Thư viện

24/8/19

MAI SAU EM VỀ



MAI SAU EM VỀ

           “Em đi bên ấy chân tròn khép,
        Hai ống mơ hồ mỏi một hang” (Bùi Giáng).

     Bài thơ “Mai Sau Em về” của thi sĩ Bùi Giáng, đây là một trong số các bài thơ hay của ông, đã có rất nhiều tác giả viết về Bùi Giáng (viết về thi sĩ Bùi Giáng, viết không bao giờ hết) nhưng phần nhiều các tác giả viết về sự “điên điên, khùng khùng” cà rỡn rất người, rất thơ, rất dễ mến của ông. Tác giả bình thơ hay phê bình thơ của ông thì không có được mấy người, và phải nói là quá ít. Tôi cũng không đủ trình độ để thẩm thấu hết thơ của ông, tôi đã đọc tác phẩm thơ, truyện địch của ông. Tôi đã dừng lại bài, “Mai Sau Em Về” của nhà thơ mà tôi thích. Trước khi viết vài dòng tạm gọi là “quan tâm”, chứ không dám nói rằng: [bình thơ] của ông. Tôi mượn wikipedia, để giới thiệu vài dòng tóm tắt tiểu sử của thi sĩ Bùi Giáng:

                                             o0o

      Thi sĩ Bùi Giáng xuất thân trong một gia đình trí phú nhứt nhì ở đất Duy Xuyên (Quảng Nam). Thuở bé tính tình đôn hậu hiền lành, hòa nhã, thẳng tính, cách sống chung thủy. Lúc còn học tiểu học, một hôm y phục thầy giáo bị vấy bẩn do một trò chơi nghịch, thầy hết sức giận dữ hỏi ai là tác giả, cả lớp im phăm phắc . Trước cơn giận dữ của thầy, ông đã đứng lên thú nhận mặc dù không phải ông làm. Đấy là điều ít thấy nơi một đứa trẻ”. Bệnh điên của ông, theo cố bác sĩ Tô Dương Hiệp, người đã trực tiếp chữa bịnh cho ông, cho biết:

     “Nguyên nhân bệnh điên của Bùi Giáng có tính di truyền và hơn nữa là quá nhớ thương người vợ chết lúc mới hai mươi tuổi. Nguyên do vợ ông chết là do Bùi Giáng cho vợ uống nhầm thuốc, và cơn hỏa hoạn làm cháy sạch tủ sách yêu quý, từ đó ông sống độc thân rồi đi lang bạt trong cơn điên loạn”. Trích trong tuyển tập Bùi Giáng - “Đạo Và Thơ” của Thích Nữ Trí Hải. Nhà Xuất bản Hồng Đức.

     Thi sĩ Bùi Giáng học trễ, vả lại ông tự học nhiều hơn, ông thông thạo nhiều ngôn ngữ kể cả các ngôn ngữ khó học như: chữ Hán, chữ Đức, chữ Phạn. Giới văn học rất nễ phục sức học của ông, cuốn sách đầu tiên của ông là sách giáo khoa in năm 1957 và ông để lại cho kho tàng thơ văn Việt Nam sáu mươi lăm đầu sách các loại từ: sách viết, sách dịch và di cảo.

MAI SAU EM VỀ

Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn gởi đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù

Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
Đây phồn hoa của thị thành
Đây hồn thủy thảo khóc tình ngửa ngang
Càn khôn xưa của riêng chàng
Xưa đài vũ trụ thiếp mang riêng mình
Bây giờ đón bước em xinh
Sầu đau nhan sắc bất bình ra sao? (Bùi Giáng)

     Tôi nghĩ, nội dung bài thơ và những câu hỏi với em chắc hẳn đó người vợ qua đời của ông. Em về mấy thế kỷ sau, em có về nữa hay là em không muốn về? Em ở đây cũng chính là cuộc sống mà ông đang sống cũng có thể là câu trả lời cho một cõi riêng (tình yêu) xa vắng mà ông không thể nói ra, sự lo lắng cho sự tồn sinh rất mãnh liệt thẳm sâu chẳng những trong con người của ông mà còn vượt ra ngoài vũ trụ!

     Nào là: “… mấy thế kỷ sau - những thương nhớ lạnh - đường chia ngã chân trời - thủy thảo khóc tình ngửa ngang - càn khôn xưa - đài vũ trụ - nhan sắc bất bình – đường thu chia ngã”. Mười hai câu thơ làm quay cuồng đảo lộn mọi suy nghĩ, đồng thời làm thức tỉnh con người phải chuẩn bị cho cuộc sống đã trót mang từ kiếp này sang kiếp khác, dù khổ đau hay sung sướng vẫn phải vui mừng chấp nhận bước đi dưới nắng hanh vàng hay mưa bão!

     Khổ thơ đầu có bốn câu, tôi thích và cũng là ý chính của bài thơ: Câu thơ: “Em về mấy thế kỷ sau”. Là mấy thế kỷ? Thi sĩ hỏi cho có hỏi chứ chẳng có thế kỷ nào cả! Tại làm sao thi sĩ phải hỏi như vậy? Từ vũ trụ “vô thủy, vô chung” không ai có thể ước định cái mốc thời gian cho dù có tới mấy thế kỷ sau đi nữa, thì “em” vẫn tồn tại để trở về; trở về trong lo âu cho sự trở về dù biết đang sống sờ sờ trên cõi hằng sống chẳng có sự di chuyển sang hành tinh nào khác cả. Em về mấy thế kỷ sau chẳng qua em có còn giữ một “sứ mạng” khác hay là em đã già, em lo lắng, em sợ sệt…! Thi sĩ lo toan dùm “em” có thừa không, xin thưa là “lo toan” đó hoàn toàn thuận tình thuận lý chứ không thừa một chút nào. Để trả lời, hãy thử đọc tiếp:

Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không” (?)

     Thử nghĩ “nguyên màu ấy”; nguyên màu ấy là màu nào vậy, đọc sơ qua thì thấy câu thơ bình thường như bao câu thơ bình thường khác, ai mà không biết trăng sáng hoặc trăng mờ? Thi sĩ tưởng tượng nhiều quá đâm ra “khùng” chăng, không lẽ thi sĩ khùng một cách triết học? Đúng vậy, thi sĩ dịch sách triết học “Tư Tưởng Hiện Đại” của Martin Heidgger. Tiểu thuyết “Khung Cửa Hẹp” của nhà văn Pháp - André Gide. (Khung Cửa Hẹp là tác phẩm rất khó đọc, khó hiểu, chỉ dành riêng cho những ai có trí tuệ vượt bậc…).

     Trăng là nguyệt, nguyệt cũng là trăng. “màu trăng ấy”, chính là cái màu người con gái sắp tới tới tuổi dậy thì, và ở tuổi dậy thì - lúc nào cũng - chờ đợi, lo lắng, mơ mộng màu trăng rằm tròn vành vạnh, đồng thời lắng nghe trong cơ thể lần dò chuyển động âm ỉ băng khoăng lơ lửng, giận hờn vu vơ từ những chiếc lá rơi, một cơn gió lạ luồng qua khung cửa sổ mỗi khi chiều tàn đêm xuống… “màu trăng ấy” tới bất chợt - “Khi trồi, khi sụt, khi có, khi không”. Hoặc tới một giai đoạn nào đó sẽ không thấy (trồi, sụt). Giả dụ không có màu trăng ấy; màu huyết dụ sững sờ, sợ sệt, bối rối, xấu hổ ngại ngùng e thẹn mà duyên dáng thì có thể vĩnh viễn mất đi sự sinh tồn trên trái đất nầy. Màu trăng ấy không những chỉ có người thiếu nữ dậy thì chờ đợi, mà còn kéo theo vô số thân thuộc, biết bao văn nhân thi sĩ lẫn người đời, vậy mà tất cả họ chỉ đứng xung quanh ngắm nhìn nụ hoa từ từ nở trong buổi sớm mai lung linh huyền ảo... Màu trăng đã vĩnh viễn thuộc về người thiếu nữ; thuộc về những giai nhân nghiêng thành đổ nước: Điêu Thuyền, Tây Thi, Bao Tự, Marilyn Monroe. Nguyệt Nga, Thúy Kiều, Huyền Trân…!

     Màu trăng ấy rất đẹp, rất trong sáng từ cổ chí kim, do đó phải biết trân trọng, gìn giữ từ lúc (em chưa biết gì) cho tới một giai đoạn tượng hình màu trăng ấy (màu huyết dụ). Mất đi màu ấy là mất đi “mầm sống” tái sinh con người, mất đi mầm sống loài người sẽ trở về với sa mạc hoang vu khô cằn hay núi đồi sỏi đá trơ vơ…!

Bây giờ đón bước em xinh
Sầu đau nhan sắc bất bình ra sao.”

     Bây giờ đón bước em xinh, tức là “màu trăng ấy” đang còn ở tuổi mộng mơ... Một mai màu trăng ấy đã khô cằn, nhăn nheo sầu đau nhan sắc bất bình ra sao, ra sao, ai mà biết ra sao bây giờ. Mầm sống, sức sống trên mặt đất vẫn vươn mình dưới ánh mặt trời để cảm nhận cho màu trăng ấy của thi sĩ. Hãy đọc:

Trời thuở đó ngần nào em khổ sở
 Khóc khi nhìn gió thổi nước sương buông
 Tìm xa vắng bên kia bờ đổ vỡ
 Giòng sông em đâu có biết ngọn nguồn.”

     Từ “thuở đó” em khổ sở ra đi miên viễn bỏ lại anh một mình, em tìm nơi xa vắng bên kia bờ thế giới! Từ đó, “giòng sông em” đã khô, em chưa biết ngọn nguồn ra sao?! Biết bao lo lắng, biết bao sợ sệt dòng nước đã rặc ngọn nguồn làm sao mà biết. Vậy là thân thể em cằn cỏi, mai sau em về chính là nguồn nước tươi mát của mai sau em về và em nhận biết nguồn nước đó chính là để giữ cho sự tồn sinh.

     Thiên hạ cho rằng thi sĩ Bùi Giáng “khùng điên”. Đối với riêng tôi ông không khùng điên chút nào cả. Ông đau khổ tiếc nhớ, ông không bao giờ quên người vợ xinh đẹp chỉ sống cùng ông chỉ vỏn vẹn có ba năm, không để lại cho ông đứa con nào, chỉ có kỷ niệm tình yêu…! Thi sĩ tha thiết gọi vợ là:

Mình ơi, tôi gọi bằng nhà
Nhà ơi, tôi gọi mình là nhà tôi”.

     Hai câu thơ thi sĩ xưng hô với vợ quả là tha thiết; tha thiết tới nỗi gục đầu thổn thức giữa đêm khuya! Ông sống cùng với vợ chỉ có ba năm; ba năm hương lửa nồng ấm vẫn theo thi sĩ cho tới ngày ông nhắm mắt xuôi tay! Vậy mà, thiên hạ kháo nhau rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu tha thiết một nữ nhân nổi tiếng nào đó. Thật ra, thi sĩ Bùi Giáng chẳng yêu ai cả ngoài người vợ đã qua đời của ông. Thi sĩ có làm thơ tặng bà nầy, cô nọ, tặng thơ không có nghĩa là phải yêu người được tặng thơ. Ông cũng chưa đề cập chuyện “hôn nhân” với ai, ông chỉ “cà rỡn”; ông cà rỡn với trời, với đất, với văn thơ chữ nghĩa, với từng câu văn câu thơ, với triết học của (Friedrich Wilhelm Nietzsche), với thiền, với chuồn chuồn, với châu chấu và cả con bò… Ông làm thơ tặng cho tất cả mọi người chứ không riêng một ai, ông tặng thơ đó chẳng qua là thi sĩ che lấp đi nỗi cô đơn, trằn trọc lẫn ăn năn hối hận mỗi khi nhớ về người vợ xinh đẹp mà mỗi giây, mỗi phút hình ảnh người vợ thôi thúc trong đầu của ông... Ông nhớ mỗi buổi sáng khi xưa, vợ ông thức dậy pha trà cho ông uống. Chừ còn đâu nữa, ông không quên “công ơn” người vợ pha trà cho ông uống; pha được bao nhiểu lần khi mà bước chân lãng tử của ông rày đây mai đó… Ông dùng lời “mọi nhỏ” rất dễ thương và trìu mến để nói với vợ: Thưa em mọi nhỏ em đà uống chưa”?

     Thi sĩ nghĩ về vợ và ví vợ là “mẫu thân”, nghĩa là vợ ông chịu khổ sở nhọc nhằn lo cho ông không khác chi mẹ ruột. Vợ ông đẹp người, đẹp nết lại đảm đang được cha mẹ, anh em, dòng tộc của ông yêu mến, nễ trọng.  Thơ ông viết cho vợ:

Em chết bên bờ lúa
 Để lại trên lối mòn
 Một dấu chân bước của
 Một bàn chân bé con…!” [Trích]

     Vậy thì đừng nghĩ rằng thi sĩ Bùi Giáng sẽ yêu một người phụ nữ nào đó sau khi vợ chết, nghĩ đơn giản như vậy là chưa hiểu thấu đáo về ông. Ông điên khùng (hay không điên) bởi nỗi nhớ, nỗi cô đơn giày vò từng ngày, từng đêm với hình bóng người vợ. Nàng thơ của ông chính là người vợ của ông, tất cả sự nghiệp thơ văn đều có hình bóng người vợ của ông. Thi sĩ không “tục huyền” cho tới lúc chết đã nói lên sự chung tình mà theo cách ông nói trong thơ ông là: “miên trường”. Miên trường, tạm hiểu là một giấc ngủ dài, có nghĩa là tương lai đối với ông và hy vọng cho một tương lai cho mọi người, (một lối dùng chữ tài tình của thi sĩ). Bùi Giáng cũng là con người hơn nữa là con người thi nhân, ông có thể “yêu” một hình bóng giai nhân (tưởng tượng trong hiện tại) để làm ấm lại hồn thơ, ấm lại tuổi hai mươi với biết bao mơ mộng. Ai nói thi sĩ Bùi Giáng không yêu? Ông yêu chứ! Ông yêu: Sophia Loren, ông yêu: Marilyn Monroe, ông yêu: Phùng Khánh, ông yêu: Kim Cương, ông yêu: người em mọi nhỏ, ông yêu: Brigitte Bardot… Người ông yêu rất thực hiện đang sống trong cõi thơ của thi sĩ chính là người vợ.

     Thi sĩ Bùi Giáng chết, nhưng thi sĩ vẫn sống trong thơ văn, lúc sống ông lo lắng ngóng trông “em” mấy thế kỷ sau có về được nữa không? Nhìn trăng có còn nguyên màu ấy không? Bây chừ màu sắc ấy đối với thi sĩ đã không còn cần thiết nữa, vậy mà ông vẫn lo sợ màu (hồng thắm) đó sẽ khô cằn thì trái đất nầy cũng cằn khô rồi ra sẽ mất đi sự sống. Ông tâm sự:

Ta đi còn gởi đôi giòng
 Lá rơi có dội ở trong sương mù”

     Đọc hai câu thơ đó, tôi lại “liên tưởng” tới hai câu thơ của thi sĩ  Tiên Điền Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Hai câu thơ của thi si Bùi Giáng là một ẩn dụ. Thi sĩ phải chăng tư tưởng lớn của họ gặp nhau trên bầu trời thơ mênh mông huyền ảo!

     Thi sĩ Nguyễn Du than thở ba trăm năm sau biết có ai khóc Tố Như? Thiên hạ khóc Tố Như mà làm gì chứ? Thiên hạ có khóc, có khóc chăng là khóc cho nàng kiều, nàng kiều sinh nhằm vào thời loạn lạc, xã hội suy đồi, khóc cho nàng kiều hiện đang sống, khóc cho nàng kiều sẽ sống trong tương lai...

     Thi sĩ Bùi Giáng cũng than thở “Ta đi để lại đôi dòng. Lá rơi có dội ở trong sương mù”. Cách lo lắng của Bùi Giáng có khác. “Ta đi”, nghĩa là ta chết, ta chết ta vẫn để lại “đôi giòng”. Đôi giòng dó là “em về mấy thế kỷ sau, nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không”. Và “lá rơi” là lớp người sinh sau có nghe tiếng lá “có dội” tiếng thơ của ta ở trong sương mù.

     Thi sĩ Trần Tử Ngang (661 - 702), nói “Làm thơ là để gởi tấm lòng vô thiên cổ chứ không phải lưu danh nhứt thời”. Vậy thi sĩ đã gởi vô thiên cái chuyện gì? Hãy nghe sự u hoài, lo lắng của thi sĩ qua bài thơ:

Bài Ca Lên Đài U Châu

Tiền bất kiến cổ nhân
  Hậu bất kiến lai giả
  Niệm thiên địa chi du du
  Độc sảng nhiên nhi thế hạ.”

  (Trước chẳng thấy người xưa
   Sau thì người mới vẫn chưa thấy mà
   Ngẫm trời đất rộng bao la
   Một ngồi thương cảm lệ sa đôi dòng.)

                            Trang Y Hạ (Tạm dịch)

Thi sĩ Tản Đà cũng để lại hai câu:

     “Dân hai lăm triệu ai người lớn,
    Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”.

Phải chăng thơ của người xưa là Sấm Truyền?

     Tỷ như em về với màu trăng ấy đã khô khan không còn sinh khí của sự sống thì dù thi sĩ có gửi đôi dòng cũng sẽ biệt tăm biệt tích hoặc rơi vào cõi hư không. Và chiếc lá rơi cũng không còn xào xạc trong sương mù lạnh cóng… Người đời sau chỉ còn nghe tiếng dế than đêm, tiếng gà gáy gọi ngày… Thơ ông bao hàm một triết lý nhân sinh, nhân ái vẫn còn vang vọng... Tôi nghĩ như vậy! Dù em có về hay không về còn thấy màu trăng thơ mộng hay không thấy trăng thì dự báo đó là tấm lòng ưu ái của thi sĩ đối với lớp tuổi trẻ và cuộc đời ngắn ngủi sau nầy.

     Thơ của thi sĩ Bùi Giáng lấp lửng nửa chừng, nhưng lại soi rọi về cội nguồn. Ông để lại cho đời sau một vài câu nói thú vị “Muốn bàn tới thơ, muốn diễn dịch thơ thì tốt nhứt hãy làm một bài thơ khác” Và “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa ly kỳ gay cấn”.

     Tôi chỉ đủ trình độ thẩm thấu và rung cảm một phần rất nhỏ chứ chưa dám gọi là bình thơ, tôi chỉ mạo muội viết ra vài dòng, giả dụ có gì sai sót hay xúc phạm tới thi sĩ, xin ông tha thứ. Tôi viết bốn câu thơ để tưởng nhớ ông và tạm dừng bài viết.

    Thơ nổi sóng Hàn Giang dìu Bùi Giáng
    bước lên thuyền chở lục bát đi rao
    rót hiu quạnh nhâm nhi thời quên lãng
    khùng điên đâu múa bút tới thiên tào.
                      Trích thơ (Trang Y Hạ)

Trang Y Hạ






















2 nhận xét:

  1. Đồng tình với nhận định của anh.

    "Vui đắp đỗi trái ngang buồn lây lất
    Ngày sông đi mây cũng dạt như bèo
    Trăng khánh tận mùa tương tư vĩnh viễn
    Người xa Người khát vọng mãi vàng treo..."

    Trả lờiXóa
  2. Cảm ơn bạn. Chúc bạn sức khỏe!

    Trả lờiXóa