ĐẤT NGHẸN
“Cử đầu vọng
minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”,
(Lý
Bạch).
Không phải tới giờ mới
thấy thương quê
đã biết yêu quê từ
thuở vừa sang sáu
tuổi thơ ngây, tập-tễnh
tập mặc quần dài
thử đón tết, thử ngửi
mùi nhang ăn bánh ú.
Mỗi ngày đoán giờ, qua
bóng cây cau cây đu đủ
sáng
gầy lờ, chiều tối cha ở ruộng về đan
[1]
đan cho đặng sớm mai mẹ
đem ra chợ
mới sáu tuổi đầu, biết
chia khổ với mẹ cha.
Dựa gối gầy lờ, bụng
ỏng trông đám ruộng xa
bóng mẹ tỏ mờ, giống
bà tiên hiều hậu
bánh đúc xẻ hình thang,
chấm mắm cái mẹ mua
ăn ngấu-nghiến, còn hơn
nem công chả phụng.
Đói phân, cây sắn gắng
gượng cao ngang bụng
con bò, con trâu không dám
gặm trụi cỏ đồng
mùa lúa chín, rơm rạ
theo người về nhà sum-họp
thằng bù nhìn buồn xo,
xuôi tay ngó bầy chim.
Tháng chạp, đám mía khoe
cờ lau đứng lặng im
vắt vẻo lưng còng chuyển
về lò ép lấy nước
đường bát đối mặt,
quấn rơm khô nằm thúng
gánh đi bỏ mối lấy
tiền sắm tết, đón giao thừa.
Sông Rù-Rì, mùa cạn
ngong ngóng cơn mưa [2]
tự biết bơi, lặn lần
theo từng con cá bé
trong veo nước, hột
phù-sa trôi về phương nào
bóng mây trắng lộn nhào theo cát trắng.
Mẹ mỗi ngày ngồi dệt,
mẹ thèm hơi nắng
khung cửi ôm chân hòa
nhịp tiếng thoi đưa
mẹ dệt thuê lấy gạo,
khắp cả nhà người
vải đẹp cho đời, tấm
áo mẹ vá tả tơi.
Cha vật lộn mảnh đất
nhỏ “hương-hỏa”, xói đời
đất nghẹn không thể
nào cho chi thêm nữa
cơm nồi đất, tụ hội
bạn bè vui sắn khoai
khoai sắn, cũng cân đo
đong đếm chi li.
Ngồi đánh vần mơ ước
mệt mỏi ngủ li bì
trong mộng-mị, bảng ghi
danh đỗ trạng-nguyên
thức giấc, mẹ cầm tay
đồ theo từng nét chữ
chữ nho, cha dạy rúi nùi
như đan như lát.
Cha mẹ, lìa quê lên miền
cao-nguyên lưu lạc [3]
bỏ gầy lờ, gầy tương
lai da đỏ sậm ba-dan
đất lạ đãi người
mới, ruộng vườn xanh mướt
chuông nhà thờ dội tan
sương báo tin mừng.
Ánh sáng chính là thuốc
khử trùng trên từng
bông mai vàng nở lại, rõ
“phúc họa tương tinh”
cuộc đời có vết nứt,
ánh sáng mới lọt qua
móng nhà đổ nát phải
chăng chỉ vì con kiến.
Mưa nắng hai mùa, cha mẹ
dành vốn liếng
gió núi khói sương lạnh
cóng, chẳng nề hà
đôi chân, chân cứng đá
mềm chưa than-thở
hy-vọng hai thân dồn hết
về những đứa con.
Bầy em sinh sau, chịu cảnh
tản-cư mỏi mòn
trở lại thăm lại, nơi
sinh ra cùng hơi núi
cao-nguyên giữ nguyên
trạng, cho người về nhớ
mùi nắng, mùi mưa, mùi
hy-vọng, mùi chia ly.
Cuộc đời ai cũng có
nhiều tiếc nuối
thôi đành ôm nuối tiếc
bước theo thủy-triều.
Chạy được hòa thượng,
không chạy khỏi miếu
đám thảo-khấu ùa về
cướp hết cả công-lao
đất nghẹn nhìn người
bỏ quê, đi lánh nạn
cha mẹ ly-hương lây qua
đời con tha-phương.
Ngụ ở bên này bờ
đại-dương,
sóng vỗ lòng đau, tơ
tưởng đoạn đường làng
mẹ dẫn đi chúc tết bà
con trong xóm
cha dẫn đi chạp mả,
trời đông gió bấc mưa phùn
dạy con, lòng ngay không
sợ bóng nghiêng.
công lao cha mẹ, nối tiếp
các bậc tiên-hiền
ngậm ngùi lìa quê, còng
lưng khai-cơ lập-nghiệp
để lại cho con, - xin lỗi
chúng con đành để mất
đất nghẹn, tới khi nào
hết nghẹn cho đây.
Cước chú:
1- Lờ là một dụng cụ bắt cá đồng.
2- Sông Rù-Rì ở Xã Sơn-Xuân, Quế-Sơn, Quảng-Nam. Sông còn có tên Ly-Ly.
3- KonTum, 1957.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét