Nhớ
Cái Hiên Nhà
Trang
Y Hạ
Dòng
họ tôi bao đời nay chung thủy ở một vùng quê nghèo mà
trong thơ văn người ta thường hay ví von là: "đồng
chua nước mặn"! Chỉ nghe tiếng Miền Trung là biết
nơi ấy mỗi năm cõng trên lưng ít nhất cũng... mươi cơn
bão, còn hạn "bà chằng" với gió lào thì không
bao giờ thiếu. Có lẽ miền đất khắc nghiệt bởi thời
tiết như vậy đã hun đúc nên những con người có một
sức chịu đựng để đối đầu với thiên tai dịch họa,
kể cả nhân họa!
Nhà
cha mẹ tôi ở là nhà tranh vách đất như bao căn nhà hàng
xóm ở chung quanh, nhưng nhà tôi có cái hàng hiên hơi
rộng... Từ mặt sân bước lên một cấp là đến hiên,
mặt hiên và mặt nền nhà bằng
nhau được phân biệt bởi một cái
ngạch
của bằng gỗ, cái ngạch cửa cách mặt nền nhà khoảng
hơn một tấc tây, mỗi khi bước vào nhà phải để ý,
nếu không sẽ bị vấp ngã lăn kềnh là chuyện thường
xảy
ra. Nhà tôi cất theo kiểu chữ L. Từ ngoài đường làng
đi quanh co chừng năm chục thước dưới những hàng cau
là thấy rõ nhất mấy cây cột hàng ba của nhà bếp,
bước vào trong
sân
nhìn qua bên tay trái là nhà chính. Nhà chính xây mặt ra
vườn thơm trồng xen trong những bụi chuối. Hiên nhà bếp
hẹp hơn nhà trên, ở đó cha tôi để một cái cối xay
lúa với cái cần xay bằng gỗ lúc nào cũng treo lủng
lẳng, hiên nhà bếp có lối đi thông thương với hiên
nhà trên. Con chó vệnh nhà tôi thường hay nằm ngủ dưới
gầm cối xay, cuộc đời nó với hàng hiên có thể coi
như là một. Nó có nhiệm vụ giữ nhà ban ngày lẫn ban
đêm cộng thêm công việc đuổi gà mỗi khi mẹ tôi phơi
lúa. Hiên nhà trên khá rộng, có treo mấy tấm sáo để
khi có mưa xiên hay nắng hắt vào thì kéo xuống che chắn.
Trong hiên cha tôi mắc một cái võng bện bằng dây mây và
một bộ bàn ghế. Trên bàn lúc nào cũng có một cái bình
tích để chế nước sôi pha trà, một cái khay và bốn
cái ly úp trên đó.
Mùa
lúa chín - gặt đem về đều chất ở hàng hiên, chỉ đem
vô nhà đựng trong bồ sau khi đã phơi khô và giê cho sạch
lúa lép. Còn các loại hoa màu khác để ở ngoài hiên
quanh năm. Mẹ tôi cũng quanh năm ở nhà lo công việc nhà,
suốt đời mẹ chỉ loanh quanh từ cái bếp rồi ra tới
cái hiên - đoạn đường ấy tuy ngắn ngủi nhưng suốt
cuộc đời mẹ tôi đi không bao giờ hết! Ngày còn bé đi
học ở trường làng, mỗi khi tan trường tôi hấp tấp
chạy nhanh về nhà, chào mẹ xong quăng cái cặp vở dưới
hiên là hỏi liến thoắng:
-
Có gì ăn không mẹ? Con đói bụng lắm rồi!
Mẹ
tôi biết tôi xấu tính đói nên chuẩn bị chút thức ăn
mỗi khi tôi đi học về. Bữa nào không có thì tôi sụ
mặt, cằn nhằn... Những lúc ấy mẹ thường chọc:
"Học
trò đi học đà về,
Cơm
canh chưa chín lại trề miệng ra"!
Nói
thì nói vậy, nhưng mẹ tôi
lúc
nào giấu chút bánh hay cây kẹo cho tôi ăn đỡ đói chờ
cơm canh chín. Nhưng hôm nay mẹ nói:
-
Con không thấy mẹ đang đảo lúa sao? Vào trong bếp tự
lấy mà ăn.
Bưng
đĩa bánh bèo ngồi ăn bên thềm... Tôi chợt nhìn xuống
đôi chân trần của mẹ vừa đi vừa cày đảo từng hàng
chung quanh cái sân rộng đầy lúa dưới trời nắng gay
gắt... Mồ hôi trên lưng mẹ ướt đẫm, chiếc nón lá
đã cời không đem lại chút mát nào cho mẹ. Tự nhiên
trong lòng tôi có một luồng nhiệt, như thúc giục, như
ân hận... Tính tự ái của con trai hay tính nam nhi bừng
dậy. Tôi bỏ đĩa bánh xuống thềm chạy ra sân nói:
-
Mẹ vào nghỉ đi, để con mần cho!
Mẹ
ngồi xuống bên thềm đuổi ruồi bâu trên đĩa bánh của
tôi. Chỉ một loáng là tôi đảo xong sân lúa, trong lòng
tôi thanh thản, tự hào! Kể từ hôm đó mỗi khi đi học
về quăng tập là làm phụ mẹ những việc lặt
vặt... Có lần tôi nghe mẹ khoe với bà bạn:
-
"Con trai tôi còn nhỏ nhưng siêng lắm, đi học về
phụ giúp tôi việc nhiều...".
Buổi
sáng cha tôi dậy sớm, ông tự nấu nước sôi châm trà
uống và hút thuốc chờ trời sáng đi dạo... Ông hay chăm
bón mấy bụi chuối, cây thơm trong vườn. Hình như có sự
phân công sao đó... Mẹ tôi lo những việc trong nhà, còn
việc gì, nặng như - chuyện đồng áng thì cha tôi mần
hết. Tôi thấy cha tôi thường gánh nông sản ra chợ cho
mẹ bán, mỗi lần bán thường mua vật dụng trong nhà rất
nhiều - trông hai người vui lắm! Lâu lâu cha tôi cũng tổ
chức ăn uống nhậu nhẹt lai rai tại hiên nhà. Ở quê,
hàng xóm hay người quen đến chơi hay có việc thường
ngồi nói chuyện ngoài hiên chớ ít khi vô nhà. Mặc dầu
trong nhà - phòng khách có đủ bàn ghế hay bộ phảng.
Phòng khách trong nhà chỉ dành cho ngày tết hoặc những
ngày giỗ quảy ông bà tổ tiên... Lần nhậu nào cha tôi
và mấy ông bạn cũng đờn ca vui vẻ! Không có ngồi trên
bàn, trải tấm chiếu dưới hiên là các ông say sưa bàn
chuyện đồng áng, chuyện thơ văn, chuyện gia đình... Mẹ
tôi không dính dáng gì đến chuyện nhậu nhẹt của cha
tôi. Mồi nhậu hay rượu hình như mấy ông có cái "luật
lệ" sao đó mà tôi thấy mỗi khi có "lệnh tập
trung", ông nào cũng có một túm đựng trong lá chuối
mang đến; người nào
không
mang mồi thì mang rượu, rượu có màu hoặc rượu trắng.
Riêng cha tôi là "chủ xị" nên góp phần "mồi"
nhiều hơn. Mồi nhậu cha tôi tự làm. Bữa nhậu nào ngồi
hơi lâu, tôi thấy có một vài bà "phu nhân" qua
nhà ngồi nói chuyện với mẹ tôi trước sân hoặc vào
trong nhà bếp. Tôi nghe cha tôi nói nhỏ với mấy ông bạn
nhậu - Có "tín hiệu..."! Thôi hôm nay chúng ta...
- tạm ngưng cuộc chơi! Phiên tới qua nhà Tư Tỏi, chú
mầy làm chủ xị - nhớ phải có món lươn bó lá lốt
bọc bẹ chuối nướng! Cha tôi và các bạn của ông thâu
dọn "chiến trường" gọn gàng sạch sẽ. Chiếc
chiếu "chuyên dùng" cha tôi đem ra ao giũ... giũ...
mấy cái treo lên hàng rào - vậy là xong!
Nhà
thắp đèn dầu nên gia đình tôi ăn cơm ngoài hàng hiên
trước khi trời sụp tối - một phần tiếc kiệm dầu
hai là ăn cơm ngoài hiên có gió mát, chỉ khi nào trời
mưa bão mới ăn cơm trong nhà bếp. Bữa cơm chiều nay tôi
thấy có nhiều món ăn lạ. Mẹ tôi nói:
-
Mấy món nầy là của mấy ông bạn văn nghệ của cha con
sớt ra cho mẹ khi trưa. Lần nhậu nào cũng chừa như vậy
cả. Đó là cử chỉ đẹp cũng là nét văn hóa của mấy
ông, họ mượn rượu để mần thơ viết văn hát xướng
đó mà. Sau cùng họ cũng có chút... [nịnh đầm] mấy bà
để "mua cái cằn nhằn" đó thôi!
Tôi
còn nhỏ chưa hiểu những lời mẹ tôi nói, khi tôi vào
lính cha tôi mới giải thích cho tôi về cách sống, rằng:
-
Trong chuyện ăn uống con đừng cho là bình thường mà
không coi trước, coi sau. Có nghĩa là "ăn
coi nồi, ngồi coi hướng".
Và
lúc nào con cũng phải nhớ cái công của
người
làm ra món ăn cho ta ăn, phải biết chia xẻ miếng ăn với
kẻ khác. Bởi miếng ăn nhỏ nhưng xử
sự không đúng cách ắt trở thành chuyện lớn.
“Mếng
ăn là miếng tồi tàn,
Mất
ăn một miếng lộn gan lên đầu".
Chuyện
đó vẫn xảy
ra xưa nay. Đừng bao giờ để "nợ miệng" người
khác dù là anh em hay bà con cũng vậy. Lệ thuộc kinh tế
là lệ thuộc tất cả, là mất chủ quyền đó con biết
chưa? Những đêm trời sáng trăng, gia đình tôi không ăn
cơm ngoài hiên mà ăn cơm ngoài sân. Cha tôi trải tấm
chiếu ra và cả gia đình quây quần bên mâm cơm lộ thiên
thật là mát mẽ!
Người
chị hai của tôi, chị nói giọng Huế nghe dễ thương,
chị lớn hơn tôi những tám tuổi. Khi còn bé tôi lấy
làm lạ - tại sao tôi và chị tôi nói giọng khác nhau?
Sau nầy cha mẹ tôi kể cho tôi biết sơ sơ... Cha mẹ chị
là đôi bạn rất thân của cha mẹ tôi. Họ bị "tai
nạn" chết hết lúc chị mới một tuổi. Vậy là cha
mẹ tôi phải nuôi con của hai vợ chồng người bạn cho
đến tám năm sau tôi mới sinh ra đời. Trong khai sinh chị
mang họ Trần - họ của tôi, nhưng chữ lót là họ của
chị. Hình ảnh cha mẹ chị được thờ chung trên bàn thờ
gia tiên của dòng
họ tôi. Cha mẹ tôi nâng niu chìu chuộng chị mọi thứ -
nhất là chuyện học vấn. Có lần tôi nghe cha tôi nói:
-
Con gái mà không giỏi chữ, giỏi nghề nghiệp thì dù có
nhan sắc cũng chỉ để cho người khác lợi dụng...!
Cha
mẹ tôi cho chị ra tỉnh để học và chị học rất giỏi.
Chị lấy chồng năm chị hai mươi tuổi, bên chồng có
của, mua nhà cho vợ chồng chị ra ở riêng. Anh chị sinh
được năm đứa con - hai trai ba gái. Chị dạy tôi làm
toán, chị dạy tôi làm văn. Tôi lúc nào cũng kính trọng
chị. Chị nói với tôi rằng:
-
Chị và em không cùng dòng
máu nhưng cùng uống chung một dòng
sữa mẹ, cùng thấm chung qua từng hột mồ hôi của cha
mà nên người, cùng nghe chung một lời ru qua từng câu ca
dao dưới mái hiên nầy..!.
Chị
được cha mẹ cho về thăm Huế năm ba lần, tuy không còn
ai ruột thịt thân thiết nhưng cũng còn bà con, hàng xóm.
Nơi mà cha mẹ chị thuở sinh thời sống ở đó. Có lần
chị đọc cho tôi nghe hai câu thơ:
"Học
trò trong Quảng ra thi
Thấy
con gái Huế bỏ đi không đành".
Chị
nói với tôi rằng
-
Thơ văn ca ngợi người con gái Huế đẹp! Không biết có
đúng không?
Tôi
nói:
-
... Thì nhìn chị cũng đẹp đó thôi!
Sau
nầy có lần tôi ra Huế trong một dịp đi công tác. Tôi
có đi qua cầu Tràng Tiền, có đi dạo quanh hồ Tĩnh Tâm,
tôi có vào lăng Tự Đức, và hẳn nhiên tôi cũng... gặp
người con gái Huế...! Ngày đám giỗ mãn tang cha. Gia đình
chị về đông đủ. Lần nào về chị cũng quỳ lạy cha
và lúc nào chị cũng khóc kể lại những kỷ niệm về
cha... Chị em chúng tôi ôm nhau mà nước mắt chảy dài!
Dưới mái hiên nhà nơi chị em chúng tôi lớn lên, bây
giờ đã vắng bóng người cha. Chị lau chùi cái bình
tích, cái khay, cái ly. Nhưng cha tôi - người xử
dụng, nay không còn hiện hữu!
Tôi
vào quân ngũ được ba năm xem ra cũng "phong trần"
! Tôi biết đêm đêm mẹ tôi ngồi trước hiên nhà mong
ngóng những đứa con, đứa cháu. Cũng chính cái hiên nầy
- nước mắt vui mừng của mẹ khi thấy chúng tôi trở
về. Có lần chị tôi đề nghị mẹ bán hết đất đai,
ruộng vườn ra tỉnh mua một căn nhà để các con tiện
bề chăm lo cho mẹ. Nhưng mẹ tôi nào có chịu đâu.
"Sống
ở quê có bà con chòm xóm mẹ quen rồi hơn nữa làm răng
mà bỏ mồ mả ông bà, bỏ cha con một mình không ai hương
khói mà đi cho đành...".
Buổi
sáng tiễn gia đình chị về. Tôi nói nhỏ với chị rằng
có người đã giải mã câu thơ:
"Học
trò trong Quảng ra thi. Thấy con gái Huế bỏ đi không
đành".
Tôi
giải thích cho chị tôi như sau:
"Học
trò trong Quảng ra thi. Thấy, con gái Huế bỏ đi không
đành".
Chỉ
cần thêm một dấu phẩy [,] trước chữ "thấy"
là câu thơ khác nghĩa.
-
À, chị hiểu rồi, nghĩa là theo ý em: Học trò trong Quảng
ra thi, các em [thấy] con gái Huế nhìn các em "đẹp
trai" bỏ đi không đành chứ gì?
-
Chị hiểu đúng rồi! Con gái Huế thấy chúng em thì
ngó... sững sờ bỏ đi không đành...!
Chị
tôi nói:
-
Cậu đừng có mà quá tự tin! Biết mô chừng mai kia mốt
nọ cậu cũng mê một o gái Huế nào đó, và bị o nớ
"đá giò lái" rồi sẽ sáng mắt ra!
Tôi
nhớ như in ngày bà ngoại tôi bịnh, mẹ về thăm bà
ngoại và
chỉ ở có năm hôm mà sao thấy cái hiên nhà lạnh lẽo
đến rùng rợn. Cha suốt ngày cặm cụi làm việc trong
vườn âm thầm như chiếc bóng không nói với ai một lời.
Chị hai và tôi đi học về, chị
nấu cơm, đến bữa cũng dọn lên bàn... cha tôi ăn vội
vàng vài miếng, nhìn mặt cha như có một làn mây mù phớt
mỏng... Công việc nhà cha làm gọn bân. Chị và tôi cũng
nhớ mẹ lắm nhưng mỗi người theo đuổi mỗi ý nghĩ
riêng. Hàng hiên trong những ngày vắng mẹ chỉ dành riêng
cho cha, chị em chúng tôi ở nhà bếp hoặc chui trong phòng
mỗi khi đi học hay đi đâu về. Chị tôi thì thầm với
tôi:
-
Cha nhớ mẹ nhiều hơn chúng ta...!
Là
phụ nữ, hơn nữa chị lớn tuổi hơn tôi nên chị tinh
tế chuyện đời hơn tôi, chị thường gợi chuyện với
cha và nấu nước pha trà cho cha (những chuyện nầy hằng
ngày cha tự làm). Tôi làm những câu thơ vụng về đem
cho chị đọc và chị sửa lại gần như toàn bài:
Mấy
hôm mẹ về quê ngoại
tự
dưng nhà vắng vẻ ra
bữa
cơm dọn rồi để có
lạnh
lùng cơn gió thoảng qua
hiên
ngồi lặng lẽ mình cha
bâng
quơ lật vài trang báo
chị
hai thì thầm khẽ bảo
cha
đang nhớ mẹ đó mà.
Rồi
mẹ cũng về nhà sau mấy ngày viếng thăm bà ngoại. Gia
đình chúng tôi vui vẻ nhộn nhịp như ngày hội. Vui hơn
là bà ngoại tôi đã hết bịnh. Mẹ tôi làm vài mâm cơm
cúng để tạ ơn trời phật, ông bà tổ tiên phù hộ cho
gia đình tai qua nạn khỏi. Cha tôi vui không bút nào tả
xiết... Mặt ông hớn hở! Vậy là "lệnh tập trung"
được đánh đi cấp kỳ... Những ông ở "Hoàng-Hạc-Lâu",
bạn thơ văn của cha tôi có thể nghĩ:
-
"Chắc nhà bên nớ có đám giỗ! thôi thì bên ni chuẩn
bị rượu"!
Hình
như "cồng-bà" đi trước cái... lệnh-tập-trung
của ông hay sao ấy? Mấy "phu nhân" của quý ông
cũng xách hoa quả đến cúng bái chia vui với mẹ tôi và
gia đình tôi. Bàn thờ đặt ở căn trung khói hương nghi
ngút... Cha tôi trịnh trọng nói mấy lời "phi lộ"
ngắn nhưng hơi có phần... "nịnh nịnh" mẹ tôi.
Mọi người vỗ tay rôm rã! Mấy bà bữa nay trông "đẹp"
ra! Trong lúc vui có bà còn hứng lên cụng ly với mấy ông
- cũng "trót" một ly xoay chừng rượu đế ngọt
sớt như ai... Cha tôi nghiêng người che miệng nói với
mấy ông bạn rằng hôm nay không có "tín hiệu"
vui - cứ việc vui thoải mái.
Mấy
ông "Vai năm tấc rộng, lưng mười thước cao"...
Vậy mà cũng sợ các bà ra phết...! Tôi thầm nghĩ như
vậy.
Đêm
đêm mẹ nhớ cha tôi, nhớ chị, nhớ các cháu nên mẹ
trằn trọc không ngủ được. Mẹ thức dậy thắp nhang
trên bàn thờ, lâm râm cầu xin ơn trên phù hộ. Mẹ ra
ngoài hàng hiên lót thêm cái bao bố, chỗ con chó nằm.
Ánh trăng hạ tuần chiếu qua hàng cau lọt vô trong hiên
nhà mờ mờ như những bóng ma chập chờn hiện lên trên
dương thế. Tiếng đại bác theo tiếng gà gáy vọng về...
Làng quê nơi tôi ở được "nâng lên vùng xôi đậu"!
Đất đai giờ nầy có muốn bán cũng không có ai mua. Cuối
cùng cũng đành bỏ quê dắt díu ra thành sống đời tản
cư! Hy vọng một ngày im tiếng súng mà trở về. Nhà chị
tôi tuy là ở trên phố nhưng cũng thuộc vùng ngoai ô vắng
vẻ... Từ ngày anh rễ tôi mất, căn nhà càng vắng vẻ
hơn. Nhà anh chị cũng có cái hiên tuy không bằng hiên nhà
ở dưới quê, nhưng ngồi nơi đây nhìn ra mấy cây nhãn,
lá phủ sum suê càng nghe lòng buồn não nề. Ban đêm ánh
đèn vàng trên ngọn đèn đường chiếu xuyên qua kẽ lá
yếu ớt vật vờ trước hiên nhà... Có hôm hai chị em
cùng ngồi cho đến khuya. Tiếng đại bác hình như
cũng..."nhớ" người di tản đã mò về vùng ngoại
ô nầy? Nỗi buồn xa xứ như ngọn giáo đâm vào tim những
người chạy loạn. Người già như mẹ tôi không chịu
nổi vết đâm ấy. Mẹ tôi qua đời! Mấy năm sau chị
tôi cũng bỏ tôi và các con của chị ra đi vĩnh
viễn!
Tôi là người cậu, một chỗ dựa duy nhất của mấy đứa
cháu. Cậu cháu tôi thỉnh thoảng cũng ra ngồi trước
hiên nhà và tôi ôn lại chuyện gia đình cho các cháu
nghe. Tôi vẫn bận hành quân liên miên cho đến ngày...
"tan hàng"! Trong cơn hỗn loạn ấy cậu cháu tôi
cũng không tìm được nhau! Sau ngày "hòa-bình" tôi
tiếp tục đi - gần mười năm "tù đày" xa xứ!
Ngày được tha tôi trở về làng cũ nhưng không một ai
nhận ra tôi. Toàn những người xa lạ. Những đứa con
của chị tôi cũng... bóng chim tăm cá!
Căn
nhà tranh năm xưa của gia đình tôi được người chủ
mới lợp bằng tấm tôn xi măng, vách ván. Chỉ có hàng
cau đứng im lặng nhìn tôi trong nắng chiều gay gắt...
Trong lòng tôi dậy sóng... ! Quá khứ hiện về...! Hình
ảnh mẹ tôi ngồi trước hiên nhà sàng gạo ngày nào.
Hình ảnh chị em tôi lớn lên trong tiếng ru hời từ
chiếc võng dung đưa trước hiên nhà. Hình ảnh chị em
tôi ngồi học bài trước hiên nhà hay đùa vui trong những
đêm trăng thanh ngoài sân. Hình ảnh cha tôi nằm trên võng
nơi hiên mặt dàu dàu nhớ mẹ tôi mỗi khi bà có việc
đi về quê ngoại... Hình ảnh cha tôi với những người
bạn thơ văn của ông ca hát trong những lần gặp nhau
ngoài hiên. Hình ảnh con chó khi thấy tôi từ xa vội chạy
ra... ứ... ứ... ! Nhảy cẫng lên mừng rỡ mỗi khi tôi
đi đâu về. Nhiều lắm...! Nhiều lắm...! Tôi như người
say rượu khệnh khạng bước đi ra khỏi làng! Một kẻ
mộng du!
Trang
Y Hạ
Sai
Gon, 1988
Những
ngày đi mần thợ hồ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét