Mối Tình Lục Du
- Đường Uyển
Trang Y Hạ
Thi sĩ Lục Du (陸游,
1125-1209) tự là Vụ Quan (務観),
hiệu Phóng Ông (放翁),
người Sơn Âm, Việt Châu (nay là: Nhạn Môn Đạo, Sơn Tây), Dưới thời Nam Tống ông
có ra làm quan - Tri Châu, Tri Phủ và quan Quốc Sử Biên Tu... Lục Du là một thi
nhân có tấm lòng yêu nước, với thơ - ông đã để lại cho đời hơn: mười bốn nghìn
bài thơ. Ông đã sống qua thời kỳ hai triều đại Tống Kim, Ông có tập “Kiếm Nam
Từ Chuyên tập”, hiện còn lưu giữ.
Thời trai trẻ
khoảng tuổi hai mươi, ông có một tình yêu rất là thắm thiết với cô em gái họ - con
của ông cậu ruột [người Hoa, anh em con cô, con cậu được phép lấy nhau]. Tên cô
em họ là: Đường Uyển (唐婉),
Đường Uyển chẳng những đẹp người, đẹp nết, mà còn am hiểu thi nhạc... Sau khi
cưới nhau, hai vợ chồng sống chung đầm ấm, hạnh phúc một thời gian... Nhưng
sóng gió lại nổi lên... Nguyên do bắt nguồn từ bà mẹ ruột của Lục Du - bà mẹ của
Lục Du vốn đã không thích cô cháu ruột Đường Uyển, bởi vì miễn cưỡng chấp nhận
cuộc hôn nhân lúc trước, nên bấy giờ bà mới trở mặt, tỏ rõ thái độ phản kháng...
Bà đã đối xử rất cay nghiệt, tàn tệ với người "con dâu" và cũng là
đứa cháu gái kêu bà bằng cô ruột. Bà đày đọa con dâu cả thể xác lẫn tinh
thần... Cuối cùng bà bức ép Lục Du - Đường Uyển phải ly hôn, đồng thời cấm cản
không cho phép vợ chồng Lục Du - Đường Uyển gặp mặt nhau dưới mọi hình thức... Trước
sức ép tàn nhẫn, vô lý, của người mẹ, Lục Du chỉ im lặng mà không dám phản
kháng, đành phải cúi đầu khuất phục gạt nước mắt chia tay người vợ yêu quý. Mấy
năm sau Đường Uyển lấy chồng và Lục Du cũng lấy vợ.
Người chồng thứ hai của Đường Uyển là một người có học thức, có kiến văn quảng bác, có một tấm lòng độ lượng, vị tha... Ông hiểu rõ nghịch cảnh đau khổ của vợ chồng Luc Du - Đường Uyển...! Ông đã tới với Đường Uyển bằng một tình yêu chân thành và tôn trọng quá khứ đầy nước mắt của hai người họ. Ông cũng thấu hiểu tình vợ chồng của họ còn rất sâu đậm không dễ gì ngày một ngày hai mà quên đi cho được. Trong thâm tâm ông cũng từng có ý nghĩ: "Sau nầy mọi chuyện đã nguôi ngoai, nều có dịp thuận tiện sẽ âm thầm tạo điều kiện cho họ gặp nhau...". Thế nhưng, chiến tranh, và công việc phải di chuyển rày đây mai đó nên chưa có thể thực hiện.
Người chồng thứ hai của Đường Uyển là một người có học thức, có kiến văn quảng bác, có một tấm lòng độ lượng, vị tha... Ông hiểu rõ nghịch cảnh đau khổ của vợ chồng Luc Du - Đường Uyển...! Ông đã tới với Đường Uyển bằng một tình yêu chân thành và tôn trọng quá khứ đầy nước mắt của hai người họ. Ông cũng thấu hiểu tình vợ chồng của họ còn rất sâu đậm không dễ gì ngày một ngày hai mà quên đi cho được. Trong thâm tâm ông cũng từng có ý nghĩ: "Sau nầy mọi chuyện đã nguôi ngoai, nều có dịp thuận tiện sẽ âm thầm tạo điều kiện cho họ gặp nhau...". Thế nhưng, chiến tranh, và công việc phải di chuyển rày đây mai đó nên chưa có thể thực hiện.
oOo
Thẩm Viên (沈園) - theo Lục Du miêu tả trong thơ,
thì có thể hiểu đó là một khu vườn thiên nhiên rộng rãi: có rừng, có sông suối,
có ao hồ sen nở, có nhà thủy tạ, có tửu gia, có quán trọ, có những cây cầu bắc
qua sông, qua suối, có đủ các loài kỳ hoa dị thảo, chim muông... Một khu vườn cây
trái sum suê đầy thơ mộng; một nơi hò hẹn tới lui của giai nhân tài tử; của tao
nhân mặc khách bốn phương trong đó có Lục Du - Đường Uyển thường hay lui tới để
rồi quen nhau, yêu nhau.
Hơn mười năm ly
hôn, nay Đường Uyển cùng chồng trở lại quê cũ, tiện đường đi ngang qua Thẩm
Viên và dừng chân ở lại nghỉ ngơi, đồng thời cũng tiện thể ngoạn cảnh vài ba
ngày... Người chồng của Đường Uyển đã "dò la..." và được biết Lục Du
thỉnh thoảng vẫn tới thăm Thẳm Viên, [có lẽ như để ôn lại kỷ niệm tình yêu đầy đau
khổ của ông...]. Và người chồng của Đường Uyển với tấm lòng cao thượng đã âm thầm
sắp xếp cho vợ mình là - Đường Uyển giáp mặt Lục Du như một sự tình cờ... Dù
sao hai người họ bây giờ ai cũng đã có duyên, có phận, gặp mặt chẳng qua hỏi
thăm nhau đôi ba câu...
Tình cờ mà
gặp lại nhau
Bậu đeo
chiếc bóng nhuốm màu thời gian
Còn ta một
gã lang thang
Cùng trời
cuối đất mang mang cuộc tình.
thơ Trang Y
Hạ
Người ta nói
"thời gian là liều thuốc" sẽ quên đi, hay vơi đi những chuyện đau
buồn... Thực tế có thể đúng phần nào...
Nhưng với Lục Du - Đường Uyển, dù có là trăm năm đi nữa thì chưa chắc đã quên,
ngược lại trong thời gian mười năm đó ngọn lửa tình yêu, tình vợ chồng càng
thêm nung nấu như một Hỏa Diệm Sơn chực chờ bùng cháy không thể nào dập tắt
nổi, cho dù hiện nay hai người đã lập gia đình mới... Đúng vậy! Việc hai người
gặp lại nhau lần nầy, dù vô tình hay hữu ý - đã giết chết cuộc đời của họ thêm
một lần nữa, bởi mười năm trôi qua tưởng là đã nguôi ngoai, thảng hoặc có khi
trong tâm tưởng hai người còn nuôi một chút hy vọng mơ hồ viễn vông... Nào ngờ,
lần gặp lại là một thảm họa - một thảm họa còn kinh hoàng khủng khiếp hơn lúc
hai người bị ép buộc phải ly hôn. Thẩm Viên (沈園)
nơi "khai sinh" một cuộc tình lớn của Lục Du - Đường Uyển, nhưng cũng
là mồ chôn cuộc tình đó trong nước mắt - tuyệt vọng, đau khổ!
Trở lại quê nhà
sau lần "giáp mặt". Đường Uyển tựa như một hình nhân biết đi, nàng trầm
cảm, ít nói, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn trông giống kẻ mộng du... Tia hy vọng ấp ủ được
gặp lại người chồng cũ đã thành hiện thực, nhưng không bùng cháy dữ dội vì nàng
đã có chồng... Hơn mười năm qua Đường Uyển không bị "ái ân lạc lẽo...",
mà ngược lại Đường Uyển sống "hạnh phúc"... Đường Uyển đã không
"giấu trong tim một bóng người". Bởi trước kia nàng đã có chồng và bị
"bức tử ly hôn", điều đó người chồng sau hiểu rất rõ... Đau đớn thay
cho một kiếp hồng nhan bạc phận, hãy thương xót, thông cảm tha thứ cho Đường
Uyển, bởi nàng - [đã có trong tim một bóng... chồng] - đó là thi sĩ Lục Du. Chính
ngọn lửa cháy ngầm trong tâm can nàng bao năm qua cho tới lúc gặp gỡ... đã
thiêu rụi cuộc đời nàng. Một năm sau, sau ngày "trùng phùng định mệnh".
Đường Uyển nhuốm bịnh và ra đi vĩnh viễn không một lời từ biệt, nàng mang theo
nỗi thương nhớ cuộc hôn nhân tan vỡ lẫn uất hận thấu tận trời xanh mà lẽ ra
không hề ngang trái. Nàng để lại dương gian hai "người chồng"; để lại
cho đời một tình sử không hề phai.
Về phần Lục Du
sự đau khổ cũng không thua gì người vợ cũ Đường Uyển. Ông viết nhanh lên vách
một bài thơ đầy phẩn hận, bi thương - đó là bài: “Thoa Đầu Phượng” [釵頭鳳]. Lục Du cũng không ngờ rằng cuộc
"tương phùng" lần này là một tai họa giáng xuống cho Đường Uyển cũng
như cho chính bản thân ông. Thời gian mười năm xa cách, tường rằng có thể nguôi
ngoai..., nào ngờ khi hay tin Đường Uyển chết ông mới ngộ ra câu chuyện - "Từ Thứ không đầu Tào thì người mẹ của
Từ Thứ sẽ không chết". Hiểu theo nghĩa nào cũng được... Đường Uyển mất
đi, Lục Du cũng không hiện hữu trên cõi đời dù ông còn đang sống sờ sờ... Sự
dằn vật trong ân hận, lẫn nhớ thương người vợ cũ đã biến đổi con người Lục Du.
Ông dồn hết tang thương vô trong thơ, cũng như lòng yêu nước - đánh quân Kim
[Bộ Tộc Nữ Chân] mà ông đã hết lòng theo đuổi từ trước. Sự đau khổ nhớ thương
Đường Uyển cũng có lúc quật ngã ông - ông uống rượu, đi đứng ngông nghênh...,
sống phóng túng gần như bất cần đời, và thăng trầm nổi trôi nơi chốn quan
trường...
oOo
Tuổi đời chồng
chất lên thân thể Lục Du ở mốc tuổi - bảy mươi lăm, tuy thân thể già nua nhưng
tình yêu dành cho Đường Uyển - người vợ cũ yêu quý không hề phai nhạt. Ông lại tìm
về Thẩm Viên (沈園).
Thẩm Viên giờ nầy đối với ông như là một phế tích hoang tàn, tiêu sơ... Ngồi
nơi đài cao Quán Viên, hay đứng trên cây cầu nhìn dòng nước trôi qua mà tưởng
như hình dáng người vợ cũ Đường Uyển còn in đưới đáy sông phản ảnh làm cho ông
thấy lại những hẹn hò, những kỷ niệm tình yêu của một thời dĩ vãng. Ông làm hai
bài thơ Thẩm Viên (沈園)
Kỳ 1 và Thẩm Viên (沈園)
Kỳ 2 diễn tả tất cả hoài niệm cuộc tình, cùng nuối tiếc nhớ thương của ông với
Đường Uyển...
Nước mắt thi sĩ
đã cạn nguồn từ lâu, chỉ còn lại là: ngân ngấn giọt sầu viền quanh nơi hốc
mắt...! Hãy đọc thơ của thi sĩ Lục Du.
Thẩm
Viên [Kỳ 1]
Thành thượng tà dương hoạ giốc ai,
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.
Vườn Thẩm [Bài1]
Chiều nghiêng thành cổ tiếng
tù vang
Vườn Thẩm đài ao dáng cũ càng
Đau lòng ngắm sóng xuân xanh vỗ
Bóng nàng đáy nước mãi chưa tan.
Trang Y Hạ - Dịch thơ
Thẩm
Viên [Kỳ 2]
Mộng đoạn hương tiêu tứ thập
niên,
Thẩm viên liễu lão bất xuy miên.
Thử thân hành tác kê sơn thổ,
Do điếu di tung nhất huyễn nhiên
Thẩm viên liễu lão bất xuy miên.
Thử thân hành tác kê sơn thổ,
Do điếu di tung nhất huyễn nhiên
Vườn Thẩm [Bài 2]
Hương tàn mộng rớt bốn mươi
niên
Vườn Thẩm liễu già sạch nợ duyên
Thân này ví phỏng thành tro đất
Vẫn nhớ người xưa ngấn lệ viền
Trang Y Hạ - Dịch thơ
Một cuộc tình bất
hủ của thi nhân Lục Du với cô Đường Uyển đã ghi vô tình sử thơ ca. Tôi đọc thơ
Luc Du; tôi mê thơ của ông; tôi cảm phục cuộc tình đầy chông gai trắc trở của
ông; cuộc tình duyên Lục Du - Đường Uyển mãi mãi lưu truyền... Xin phép thi
nhân cho tôi dịch thơ và giới thiệu hai bài "Thẩm Viên",
Trang
Y Hạ
San Francisco, Mùa xuân 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét