DAKTO
- ĐÊM CUỐI CÙNG
*
Toán
công tác chúng tôi đang công tác tại xã Tri Lễ, trên tỉnh lộ 512 cách phi trường
Phượng Hoàng DakTo 2, chừng 3 cây số, thì được lệnh rút về xã Tri Tạo - gần Võ
Định.
Xin nói rõ: Từ KonTum theo QL 14 đến... Võ
Định - Tri Đạo - Kon Trang Lang Loi - Konhnong - Konhring - Diên Bình -
DakRao - Tân Cảnh. Đoạn đường dài khoảng bốn mươi sáu cây số. Từ Tân Cảnh đi tiếp
cũng theo QL 14 lên quận DakTo mười hai cây số.
Từ Tân Cảnh quẹo trái vào tỉnh lộ 512 - lên
dốc dựng đứng, ngang qua Trung Đoàn 42- Phi trường Phượng Hoàng hay còn gọi là
DakTo 2. Đi tiếp đến xã
Tri Lễ “xã Dinh Điền”- cầu DakMót vào tiền đồn Ben Hét hay còn gọi là: đồn Bạch
Hổ, khoảng hai mươi mốt cây số. Nơi đây là ngã ba biên giới "Việt- Miên-
Lào", gần đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường huyết mạch của Cộng quân.
Chúng
tôi về xã Tri Đạo thì đã có lực lượng pháo binh và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Dù lập
công sự phòng thủ tại cầu Tri Đạo rất kiên cố. Tri Đạo là một xã "Dinh Điền"
thành lập vào năm 1957, theo chính sách Dinh Điền của tổng thống Ngô Đình Diệm.
Dân số khoảng 3000 người đa phần ở Quảng
Tín, Quảng Nam và Bình Định gồm 3 Thôn; nhưng Thôn 3 Bình Định - một phần bỏ đi
nơi khác từ năm 1965 do cộng quân tấn công DakTo, chiếm Tri Đạo cắt đứt QL 14
trong thời gian gần hai tháng. Chúng tôi cùng với ông Xã Trưởng. Đơn vị Nghĩa
Quân, Nhân Dân Tự Vệ cùng người dân trong xã canh giữ, đề phòng cộng quân ban
đêm xâm nhập vào xã quấy phá…Hơn hết là dựa vào sự yễm trợ của đơn vị lính Dù.
Không khí chiến tranh bao trùm rừng núi, tiếng gầm thét của pháo binh của máy
bay suốt ngày đêm...
Tết âm lịch cổ truyền đến! Người dân trong
xã vẫn đón tết trong không khí tưng bừng! Bánh trái...vui chơi như: Muá lân,
bài chòi, văn nghệ cây nhà lá vườn trong ba ngày xuân...! Tổ chức “Cây Mùa Xuân
Chiến Sĩ!”, xã mua một con bò, còn người dân ai có gì góp nấy: Bánh tét, bánh
ú, mứt, trà, thuốc, rượu…gồm hai bao tạ vắt lên hai bên hông con bò!
Chuẩn bị đi chúc tết!
Ông xã trưởng
và các vị thân hào, chức sắc mặc áo dài khăn đóng cùng chúng tôi, dẫn con bò chở
hai bao qùa bánh ra bộ chỉ huy Lữ Đoàn Dù “ Mừng Xuân ”! Thề hiện tình quân- dân…
Đời lính xa nhà! Nhìn món quà xuân... ngồ ngộ! Sau những cái bắt tay, đôi mắt
các anh người nào cũng đỏ hoe!
Tình hình chiến sự càng ngày càng xấu, khi
căn cứ "Charlie" sau một thời gian cầm cự…Ngày 14.4.1972 đã thất thủ!
Tin anh " Nguyễn đình Bảo" cùng những người lính Dù
tử trận! Mọi người ai cũng buồn, lo lắng và có ý định di chuyển về KonTum. Tin
từ DakTo và Tân Cảnh bị cộng quân pháo kích, nỗi lo sợ càng tăng thêm vì người
ta quá biết - chỉ có một con đường QL 14 độc đạo nếu bị chặn thì chịu chết!
**
Chiều
ngày 24.4.1972. Lúc 4 giờ, tôi có mặt tại nhà. Cha tôi nói:
- Tụi nó pháo kích vào Trung Đoàn 42 mấy
ngày nay, còn sáng nay cha ra sau vườn thấy một toán lính nó bảo:
- Cụ vào nhà đi, đêm nay và ngày mai đừng
ra ngoài !
Cha không nhận biết lính của ai? Hay mấy
chú Nghĩa Quân đi gài mìn cũng không biết nữa!
Cha tôi đem hai xị rượu thuốc bày ra
trên nền sân tráng ciment.
Cha tôi nói:
- Uống chút với cha, nửa năm nay con mới về
nhà. Nhớ, đêm nay con xuống Đồn mà ngủ, đừng ở nhà. Cha linh cảm sẽ có chuyện
chẳng lành...!
Khi uống xong ly rượu cuối cùng. Tôi và
cha tôi đếm đi đếm lại cây bông hồng trước sân - Cây bông hồng nở vừa đúng 24
cái !
Bảy giờ tối, tôi có mặt tại đồn nghĩa quân
bên dòng sông Dakpsi hiền hòa vì mùa khô nước cạn. Tôi gặp lại những người bạn
đi phép về thăm gia đình, đến tối thường ra đồn ngủ cho an toàn, nếu có chiến sự
thì chiến đấu luôn thể.
Đạn pháo từ Tân Cảnh dội về nghe rất rõ.
Trung Đòan 42 - Tân Cảnh bị cộng quân tấn công ánh lửa sáng rực một góc trời.Tất
cả mọi người đều yên lặng để theo dõi tin tức qua máy truyền tin "PRC
25"
-Người âm thoại viên nói:
-Em không liên lạc với chi khu DakTo!”
Thiếu tá Lò văn Bảo, quận trưởng quận
DakTo. Người anh hùng của chi khu - tiền đồn heo hút giờ nầy ra sao? Tôi thật sự
lo lắng! Với tôi, Thiếu Tá Bảo - ngoài một số công tác, còn có một chút kỷ niệm
về ông.
Đêm nay, trong
cái đồn nghĩa quân nhỏ bé bên dòng sông nầy hầu như không một ai nói đến chuyện
đi ngủ...
Càng
về sáng tiếng nổ càng ít dần và các đám cháy vẫn còn nghi ngút khói... Nhưng có
một điều chúng tôi không hiểu là tại sao không có chiếc máy bay B 52 nào đến bỏ
bom? Cũng không có máy bay phản lực nào bay đến oanh kích…? Hình như có vài
chuyến bay - bay vòng vòng thị sát rồi cũng mất hút!
Chín giờ sáng ngày hai mươi lăm chúng tôi
vẫn còn ở trong đồn, chưa dám về nhà, bởi không thấy ai từ Tân Cảnh chạy về báo
tin sống, chết như thế nào. Thì có một bà mẹ già đến báo:
-Cộng quân chặng đường ngay đầu thôn 1 -
không thể đi xuống làng Konhring được nữa!
***
Lực lượng mở đường gồm có: 1 Trung đội nghĩa
quân; 10 CB/XDNT; 20 NDTV Ấp; Lính về phép 10 người. Vũ khí gồm có: Súng cá
nhân M 16, Carbine, 2 cây
trung liên và 2 cây súng phóng lựu M 19 và lưu đạn.
Vì dân địa phương nên rành địa hình, chúng
tôi cho người mò về thám thính và được biết phiá sau vườn chuối gần xóm nhà tôi
chạy dài ra sông Dakpsi, cộng quân bố trí nhiều súng phòng không và những cột
truyền tin, đào hầm hố có vẻ bám giữ lâu dài. Về quân số có thề cấp Tiểu, hoặc
Trung Đoàn. Chúng giữ dân trong nhà bắt xuống hầm trú ẩn nên chúng tôi dành chịu.
Tuy nhiên chúng tôi cũng tổ chức tiến công
áp sát và khiêu chiến đến 2 giờ chiều nhưng không hiệu qủa. Chúng tôi rút về
sân vận động gần giữa thôn1, xã Diên Bình nghỉ ngơi! Chúng tôi có 3 người bị
thương nhẹ.
****
3 giờ chiều 25.4.1975. Anh em chúng tôi thấy
một toán lính Trung Đoàn 42 đi xuống. Người đi dầu đến sân vận động gặp chúng
tôi.
Người thiếu tá nói:
-Trung Đoàn 42, thất thủ trong đêm hôm qua
số anh em thoát ra được phải về KonTum gấp. “họ” sẽ đuổi theo chúng tôi.
- Phải về KonTum gấp, các anh đi theo
không?
Tôi nói:
- Cộng quân chặn đường, chúng tôi cố mở từ
sáng đến giờ nhưng không được.
Người thiếu tá nói:
- Tôi đi đường vòng!
Địa hình Thôn
1, Diên Bình - lưng dựa dòng sông DakpSi, trước mặt là đồng ruộng mênh mông chen
lẫn những gò mối và đồi cỏ thấp. Chạy thẳng đến chân của ngọn núi - thường gọi
là đỉnh cao “ngàn lẻ một” trong bản đồ hành quân. Do đó chúng tôi và lính còn lại
củaTrung Đoàn 42 băng ruộng đi bọc xuống làng Konhơring.
Tôi ước tính, lính trung đoàn còn lại chừng
200 người. Súng cá nhân còn đủ, 3 xe bọc thép M 113 chở người bị thương. Trên
nét mặt mọi người không hốt hoảng, nhưng đăm chiêu, không ai nói với ai lời
nào. Tôi theo họ xuống làng Konh'ring -Từ Diên Binh xuống Konhring 3 cây số.
Những người lính lầm lủi đi vào rừng…tôi nhìn theo đoàn quân bị “bức tử” mà
nghe trong lòng đau nhói! Sau này tôi được biết toán quân về KonTum bằng an!
Tôi đi vào làng Konhring lúc nầy đã hơn 4
giờ chiều nhưng bầu trời còn sáng tỏ. Sở dĩ tôi không theo họ vì tôi nán lại chờ
tin tức người thân
*****
5 giờ chiều. Tôi vẫn đứng như trời trồng tại
ngã ba Konhring, trong lòng ngổn ngang trăm mối, nếu đêm nay trở về chỗ cũ thế
nào cũng bị bắt, còn không thì sáng mai buộc phải về KonTum. Bỗng dưng như một
phép lạ! Đoàn người dân từ Tân Cảnh, Diên Bình, DakRao…ào ào kéo xuống. Người
khỏe cõng người bị thương, phụ nữ bồng bế con thơ, người già tựa vào người trẻ -
lê lết, thất thểu đi trong nắng chiều! Trong đó có Cha Carat - Linh Mục thừa
sai Paris - cha chánh xứ họ đạo Diên Bình và một ít lính Trung Đoàn 42.
Tôi gặp đứa em gái thứ sáu trong đám người
đó. Nó còn quá nhỏ không biết gì hơn ngòai những giọt nước mắt tuôn rơi!
Làng Konhring nhỏ xíu, số người di tản
quá đông...,ngưòi ta nằm la liệt ngoài đường, trong nhà thờ, trong bệnh viện do
các nữ tu quản lý. Họ cứu chữa những người bị thương, lo ăn uống. Tiếng kêu
khóc tìm cha mẹ, vợ chồng, anh em, con nít lạc nhau trong lúc chạy hoặc còn kẹt
ở lại ở nhà...!
Đoàn người tiếp tục chạy xuống,
đến 8 giờ chấm dứt. Nỗi lo lắng là đêm nay cộng quân
có pháo kích hoặc đến bắt dân đi vào rừng?
Trung Đoàn 42 chịu trách nhiệm bảo vệ an
ninh nay đã tan rã! Không còn ai nữa để bảo vệ! Người dân như rắn mất đầu không
biết trông cậy vào đâu! Tuy vậy, họ vẫn bất chấp nguy hiểm, tánh mạng, bằng mọi
cách chạy về vùng Quốc Gia.
Họ
chỉ còn lời cầu nguyện mà thôi!
Mười giờ đêm. Hàng loạt tiếng nổ và ánh lửa
lóe sáng hướng Tân Cảnh và sông Dakpsi, dội về làng Konh'ring đinh tai điếc óc!
Tiếng dội của bom chấn động dù hai tay bịt cứng lỗ tai, mọi người điếng hồn, hoảng
loạn. Tiếng kêu khóc vội vã chạy ra khỏi nhà thờ, bệnh viện!
Sau 10 phút trôi qua mọi người ngơ ngơ, ngẩn
ngẩn tìm nhau như những hồn ma quờ quạng trở về dương thế!
Tôi và những người lính thì không lạ gì tiếng
bom B52. Do đó không ngạc nhiên.
Nhưng ngạc nhiên là: Tại sao mấy đêm trước
không thấy B 52 thả bom cứu Trung Đoàn 42...???
******
Konhring – 5giờ sáng ngày 26.4.1972. Dân
chúng vội vã chuẩn bị lên đường về thị xã KonTum. Cha xứ Carat người Pháp – chánh
xứ Diên Bình dẫn đầu “con chiên” ngang nhiên đi trên QL 14. Khi đi vừa đền khúc
quẹo làng Konhnong, Cộng quân đã chốt chặn ở đó để đón lỏng - Làng Konhnong
cách Konhơring 9 cây số - cha Carat bị bắt! Dân chúng nhất là các chị và các bà
xúm nhau khóc lóc năn nỉ…
-Xin các ông “giải Phóng” đừng có bắt ông
Cha của chúng tôi!
nhưng cộng quân không chịu và còn giữ luôn
những người này vì tội chạy theo “Mỹ Ngụy”!
Tốp đi sau nghe tin dữ - vội vã tháo chạy
ngược về Konhring thông báo cho những tốp đi sau biết:
-Cộng quân chặn đường ở làng Konhnong,
không cho dân chạy xuống xã Tri Đạo về KonTum!
Như vậy:
Trước sau đều thọ địch!
Không oan gia nhưng lại gặp ngõ hẹp…! Nghe
tin sét đánh tôi bàng hoàng - như vậy chỉ còn một cách là băng rừng...
Tám giờ sáng. Đoàn người kéo nhau vào rừng.
Tôi
nấn ná lại chờ xem có ai xuống để hỏi thăm tin tức gia đình. Chín giờ sáng dân
chúng còn ùa xuống trong số đó có mẹ các em gái và một cháu gái sáu tháng tuổi.
Hai mẹ con từ xa về thăm bị kẹt lại.
Cha tôi bị Cộng quân bắt đi vô rừng - Sau
này có người cho biết ông trốn về tìm vợ con và bị bắn hoặc vướng mìn chết ngay
trên đám đất của ông.
Người con đỡ đầu của cha tôi chôn cha tôi
và anh cũng bị bắt làm tù binh. Sau 1975 anh đi cải tạo. Gia đình hiện định cư
tại Hoa kỳ .Từ Konhring xuống Tri Đạo tính theo đường bộ khoảng 30 cây số,
nhưng đi đường rừng thì vô cùng nguy hiểm…đối với người dân thường!
Tôi đi vào rừng sau cùng nên không theo kịp
đoàn người dân đi trước rẽ hướng nào? Nhóm còn lại theo tôi có: 2 Sĩ quan Trung
Đoàn 42, vài ba gia đình người Thượng, một số ít người Kinh và gia đình tôi có
6 người - Tổng số có 31 người.
Không có bản đồ và la bàn, cũng may tôi là
người đã sống và công tác ở vùng này nhiều năm, am hiểu địa hình. Tôi không dám
đi đường mòn - đường mòn là lối đi của cộng quân dễ bị chặn bắt. Tôi nhắm hướng
Căn cứ "charlie" đi vào, nhằm tránh chốt chặng ở làng Konhnong.
Tôi dặn mọi người im lặng và không cho con
nít khóc. Trên đường chúng tôi thấy rất nhiều giây điện thoại kéo trên mặt đất
và những dấu chỉ dẫn đường trên các thân cây, không biết của ai. Sáu giờ chiều
chúng tôi dừng chân trong cánh rừng rậm nghỉ ngơi qua đêm.
Ai có đem theo thực phẩm thì chia nhau ăn
- tuyệt đối giữ im lặng. Cũng may là trẻ con không khóc, có lẽ vì sợ và mệt nên
bọn chúng ngủ li bì.
Khoảng 12 giờ đêm chúng tôi nghe rất nhiều
tiếng nói vọng lại - toàn giọng bắc, giọng nói nghe còn rất trẻ. Tôi thì thầm
ra lệnh với mọi người tuyệt đối im lặng. Đến
1 giờ sáng máy bay B52 bất ngờ đến bỏ bom từng đợt…từng đợt…gần một giờ!
Hôm nay là ngày 27.4.1972. Trời vừa hừng
sáng, chúng tôi không nghe những giọng nói tiếng bắc vọng về… tôi đóan sau trận
bỏ bom đêm hôm qua họ đã chuyển đi nơi khác chăng?
Nhưng khi chúng tôi di chuyển vào khu rừng rậm, âm u không thấy ánh nắng, dưới chân nhiều dây điện thoại. Bất ngờ một ngưới lính Bắc Việt rất trẻ chừng mười bốn hay mười lăm tuổi, mang khẩu súng AK có vẻ ngang tầm người anh ta. Chặn chúng tôi lại.
-bà con theo tôi trở về nhà, đừng chạy nữa.
Tôi chỉ hướng cho bà con về.
Chúng tôi, đa phần các cô, các bà xúm
quanh anh ta mỗi người nói một câu - Chúng
tôi đi lạc muốn trở về nhà và tự đi được. Tự dưng đám con nít khóc thét lên làm
anh ta bối rối… khoát tay bảo chúng tôi đi nhanh lên, máy bay đến bỏ bom chết tất.
Hình như anh ta có nhiệm vụ gì rất gấp
nên khi bỏ chúng tôi anh ta lẫn vào rừng một cách vội vàng. Và, chúng tôi cũng
cắm cổ mà chạy.
Khi chạy đã khá xa cảm thấy an toàn chúng
tôi dừng lại ngồi nghỉ. Nhiệm vụ của tôi bây giờ là định hướng lại để tìm đường
ra xã Tri Đạo. Nếu ngày hôm nay không thoát coi như sẽ chết đói - tội nghiệp cho
những đứa bé; có đứa chỉ mới sáu tháng tuổi.
Tôi nói với hai người Sĩ quan là chúng ta
đi về hướng tay trái - cũng mở đường mới mà đi. Chúng tôi thay phiên nhau vén
cành cây, không gây tiếng động, đạp cỏ; loài cỏ ba khía bén ngọt cắt nát chân
tay mặt mày chúng tôi, cọng với mồ hôi túa ra xót ngứa đau đớn vô cùng khó chịu.
Tội cho hai vị sĩ quan ở miền xuôi đổi lên cao nguyên tăng cường chiến đấu chưa
kịp bao lâu. Nay gặp hoàn cảnh này! Bản thân đói khác nhưng còn phải phụ giúp
những nguời phụ nữ và con thơ qua đèo vượt suối…
Đến khoảng 11 giờ, tôi leo lên cây và nhìn
về phía trái. Thì ra đã đến QL 14 - cầu Tri Đạo hiện ra! Không nghĩ ngợi gì cả.
Chúng bồng bế nhau chạy ra đường ,chạy vượt qua cầu. Trên mặt đường loang lỗ những
vết đạn pháo.
Trời mùa hạ buổi trưa nắng nung đường nhựa
bốc khói…vậy mà chúng tôi: Chân không dép; đầu không nón; áo quần tả tơi, đói
khác hai ngày hai đêm trong rừng…Cứ cắm đầu chạy như ma đuổi về vùng tự do!
Ban
Tiếp Cư - đón tiếp người từ DakTo chạy xuống và tất cả được đưa lên xe về thị
xã KonTum! Trường Tiểu Học Phan Chu Trinh Kontum là nơi ở tạm cho những người tạm
cư. Gặp lại người quen hoặc không quen cũng mừng mừng tủi tủi nước mắt lưng
tròng hỏi thăm tin tức người thân còn kẹt lại.
Những người đàn ông, mỗi sáng, mỗi chiều
chạy lên trước cổng Sư Đoàn 22 để ngong ngóng người thân…và trở về với những
cái lắc đầu trầm ngâm - nếu có một ai đó đến hỏi:
-Có thấy và biết tin tức gì về người thân không?
*******
Sau đoàn người chúng tôi, không còn một ai
xuống được, tất cả đều bị bắt lùa vô rừng. Dakto hoàn toàn thuộc về những người
cộng quân Miền Bắc kiểm soát!
Tôi thương nhớ DakTo - thương nhớ Tân Cảnh
- Konhring - thưong nhớ Diên Bình - nơi
một phần tuổi thơ tôi ở đó ! Em gái tôi chết lúc ba tuổi cũng ở đó ! Và, cha tôi
chết cũng ở đó ! Những người bạn chiến đấu của tôi cũng chết ở đó - nước mắt tôi
tự dưng chảy dài !
Trang
Y Hạ
một
thời để nhớ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét