Thư viện

27/5/25

ĐẤT NGHẸN

 



ĐẤT NGHẸN


      “Cử đầu vọng minh nguyệt, 
       Đê đầu tư cố hương.”,
                       (Lý Bạch).

Không phải tới giờ mới thấy thương quê
đã biết yêu quê từ thuở vừa sang sáu
tuổi thơ ngây, tập-tễnh tập mặc quần dài
thử đón tết, thử ngửi mùi nhang ăn bánh ú.


Mỗi ngày đoán giờ, qua bóng cây cau cây đu đủ
sáng gầy lờ, chiều tối cha ở ruộng về đan [1]
đan cho đặng sớm mai mẹ đem ra chợ
mới sáu tuổi đầu, biết chia khổ với mẹ cha.

Dựa gối gầy lờ, bụng ỏng trông đám ruộng xa
bóng mẹ tỏ mờ, giống bà tiên hiều hậu
bánh đúc xẻ hình thang, chấm mắm cái mẹ mua
ăn ngấu-nghiến, còn hơn nem công chả phụng.

Đói phân, cây sắn gắng gượng cao ngang bụng
con bò, con trâu không dám gặm trụi cỏ đồng
mùa lúa chín, rơm rạ theo người về nhà sum-họp
thằng bù nhìn buồn xo, xuôi tay ngó bầy chim.

Tháng chạp, đám mía khoe cờ lau đứng lặng im
vắt vẻo lưng còng chuyển về lò ép lấy nước
đường bát đối mặt, quấn rơm khô nằm thúng
gánh đi bỏ mối lấy tiền sắm tết, đón giao thừa.

Sông Rù-Rì, mùa cạn ngong ngóng cơn mưa [2]
tự biết bơi, lặn lần theo từng con cá bé
trong veo nước, hột phù-sa trôi về phương nào
bóng mây trắng lộn nhào theo cát trắng.

Mẹ mỗi ngày ngồi dệt, mẹ thèm hơi nắng
khung cửi ôm chân hòa nhịp tiếng thoi đưa
mẹ dệt thuê lấy gạo, khắp cả nhà người
vải đẹp cho đời, tấm áo mẹ vá tả tơi.

Cha vật lộn mảnh đất nhỏ “hương-hỏa”, xói đời
đất nghẹn không thể nào cho chi thêm nữa
cơm nồi đất, tụ hội bạn bè vui sắn khoai
khoai sắn, cũng cân đo đong đếm chi li.

Ngồi đánh vần mơ ước mệt mỏi ngủ li bì
trong mộng-mị, bảng ghi danh đỗ trạng-nguyên
thức giấc, mẹ cầm tay đồ theo từng nét chữ
chữ nho, cha dạy rúi nùi như đan như lát.

Cha mẹ, lìa quê lên miền cao-nguyên lưu lạc [3]
bỏ gầy lờ, gầy tương lai da đỏ sậm ba-dan
đất lạ đãi người mới, ruộng vườn xanh mướt
chuông nhà thờ dội tan sương báo tin mừng.

Ánh sáng chính là thuốc khử trùng trên từng
bông mai vàng nở lại, rõ “phúc họa tương tinh”
cuộc đời có vết nứt, ánh sáng mới lọt qua
móng nhà đổ nát phải chăng chỉ vì con kiến.

Mưa nắng hai mùa, cha mẹ dành vốn liếng
gió núi khói sương lạnh cóng, chẳng nề hà
đôi chân, chân cứng đá mềm chưa than-thở
hy-vọng hai thân dồn hết về những đứa con.

Bầy em sinh sau, chịu cảnh tản-cư mỏi mòn
trở lại thăm lại, nơi sinh ra cùng hơi núi
cao-nguyên giữ nguyên trạng, cho người về nhớ
mùi nắng, mùi mưa, mùi hy-vọng, mùi chia ly.

Cuộc đời ai cũng có nhiều tiếc nuối
thôi đành ôm nuối tiếc bước theo thủy-triều.

Chạy được hòa thượng, không chạy khỏi miếu
đám thảo-khấu ùa về cướp hết cả công-lao
đất nghẹn nhìn người bỏ quê, đi lánh nạn
cha mẹ ly-hương lây qua đời con tha-phương.

Ngụ ở bên này bờ đại-dương,
sóng vỗ lòng đau, tơ tưởng đoạn đường làng
mẹ dẫn đi chúc tết bà con trong xóm
cha dẫn đi chạp mả, trời đông gió bấc mưa phùn
dạy con, lòng ngay không sợ bóng nghiêng.

công lao cha mẹ, nối tiếp các bậc tiên-hiền
ngậm ngùi lìa quê, còng lưng khai-cơ lập-nghiệp
để lại cho con, - xin lỗi chúng con đành để mất
đất nghẹn, tới khi nào hết nghẹn cho đây.

Trang Y Hạ
San Francisco, 2008

Cước chú:
1- Lờ là một dụng cụ bắt cá đồng.
2- Sông Rù-Rì ở Xã Sơn-Xuân, Quế-Sơn, Quảng-Nam. Sông còn có tên Ly-Ly.
3- KonTum, 1957.


San Francisco (Hoa Kỳ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét