UỐNG RƯỢU VỚI CỤ
HỒ-NGUYÊN-TRỪNG
Sóng
cuộn Kỳ-La, đau hồn nước
Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà. [1]
Đêm
chờ sáng quá-khứ sờ loạn nhịp
đầu
chưa nguôi, dĩ-vãng nhắc Đại-Ngu
giọt
sương nện ngụm ngụm trà lạc nhách
gió
trời nam gió xoáy thổi vù vù.
Giờ
thất trận nuốt giọt mưa cửa ải
ngước
mặt lên đỉnh núi rớt màu tang
bầy
em gái, tuổi cập kê cúi mặt
nụ
hôn chưa duyên phận hối lỡ-làng.
Bóng
mẹ đứng, xế tà ôm con nhỏ
dáng
cha ngồi, quân giặc trói hai tay
đám
ưng khuyển, tha hồ vơ-vét của
hàng
binh đi, đi vào kiếp lưu-đày.
Kiến
địa hiểm, hiểm nguy đành cố bước
ải
khói mờ, ngoảnh mặt tạ quê hương
trời
sẫm tối đường lưu-vong dịu vợi
thân
thân trai ngả ngã ngựa chiến-trường.
Đất
địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc
thấm
lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô
nhập
thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ
hậu
nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ.
Đêm
chờ sáng, du hồn lần cố-quận
cô
nguyệt huyền, lọn sóng giục Lương-Giang [2]
quan
gá-nghĩa, không khỏa đi nỗi nhục
công
hầu dâng, chẳng lấp phận quy hàng.
Thiên-Nam-Mộng
mơ màng cô Thái Diễm [3]
đất
Hung-Nô, nữ sĩ gặp vận may
đất
Hung-Nô, Tô-Vũ nhờ cánh nhạn
rơi
cung thương, gánh một gánh lưu-đày.
Ngụ
đất giặc, chẻ đầu chế ra súng [4]
quân
thù vui, tự giết giết lẫn nhau
cơm
từng hột, nhai như nhai sỏi đá
nước
nuốt vô trong bụng nước đục ngầu.
Đa-Bang
trận, quân Minh sợ tái mặt [5]
lực
bất tòng, văng vẳng thần Kim-Quy
thiên-thời
tận thiên-tài đành bó gối
chiến-trường
tan vung vãi xác quân-kỳ.
Kẻ
hậu bối, bước trùng vùng thất trận
theo
tiền-nhân, vẽ bức họa lưu-vong
vẽ
tội đồ, tội đồ làm mất nước
xin
lỗi quê một cổ gánh đôi tròng.
Túc-Tâm-Đạo,
ôm vòng xoay khắc-nghiệt [6]
gươm
giáo tan, ôn cố thuở lương-thời
buổi
ly-loạn trút tang thương thiếu-phụ
hóa
lưu-ly, ngàn giọt giọt lệ rơi.
Nơi
đất giặc, tri-kỷ đâu thù-tạc
hũ
rượu hâm, bỉnh-bút giữ hồn thơ
loài
cỏ dại, được mùa mau tươi tốt
vòng
tuần quay, hạn hán đón bơ-phờ.
Nơi
đất khách, giả đui tìm sinh-lộ [7]
biết:
“đạo bất đồng, bất tương vi mưu”
rượu
cạn đáy rót chén tràn tâm-tưởng
người
xưa sau chung cuộc một cựu thù.
Chén
rượu ấm tiêu sầu, sầu sầu miết
mảnh
trăng soi soi bến vắng Kỳ-La
chiếc
lá rơi rơi núi khuya Cao-Vọng
hơi
men tan, bóng mờ bóng trăng tà.
1- Cụ Hồ Nguyên Trừng bị giặc Minh bắt tại núi Cao Vọng (Hà Tĩnh) cùng với hàng chục ngàn dân Đại Ngu có tài, đưa về Tàu.
2- “Cô nguyệt huyền trung”. Nghĩa là: Trăng cô độc giữa trời). Lương-Giang tức tên cũ của sông Nhị-Hà thuở rất xa xưa.
3- “Nam Ông Mộng Lục”, viết về quá khứ hoàng kim của quê hương xứ Việt, nội dung ảnh hưởng “Trang Châu Mộng Hồ Điệp”. Nam Ông Mộng Lục, xuất bản tại Kim-Lăng bên Tàu.
4- Cụ Hồ Nguyên Trừng có tài đúc súng đạn.
5- Thành Đa-Bang là nơi chiến tích hiển hách đánh quân Minh thua tan tác của ông Hồ Nguyên Trừng.
6- “Túc Tâm Đạo” là sách thuốc của Hoa Đà thời Tam quốc. Trong sách có câu: “Thụ khô căn tiên kiệt, nhân lão cước tiên suy”. Nghĩa là: (Cây khô thì rễ khô trước, người già đôi chân suy yếu trước).
7- Phải luôn cảnh giác khi làm bạn với người Tàu - người hàng xóm to con nhưng bất lương. Không thể nhận họ là “anh em đồng chí”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét