Thư viện

11/5/25

UỐNG RƯỢU VỚI CỤ HỒ-NGUYÊN-TRỪNG

 



UỐNG RƯỢU VỚI CỤ HỒ-NGUYÊN-TRỪNG

        Sóng cuộn Kỳ-La, đau hồn nước
        Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà. [1]

Đêm chờ sáng quá-khứ sờ loạn nhịp
đầu chưa nguôi, dĩ-vãng nhắc Đại-Ngu
giọt sương nện ngụm ngụm trà lạc nhách
gió trời nam gió xoáy thổi vù vù.

Giờ thất trận nuốt giọt mưa cửa ải
ngước mặt lên đỉnh núi rớt màu tang
bầy em gái, tuổi cập kê cúi mặt
nụ hôn chưa duyên phận hối lỡ-làng.

Bóng mẹ đứng, xế tà ôm con nhỏ
dáng cha ngồi, quân giặc trói hai tay
đám ưng khuyển, tha hồ vơ-vét của
hàng binh đi, đi vào kiếp lưu-đày.

Kiến địa hiểm, hiểm nguy đành cố bước
ải khói mờ, ngoảnh mặt tạ quê hương
trời sẫm tối đường lưu-vong dịu vợi
thân thân trai ngả ngã ngựa chiến-trường.

Đất địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc
thấm lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô
nhập thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ
hậu nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ.

Đêm chờ sáng, du hồn lần cố-quận
cô nguyệt huyền, lọn sóng giục Lương-Giang [2]
quan gá-nghĩa, không khỏa đi nỗi nhục
công hầu dâng, chẳng lấp phận quy hàng.

Thiên-Nam-Mộng mơ màng cô Thái Diễm [3]
đất Hung-Nô, nữ sĩ gặp vận may
đất Hung-Nô, Tô-Vũ nhờ cánh nhạn
rơi cung thương, gánh một gánh lưu-đày.

Ngụ đất giặc, chẻ đầu chế ra súng [4]
quân thù vui, tự giết giết lẫn nhau
cơm từng hột, nhai như nhai sỏi đá
nước nuốt vô trong bụng nước đục ngầu.

Đa-Bang trận, quân Minh sợ tái mặt [5]
lực bất tòng, văng vẳng thần Kim-Quy
thiên-thời tận thiên-tài đành bó gối
chiến-trường tan vung vãi xác quân-kỳ.

Kẻ hậu bối, bước trùng vùng thất trận
theo tiền-nhân, vẽ bức họa lưu-vong
vẽ tội đồ, tội đồ làm mất nước
xin lỗi quê một cổ gánh đôi tròng.

Túc-Tâm-Đạo, ôm vòng xoay khắc-nghiệt [6]
gươm giáo tan, ôn cố thuở lương-thời
buổi ly-loạn trút tang thương thiếu-phụ
hóa lưu-ly, ngàn giọt giọt lệ rơi.

Nơi đất giặc, tri-kỷ đâu thù-tạc
hũ rượu hâm, bỉnh-bút giữ hồn thơ
loài cỏ dại, được mùa mau tươi tốt
vòng tuần quay, hạn hán đón bơ-phờ.

Nơi đất khách, giả đui tìm sinh-lộ [7]
biết: “đạo bất đồng, bất tương vi mưu”
rượu cạn đáy rót chén tràn tâm-tưởng
người xưa sau chung cuộc một cựu thù.

Chén rượu ấm tiêu sầu, sầu sầu miết
mảnh trăng soi soi bến vắng Kỳ-La
chiếc lá rơi rơi núi khuya Cao-Vọng
hơi men tan, bóng mờ bóng trăng tà.

Trang Y Hạ
Cước chú:
1- Cụ Hồ Nguyên Trừng bị giặc Minh bắt tại núi Cao Vọng (Hà Tĩnh) cùng với hàng chục ngàn dân Đại Ngu có tài, đưa về Tàu.
2- “Cô nguyệt huyền trung”. Nghĩa là: Trăng cô độc giữa trời). Lương-Giang tức tên cũ của sông Nhị-Hà thuở rất xa xưa.
3- “Nam Ông Mộng Lục”, viết về quá khứ hoàng kim của quê hương xứ Việt, nội dung ảnh hưởng “Trang Châu Mộng Hồ Điệp”. Nam Ông Mộng Lục, xuất bản tại Kim-Lăng bên Tàu.
4- Cụ Hồ Nguyên Trừng có tài đúc súng đạn.
5- Thành Đa-Bang là nơi chiến tích hiển hách đánh quân Minh thua tan tác của ông Hồ Nguyên Trừng.
6- “Túc Tâm Đạo” là sách thuốc của Hoa Đà thời Tam quốc. Trong sách có câu: “Thụ khô căn tiên kiệt, nhân lão cước tiên suy”. Nghĩa là: (Cây khô thì rễ khô trước, người già đôi chân suy yếu trước).
7- Phải luôn cảnh giác khi làm bạn với người Tàu - người hàng xóm to con nhưng bất lương. Không thể nhận họ là “anh em đồng chí”.

Trang Y Hạ




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét