề dám nhìn về tương lai, không dám
phản kháng để mặc cho bọn tham quan cấu kết, lộng
hành… Hiện nay căn nguyên đó vẫn đang còn ảnh hưởng.
Nhìn
Chung:
Khổng
Nho xây dựng hệ thống tư tưởng dựa theo vòng quanh chữ
“Nhân” để đề ra phạm trù đạo đức: “Trung,
Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, nhằm áp đặt
niềm tin tuyệt đối, có thể nói là “bắt buộc”. Bắt
buộc bách tính tuyệt đối trung thành với Vua Chúa - cho
dù vua chúa, sai phạm, hủ bại thậm chí làm mất nước
vẫn u mê trung thành mà không dám hé răng phản ứng, đối
chất… Sự áp đặt đó đã làm thui chột trí tuệ, làm
mất đi sự sáng tạo, khai phóng canh tân trong mọi lãnh
vực của đời sống, từ: kinh tế, khoa học, chính trị,
xã hội, giáo dục, nghệ thuật - đồng thời làm mất
hết nhuệ khí, nghị lực của tuổi trẻ. Tệ hơn nữa
là làm cho người dân tê liệt sự phản kháng, sự phê
phán cái xấu của kẻ độc ác, độc tài.
Thật
ra những phạm trù đạo đức Khổng Nho đề ra chỉ là
gom lại các mối liên hệ nhân bản tự thân đã có sẵn
trong tâm lòng ở mỗi con người; cũng như các hình thái
đối nhân xử thế giữa người với người; với chòm
xóm láng giềng. Mối liên hệ nhân bản tự thân chính là
lẽ sống tràn đầy yêu thương đã có từ lâu - đã có
từ rất lâu, trước khi Khổng Nho xuất hiện. Nhân ái,
nhân bản luôn luôn có sẵn trong mối giao hảo trước khi
“Chữ Nhân” ra đời.
Chữ
nhân “chữ viết” ra đời chỉ là để hoàn thiện, để
làm sáng tỏ ý nghĩa “Hàn Lâm Văn
Chương” hầu truyền lại cho các thế hệ sinh sau bằng
văn bản, chương hồi... Chữ
Nhân (仁)
gồm bộ thủ nhân (人),
và bộ nhị (二).
Hai “bộ thủ” hợp chung lại thành một chữ Hội
Ý.
Vậy “chữ nhân” có nghĩa là đại diện diễn tả làm
sáng danh phẩm chất đạo đức trong quan hệ trực tiếp
giữa người với người bằng hai bộ chữ nhân lồng
ghép vào với nhau. Nghĩa là: “hiển nhiên” có hai người
là hình thành ở trong một nhóm; hình thành một gia đình.
Từ đó khởi sự cho một hình thái xã hội quần thể.
Chữ Nhân chính là cách sống nhân bản, nhân ái đối xử
trong tình thương yêu, san sẻ đùm bọc. Con người khi
tượng hình từ trong bào thai thì “nhân”
đã có từ đó rồi, chứ không phải đợi cho tới khi có
(chữ
nhân)
mới biết rằng có nhân.
Tóm
Lại:
Chẳng
thà không biết gì hết, còn hơn là biết mà biết toàn
chuyện sai lầm. Tư tưởng sai lầm sẽ gây ra sự đau khổ
cho quê hương, đất nước và cho nhiều thế hệ con cháu.
Thậm chí cho toàn nhân loại... Nguy hiểm hơn là làm tay
sai cho giặc dẫn tới mất tổ quốc, làm nô lệ cho ngoại
bang. “Chủ thuyết sẽ mất đi nhưng dân tộc thì trường
tồn”. Ở vào thời buổi công kỹ nghệ mà quốc gia nào
còn đeo bám Khổng Nho làm kim chỉ nam cho giáo dục là dẫn
đất nước đi thụt lùi về mọi mặt.
Trong bài viết nầy không đề cập tới chuyện “Đúng, Sai”. Sự thật vẫn là sự thật, sự thật không phải dùng để chỉ trích - (người nầy sai, kẻ kia đúng). Nhưng, phải thấu hiểu sự thật thật sâu xa bằng với các sự việc “khác nhau”; ở trong một sự kiện khác nhau; ở trong một thời điểm khác nhau; ở trong một chủ thuyết ngoại lai du nhập sai lầm. Nhận thức bằng cách tự đặt lại vấn đề, tự vấn lại lương tri hầu làm sáng tỏ... Từ đó, đừng hùa theo số đông nhằm “phong thánh” cho một ai đó, cho một chủ thuyết không tưởng mà bị mắc lừa. ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét