NGHE LỜI BẬU
Nửa
thế kỷ, bởi vì nhau mà kiếm
Từ
trong tâm, bòn mót được bao nhiêu.
(30.4.1975
– 30.4-2025)
Rừng
hoa đót, ẩn trong đầu nở miết
tầm
chim quyên cánh mỏng lạc phương nào
cành
đợi gió nội tâm ran-rát bỏng
chân
trời khoe mây trắng đuổi xôn-xao.
Mở
điện-thoại, tìm vì sao bắc đẩu
vọng
cõi nam, nhạn mệt lộn tầng không
hướng
đông ngóng, bình-minh an giấc điệp
quy
trời tây, vệt nắng dát tủi lòng.
Nghe
lời bậu, thôi đừng về Dak-Pek
nắng
mưa chừ không nhận diện nữa là
người
lạ hoắc xua lớp người cố cựu
đường
thay tên, nẻo cũ bới đâu ra.
Dak-Seang
lượm, dấu tích lưu trong gió [1]
cánh
dù bay tiếp-viện đẹp núi đồi
bầy
trẻ nhỏ chia nhau bịch gạo sấy
người
lính ngồi, phành thư đọc cho vơi.
Đêm
Dak-Sút hứa bừa em gái thượng
sẽ
trở về theo vô núi hái măng
áo
jacket cởi ra choàng vai nhỏ
đôi
mắt nai ngân-ngấn, mặt vùng-vằng.
Ngồi
xe mở ba lô tìm cơm nguội
xôi
nếp than đã giấu tự lúc nào
quay
mặt lại nghe con tim thổn-thức
tấm
chân tình cô gái nhỏ miền cao.
Cơn
gió nóng pha lạnh tràn ký-ức
Tou-Mơ-Rông
mây vẽ khói sương mờ
dòng
sông đẹp, Pơ-Ko phơi cát đá
chú
bướm vàng, suối cạn mắt lơ-ngơ.
Tou-rông
mất, trong lòng đau quá thể
đầu
nguồn sông Dak-Bla nước ngừng trôi
rừng
trùng điệp không thể nào cố thủ
núi
nhấp nhô, hẹn tái chiếm đỉnh đồi.
Gió
Măng-Buk, Măng-đen từ thủa nọ
thổi
lính lên, lủng-lẳng đỉnh mò trăng
phi-đạo
vắng, ngóng thư từ hậu-cứ
thèm
cá tươi, cả tháng mới họa hoằn.
Lô-cốt
gác, nghe thú nằm than-thở
pháo
ho khan, chuột trốn đám cỏ hôi
chiếc
nón sắt, ôm lá khuya tri-kỷ
rủ
hai mùa, mưa nắng tẩm da ngồi.
Dak-To
ghé, hồn bạn vây thăm hỏi
áo
nhà binh mùi phảng-phất đâu đây
khều
mặt đất giấu giày sô lưu dấu
rượu
uống khan, phơi tâm sự: tao, mầy.
Thằng
bạn gặp, gậy lò-dò nhăn nhúm
bưng
ly bia, sóng rung đổ đầy bàn
ôn
chuyện lính, câu sau quên câu trước
vỗ
vai nhau khơi kỷ-niệm miên-man.
Nghe
lời bậu, thôi đừng về Tân-Cảnh
Lại-Văn-Chu
giọng đọc lẫn trong mây [2]
Hí-Viện
hát, ngưng cười nhìn Thánh-Giá [3]
tháp
Trung-Đoàn tan-nát biệt dấu giày. [4]
Tân-Cảnh
chợ, chênh-vênh lưng chừng dốc
xe
lam thồ xuống rau trái bên đường
người
mua sắm, nhận ra toàn vợ lính
buổi
đông vui, ngày đầu mới lãnh lương.
Thương
vợ lính, khu-gia-binh mất điện
sợi
hỏa châu, le-lói ngỡ chồng về
bầy
pháo địch, hòa pháo mừng nguyên-đán
Mậu-Thân
loang, máu lửa nhuộm sơn khê.
Sư-đoàn
lính hoa-kỳ về trấn giữ
đoàn
công-voa dằng-dặc ghé Phượng-Hoàng
đêm
mất ngủ bầy phi-cơ gầm rú
rác
mỹ đầy khoe dưới nắng chang chang.
Người
dân xúm chạy đi moi rác mỹ
lắm
người thầu ôm rác để làm giàu
mở
“dịch-vụ” bu bám theo căn-cứ
chiến
tranh dài, mới tỏ rõ vàng thau.
Mùa
đỏ lửa, Phượng-Hoàng bay tản-mác [5]
áng
mây chiều ảm-đạm phủ chia-ly
làng
Tri-Lễ, bụi tung trùm Dak-Mot
Ngọc-Rinh-Rua,
hỏa-lực hết gầm-ghì.
Bậu
hẹn chỗ cầu treo đeo sương nặng
nụ
hôn lưu tình sử có nào vơi
em
gái nhỏ Bồng-Sơn bay lên núi
ân
tình trao, ngồi chưa ấm chỗ ngồi.
Pháo
bầy thét, Bạch-Hổ gầm Ben-Hét [6]
trấn
ngã ba biên giới Việt-Miên-Lào
tin vui nhận, rằng cuối năm đám cưới
cô
dâu chờ, đôi mắt trõm chao-vao.
Dak-Rao
vọng nhịp chày rơi sương muối
sơn
nữ ngồi vuốt từng khúc măng le
váy
hoa hở ngực đầy hơi bếp ấm
đành
bỏ làng vì quân giặc hằm hè.
Nghe
lời bậu, thôi đừng về đó nữa
dòng
Dak-Psi, xếp cất tuổi thơ ngây
Diên-Bình
xã dinh-điền tìm đất mới
ở
nơi đâu, dấu bom đạn đủ đầy.
Diên-Bình
xã, chưa quên cô gái nhỏ
mới
biết yêu, hôn nháp nụ hôn đầu
cây
cầu sắt rung-rinh theo nhịp thở
vì
sao vui, quên bẵng cả đêm thâu.
Giặc
đánh rát, Kon-Hơ-Ring no lửa
ngút
khung trời vỏ đạn cháy ra than
bệnh-viện
đón người bị thương chật chỗ
đang
yên vui thoáng chốc hóa cơ-hàn.
Ngô-Trang
ruộng, đón lính về phòng thủ
bữa
cơm thơm hơi thở đãi người xa
cá
đồng nhỏ, kho tiêu nhìn rau dớn
có
khóc đâu, đôi mắt lại muốn nhòa.
Anh
lính trẻ ngồi ôm đờn dạo khúc
mắt
ngây thơ, dõi từng nốt giáng thăng
bàn
tay ngọc, mím môi mời ly nước
đôi
mắt to chứa đựng một cung hằng.
Tri-Đạo
ngắm, cô em khều vú sữa
trái
oằn cây mời ăn, mủ dính môi
tháng ba lửa nung Charlie sùng sục
mê
gái xinh, lẩn quẩn lựa chỗ ngồi.
Cầu
Tri-Đạo, lữ-đoàn dù pháo ngự
cây
mùa xuân, dân chia ngọt xẻ bùi
dân
chạy giặc từ DakTo tràn xuống
điểm
cuối cùng trấn giữ phải rút lui.
Chuông
Võ-Định, gọi người năng đi lễ
áo
trắng bay chưa vấy đất đỏ chân
hồn
xác thức, vội vàng làm dấu thánh
mơ
ước theo mơ ước biết bao lần.
Tin
chiến-sự, dập-dồn đơn-vị chuyển
nồi
khoai lang, bậu nấu chẳng kịp đem
vành
trăng nhú dặm đường thêm nặng bước
âm
thầm đi, đụng cành lá ướt mèm.
Vô
Trung-Nghĩa, đôi giày chưa kịp tháo
rẫy
xanh tươi, căng mắt chẳng thấy tiên
phi-tuần
dội, rung giường em gái ngủ
di-tản
vào thị-trấn gói ưu-phiền.
Về
Trung-Tín, vội-vã đào công-sự
xe
nhà binh hối hả chở bụi bay
điếu
thuốc gắn, trệ môi chưa kịp hút
bê-năm-hai,[B-52]
bom trút tối mặt mày.
Nằm
tử thủ, KonTum ròng rã ruột
phố
vắng teo, gom từng sợi tóc mai
bậu
di-tản, trôi phương nào vậy hử
túi
ny-lon, ướp xác lính sương dày.
Xe
tăng giặc, nửa đêm xâm nội thị
thành
Dak-Pha trực-xạ, xích đứt đôi
con,
“sinh-bắc-tử-nam” lòng mẹ (quặn)
khói
thuốc cay (thắt)
ruột dáng cha ngồi.
Sân-Vận-Động,
dân dồn chờ di-tản
ôm
con thơ, người vợ mặt thất thần
chồng
ở lại ôm chiến-hào tử-thủ
biết
có còn gặp lại nối nghĩa-ân.
Vùng
chiến-địa tử thương, ai vuốt mặt
giọt
lệ nào đưa tiễn, phút xuôi tay
anh
lính sữa chưa một lần dám nắm
tay
người yêu chừ xác lạnh nơi này.
Đêm
tử thủ, nghe nhịp chân thiếu-nữ
bước
nhẹ-nhàng tựa chiếc lá thu rơi
giọng
khẩn-thiết từ xa xa vọng lại
giữ
KonTum, đã hứa nhớ giữ lời.
Trường
Hoàng-Đạo, Teresa duyên-dáng
Lê-Hữu-Từ
thăm hỏi Kim-La-San [7]
hoa
phượng nhớ áo dài Phan-Thanh-Giản [8]
người
ra đi gói hình bóng mơ-màng.
Hàng-Keo
rót, rót ly bia tràn phố
Lê-Thánh-Tôn,
Trịnh-Minh-Thế, Thanh-Bình [9]
Minh-Quang
tiệm, mua tặng nàng cuốn sách
làm
món quà sinh-nhật, đứng lặng thinh.
Lá
keo lượn, vô ly sâm-bổ-lượng
các
cô nhìn, quên cặp sách rơi chân
sữa
chua hũ, thấm qua tà áo trắng
hương
trinh nguyên, sỏi đá cũng bần-thần.
Dãy
kiosques, Chợ-Lồng cô mắt biếc
RubiQeen,
Cotab, với Bastos...
lương
nửa tháng, sạch trơn xin ký sổ
nịnh
vài câu, “thế-chấp” dị thấy mồ.
Ngang
“for-get” ngắm cô nàng “me-not” [10]
quanh
một vòng sạp chợ, nàng dẫn đi
năm
mười phút, gấp gáp về lại quán
chỉ
quen thôi, nào biết có duyên gì.
Câu-Lạc-Bộ-Thanh-Niên,
ngồi hóng gió
Dak-Bla
dòng nhiễm bệnh đục hơn trong
Phương-Nghĩa-Bốn,
giếng khô, rau: cay, đắng
Phương-Quý,
Phương-Hòa, lúa bắp (nẩy) trong
lòng.
Phương-Nghĩa-Bốn,
phi-trường rền pháo địch
đêm
chuyển dân, chạy giặc hỏa châu soi
cô
mắt ướt, ngoái nhìn anh lính trẻ
sẽ
gặp nhau, xin đừng có u-hoài.
Nghe
lời bậu, đừng có về thăm thú
Bê-Mười-Lăm,
lớp lớp cỏ trông mây [11]
cô
bán bánh trước đồn lên bà nội
lính
tù-đày, đắp đổi sống qua ngày.
Tân-Phú
rẫy, cho trái cây tươi tốt
trại
tạm cư, đặt tên Ma-Ri-Lou
mái
tôn sáng, cuộc đời chưa thấy sáng
bữa
thăm nhau, hai đứa tắm sương mù.
Tân-Phú
thủa, lâu rồi rẫy tìm rẫy
đất
mỡ gà, nào có thấy gà đâu
chòi
xiêu-vẹo, đôi tâm tình mê mải
cây
chuối con nhớ mẹ, lá úa nhàu.
Mờ
mờ sáng tháng tư sương bao phủ
bỏ Dak-Bla, thầm xin lỗi Làng-Hồ
kể
từ đó chân trượt dài vô tận
chứa
trong lòng từng đợt sóng nhấp-nhô.
Nửa
thế-kỷ cảnh cũ còn đâu nữa
Đồi-Sao-Mai,
vách đá nhọn đâm mây [12]
nhớ
chân núi dựng căn lều ở tạm
nằm
gác tay, mong sẽ được sum-vầy.
Nửa
thế-kỷ chôn rồi mà chưa chết
yêu
tự-do, yêu tân-nhạc, thị-trường [13]
chuyện
thua thắng, đem so bì sao đặng
bởi
hiềm vì “hữu xạ tự nhiên hương”.
KonTum
đất, ắt lưu danh quân-sử
cảm
người trai, tứ xứ đãi máu xương
rừng
huyền-bí đã mấy mùa thay lá
bao
công-lao, lấy chi để đo lường.
Vòng
sử-lịch xoay ngang, không than vãn
chỉ
mong rằng màu lá mới tươi xanh
xót
chim-việt-cành-nam, tan-tác xứ
thương
non sông, dò-dẫm bước dạ-hành.
Hoa
dại hãy vì nhân-sinh mà nở
đẹp
con đường mơ ước tới tương-lai
hận
thù bỏ nằm phơi mưa phơi nắng
chẳng
vì ai, buộc bông nở mỗi ngày.
Mở
điện-thoại, gọi thăm vùng dĩ-vãng
bấm
số nào, chỉ cảm nhận trong tâm
màu
vàng hãnh, rủi thay ra hoàng-lạc
ngước
mặt lên, rà soát bộn lỗi-lầm.
Lời Gió Mưa:
Dẫu cho tráo trở thiện chân,
Di-ngôn hoán-địa vẫn cần phương-viên.
“Những bài thơ viết trong chiến tranh & đang viết về chiến tranh - đừng bao giờ nghĩ rằng bài thơ đó sẽ tàn lụi theo năm tháng. Bài thơ viết đã hơn nửa thế kỷ hay đang viết - dù thời gian có trôi qua chưa hẳn là đã chấm dứt chiến tranh - cũng đừng cho rằng chiến tranh chỉ có súng đạn mới xảy ra chiến tranh. Chính chủ thuyết và hận thù là mầm mống của chiến tranh ngay cả trong thời [tạm] cho là hòa bình.”. (Trần Phước Hân).
Cước Chú:
1 – Đại tường Hoa Kỳ Westmoreland, có tới thăm Dak Seang.
2 - Trường tiểu học Lại Văn Chu, ông là Trung tá Trung đoàn 42 đầu tiên.
3 - Ngã ba Thánh Giá, Tân cảnh.
4 – Đồn Ben-Hét, có tên khác là đồn Bạch-Hổ.
5 - Trung đoàn biệt lập 42, có tháp canh rất cao.
thuộc sư-đoàn 22. Huy hiệu là: (Hắc Tam Sơn, Bạch Nhị Hà).
6 - Phi-trường Phương Hoàng, DakTo 2. Mùa hè đỏ lửa 1972.
7 - Các trường trung học (công lập & công giáo).
8 - Đường Phan Thanh Giản, có (trường nữ sinh theresa) hai bên đường trồng nhiều cây phượng rậm rạp.
9 - Cinema Thanh Bình của ông Lê Văn Can.
10 – “For get me not” - tên của quán sinh tố, trên đại lộ Trình Minh Thế (Sân Vận Động, xây mặt ra chợ Lồng KonTum).
121- B-15, trại lính biệt kích, lôi hổ (ngã ba phương hòa).
12 - Từ Pleiku lên KonTum, qua khỏi Đồi Chư-Pao là thấy Đồi Sao Mai - địa giới phân ranh giữa Pleiku - KonTum, đó là nơi định cư cho người dân từ Tân Cảnh, DakTo chạy giặc về ở.
13– Miền Nam (VNCH) theo tư-bản tự do. Ngày nay csVN cũng theo tư bản “WTO”, kinh tế thị trường do Hoa Kỳ khởi xướng.
![]() |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét