MAI
SAU EM VỀ
“Em
đi bên ấy chân tròn khép,
Hai
ống mơ hồ mỏi một hang”
(Bùi Giáng).
Bài
thơ “Mai Sau Em về” của thi sĩ Bùi Giáng, đây là một
trong số các bài thơ hay của ông, đã có rất nhiều tác
giả viết về Bùi Giáng (viết về thi sĩ Bùi Giáng, viết
không bao giờ hết) nhưng phần nhiều các tác giả viết
về sự “điên điên, khùng khùng” cà rỡn rất người,
rất thơ, rất dễ mến của ông. Tác giả bình thơ hay
phê bình thơ của ông thì không có được mấy người,
và phải nói là quá ít. Tôi cũng không đủ trình độ để
thẩm thấu hết thơ của ông, tôi đã đọc tác phẩm
thơ, truyện địch của ông. Tôi đã dừng lại bài, “Mai
Sau Em Về” của nhà thơ mà tôi thích. Trước khi viết
vài dòng tạm gọi là “quan tâm”, chứ không dám nói
rằng: [bình thơ] của ông. Tôi mượn wikipedia, để giới
thiệu vài dòng tóm tắt tiểu sử của thi sĩ Bùi Giáng:
o0o
Thi
sĩ Bùi Giáng xuất thân trong một gia đình trí phú nhứt
nhì ở đất Duy Xuyên (Quảng Nam). Thuở bé tính tình đôn
hậu hiền lành, hòa nhã, thẳng tính, cách sống chung
thủy. “Lúc còn học tiểu học, một hôm y phục
thầy giáo bị vấy bẩn do một trò chơi nghịch, thầy
hết sức giận dữ hỏi ai là tác giả, cả lớp im phăm
phắc . Trước cơn giận dữ của thầy, ông đã đứng
lên thú nhận mặc dù không phải ông làm. Đấy là điều
ít thấy nơi một đứa trẻ”. Bệnh điên của ông,
theo cố bác sĩ Tô Dương Hiệp, người đã trực tiếp
chữa bịnh cho ông, cho biết:
“Nguyên
nhân bệnh điên của Bùi Giáng có
tính di truyền và hơn nữa là
quá nhớ thương người vợ chết lúc mới hai mươi tuổi.
Nguyên
do vợ ông chết là do Bùi Giáng cho vợ uống nhầm thuốc,
và
cơn hỏa hoạn làm cháy sạch tủ sách yêu quý, từ đó
ông sống độc thân rồi đi lang bạt trong cơn điên
loạn”.
Trích
trong
tuyển tập Bùi Giáng - “Đạo Và Thơ” của Thích Nữ
Trí Hải. Nhà Xuất bản Hồng Đức.
Thi
sĩ Bùi Giáng học trễ, vả lại ông tự học nhiều hơn,
ông thông thạo nhiều ngôn ngữ kể cả các ngôn ngữ khó
học như: chữ Hán, chữ Đức, chữ Phạn. Giới văn học
rất nễ phục sức học của ông, cuốn sách đầu tiên
của ông là sách giáo khoa in năm 1957 và ông để lại cho
kho tàng thơ văn Việt Nam sáu mươi lăm đầu sách các
loại từ: sách viết, sách dịch và di cảo.
MAI
SAU EM VỀ
Em
về mấy thế kỷ sau
Nhìn
trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta
đi còn gởi đôi giòng
Lá
rơi có dội ở trong sương mù
Những
thương nhớ lạnh bao giờ
Đường
Thu chia ngã chân trời rộng tênh
Đây
phồn hoa của thị thành
Đây
hồn thủy thảo khóc tình ngửa ngang
Càn
khôn xưa của riêng chàng
Xưa
đài vũ trụ thiếp mang riêng mình
Bây
giờ đón bước em xinh
Sầu
đau nhan sắc bất bình ra sao? (Bùi Giáng)
Tôi
nghĩ, nội dung bài thơ và những câu hỏi với em
chắc hẳn đó người vợ qua đời của
ông. Em về mấy thế kỷ sau, em có về nữa hay là em
không muốn về? Em ở đây cũng chính là cuộc sống mà
ông đang sống cũng có thể là câu trả lời cho một cõi
riêng (tình
yêu) xa
vắng mà ông không thể nói ra, sự
lo lắng cho sự tồn sinh rất mãnh liệt thẳm sâu chẳng
những trong con người của ông mà còn vượt ra ngoài vũ
trụ!
Nào
là: “… mấy
thế kỷ sau - những thương nhớ lạnh - đường chia ngã
chân trời - thủy thảo khóc tình ngửa ngang - càn khôn
xưa - đài vũ trụ - nhan sắc bất bình – đường thu
chia ngã”.
Mười
hai câu thơ
làm quay cuồng đảo lộn mọi suy nghĩ, đồng thời làm
thức tỉnh con người phải chuẩn bị cho cuộc sống đã
trót mang từ kiếp này sang kiếp khác, dù khổ đau hay
sung sướng vẫn phải vui mừng chấp nhận bước đi dưới
nắng hanh vàng hay mưa bão!
Khổ
thơ đầu có bốn câu, tôi thích và cũng là ý chính của
bài thơ: Câu
thơ:
“Em về mấy thế kỷ sau”. Là
mấy thế kỷ? Thi sĩ hỏi cho có hỏi chứ chẳng có thế
kỷ nào cả! Tại làm sao thi sĩ phải hỏi như vậy? Từ
vũ trụ “vô thủy, vô chung” không ai có thể ước định
cái mốc thời gian cho dù có tới mấy thế kỷ sau đi
nữa, thì “em” vẫn tồn tại để trở về; trở về
trong lo âu cho sự trở về dù biết đang sống sờ sờ
trên cõi hằng sống chẳng có sự di chuyển sang hành tinh
nào khác cả. Em về mấy thế kỷ sau chẳng qua em có còn
giữ một “sứ mạng” khác hay là em đã già, em lo
lắng, em sợ sệt…! Thi sĩ lo toan dùm “em” có thừa
không, xin thưa là “lo toan” đó hoàn toàn thuận tình
thuận lý chứ không thừa một chút nào. Để trả lời,
hãy thử đọc tiếp:
“Nhìn
trăng có thấy nguyên màu ấy không” (?)
Thử
nghĩ “nguyên màu ấy”; nguyên màu ấy là màu nào vậy,
đọc sơ qua thì thấy câu thơ bình thường như bao câu
thơ bình thường khác, ai mà không biết trăng sáng hoặc
trăng mờ? Thi sĩ tưởng tượng nhiều quá đâm ra “khùng”
chăng, không lẽ thi sĩ khùng một cách triết học? Đúng
vậy, thi sĩ dịch sách triết học “Tư Tưởng Hiện Đại”
của Martin Heidgger. Tiểu thuyết “Khung Cửa Hẹp” của
nhà văn Pháp - André Gide. (Khung
Cửa Hẹp là tác phẩm rất khó đọc, khó hiểu, chỉ
dành riêng cho những ai có trí tuệ vượt bậc…).
Trăng
là nguyệt, nguyệt cũng là trăng. “màu
trăng ấy”, chính
là cái màu người con gái sắp tới tới tuổi dậy thì,
và ở tuổi dậy thì - lúc nào cũng
- chờ đợi, lo lắng, mơ mộng màu trăng rằm tròn vành
vạnh, đồng thời lắng nghe trong cơ thể lần dò chuyển
động âm ỉ băng khoăng lơ lửng, giận hờn vu vơ từ
những chiếc lá rơi, một cơn gió lạ luồng qua khung cửa
sổ mỗi khi chiều tàn đêm xuống… “màu
trăng ấy” tới
bất chợt - “Khi
trồi, khi sụt, khi có, khi không”.
Hoặc tới một giai đoạn nào đó sẽ không thấy (trồi,
sụt).
Giả
dụ không có màu trăng ấy; màu huyết dụ sững sờ, sợ
sệt, bối rối, xấu hổ ngại ngùng e thẹn mà duyên dáng
thì có thể vĩnh viễn mất đi sự sinh tồn trên trái đất
nầy. Màu trăng ấy không những chỉ có người thiếu nữ
dậy thì chờ đợi, mà còn kéo theo vô số thân thuộc,
biết bao văn nhân thi sĩ lẫn người đời, vậy mà tất
cả họ chỉ đứng xung quanh ngắm nhìn nụ hoa từ từ nở
trong buổi sớm mai lung linh huyền ảo... Màu trăng đã
vĩnh viễn thuộc về người thiếu nữ; thuộc về những
giai nhân nghiêng thành đổ nước: Điêu Thuyền, Tây Thi,
Bao Tự, Marilyn Monroe. Nguyệt Nga, Thúy Kiều, Huyền Trân…!
Màu
trăng ấy rất đẹp, rất trong sáng từ cổ chí kim, do đó
phải biết trân trọng, gìn giữ từ lúc (em chưa biết
gì) cho tới một giai đoạn tượng hình màu trăng ấy
(màu huyết dụ). Mất đi màu ấy là mất đi “mầm sống”
tái sinh con người, mất đi mầm sống loài người sẽ
trở về với sa mạc hoang vu khô cằn hay núi đồi sỏi
đá trơ vơ…!
“Bây
giờ đón bước em xinh
Sầu
đau nhan sắc bất bình ra sao.”
Bây
giờ đón bước em xinh, tức là “màu trăng ấy” đang
còn ở tuổi mộng mơ... Một mai màu trăng ấy đã khô
cằn, nhăn nheo sầu đau nhan sắc bất bình ra sao, ra sao,
ai mà biết ra sao bây giờ. Mầm sống, sức sống trên mặt
đất vẫn vươn mình dưới ánh mặt trời để cảm nhận
cho màu trăng ấy của thi sĩ. Hãy đọc:
“Trời
thuở đó ngần nào em khổ sở
Khóc
khi nhìn gió thổi nước sương buông
Tìm
xa vắng bên kia bờ đổ vỡ
Giòng
sông em đâu có biết ngọn nguồn.”
Từ
“thuở đó” em khổ sở ra đi miên viễn bỏ lại anh
một mình, em tìm nơi xa vắng bên kia bờ thế giới! Từ
đó, “giòng sông em” đã khô, em chưa biết ngọn nguồn
ra sao?! Biết bao lo lắng, biết bao sợ sệt dòng nước đã
rặc ngọn nguồn làm sao mà biết. Vậy là thân thể em
cằn cỏi, mai sau em về chính là nguồn nước tươi mát
của mai sau em về và em nhận biết nguồn nước đó chính
là để giữ cho sự tồn sinh.
Thiên
hạ cho rằng thi sĩ Bùi Giáng “khùng điên”. Đối với
riêng tôi ông không khùng điên chút nào cả. Ông đau khổ
tiếc nhớ, ông không bao giờ quên người vợ xinh đẹp
chỉ sống cùng ông chỉ vỏn vẹn có ba năm, không để
lại cho ông đứa con nào, chỉ có kỷ niệm tình yêu…!
Thi sĩ tha thiết gọi vợ là:
“Mình
ơi, tôi gọi bằng nhà
Nhà
ơi, tôi gọi mình là nhà tôi”.
Hai
câu thơ thi sĩ xưng hô với vợ quả là tha thiết; tha
thiết tới nỗi gục đầu thổn thức giữa đêm khuya!
Ông sống cùng với vợ chỉ có ba năm; ba năm hương lửa
nồng ấm vẫn theo thi sĩ cho tới ngày ông nhắm mắt xuôi
tay! Vậy mà, thiên hạ kháo nhau rằng thi sĩ Bùi Giáng yêu
tha thiết một nữ nhân nổi
tiếng nào đó. Thật
ra, thi sĩ Bùi Giáng chẳng yêu ai cả ngoài người vợ đã
qua đời của ông. Thi sĩ có làm thơ tặng bà nầy, cô
nọ, tặng thơ không có nghĩa là phải yêu người được
tặng thơ. Ông cũng chưa đề cập chuyện “hôn nhân”
với ai, ông chỉ “cà rỡn”; ông cà rỡn với trời,
với đất, với văn thơ chữ nghĩa, với từng câu văn
câu thơ,
với triết học của (Friedrich Wilhelm Nietzsche), với thiền,
với chuồn chuồn, với châu chấu và cả con bò… Ông
làm thơ tặng cho tất cả mọi người chứ không riêng
một ai, ông tặng thơ đó chẳng qua là thi sĩ che lấp đi
nỗi cô đơn, trằn trọc lẫn ăn năn hối hận mỗi khi
nhớ về người vợ xinh đẹp mà mỗi giây, mỗi phút
hình ảnh người vợ thôi thúc trong đầu của ông... Ông
nhớ mỗi buổi sáng khi xưa, vợ ông thức dậy pha trà
cho ông uống. Chừ còn đâu nữa, ông không quên “công
ơn” người vợ pha trà cho ông uống; pha được bao nhiểu
lần khi mà bước chân lãng tử của ông rày đây mai đó…
Ông dùng lời “mọi nhỏ” rất dễ thương và trìu mến
để nói với vợ: “Thưa
em mọi nhỏ em đà uống chưa”?
Thi
sĩ nghĩ về vợ và ví vợ là “mẫu thân”, nghĩa là vợ
ông chịu khổ sở nhọc nhằn lo cho ông không khác chi mẹ
ruột. Vợ ông đẹp người, đẹp nết lại đảm đang
được cha mẹ, anh em, dòng tộc của ông yêu mến, nễ
trọng. Thơ ông viết cho vợ:
“Em
chết bên bờ lúa
Để
lại trên lối mòn
Một
dấu chân bước của
Một
bàn chân bé con…!” [Trích]
Vậy
thì đừng nghĩ rằng thi sĩ Bùi Giáng sẽ yêu một người
phụ nữ nào đó sau khi vợ chết, nghĩ đơn giản như vậy
là chưa hiểu thấu đáo về ông. Ông điên khùng (hay
không điên) bởi nỗi nhớ, nỗi cô đơn giày vò từng
ngày, từng đêm với hình bóng người vợ. Nàng thơ của
ông chính là người vợ của ông, tất cả sự nghiệp
thơ văn đều có hình bóng người vợ của ông. Thi sĩ
không “tục huyền” cho tới lúc chết đã nói lên sự
chung tình mà theo cách ông nói trong thơ ông là: “miên
trường”. Miên trường, tạm hiểu là một giấc ngủ
dài, có nghĩa là tương lai đối với ông và hy vọng cho
một tương lai cho mọi người, (một lối dùng chữ tài
tình của thi sĩ). Bùi Giáng cũng là con người hơn nữa
là con người thi nhân, ông có thể “yêu” một hình
bóng giai nhân (tưởng tượng trong hiện tại) để làm ấm
lại hồn thơ, ấm lại tuổi hai mươi với biết bao mơ
mộng. Ai nói thi sĩ Bùi Giáng không yêu? Ông yêu chứ! Ông
yêu: Sophia Loren, ông yêu: Marilyn Monroe, ông yêu: Phùng
Khánh, ông yêu: Kim Cương, ông yêu: người em mọi nhỏ,
ông yêu: Brigitte Bardot… Người ông yêu rất thực hiện
đang sống trong cõi thơ của thi sĩ chính là người vợ.
Thi
sĩ Bùi Giáng chết, nhưng thi sĩ vẫn sống trong thơ văn,
lúc sống ông lo lắng ngóng trông “em” mấy thế kỷ
sau có về được nữa không? Nhìn trăng có còn nguyên màu
ấy không? Bây chừ màu sắc ấy đối với thi sĩ đã
không còn cần thiết nữa, vậy mà ông vẫn lo sợ màu
(hồng thắm) đó sẽ khô cằn thì trái đất nầy cũng
cằn khô rồi ra sẽ mất đi sự sống. Ông tâm sự:
“Ta
đi còn gởi đôi giòng
Lá
rơi có dội ở trong sương mù”
Đọc
hai câu thơ đó, tôi lại “liên tưởng” tới hai câu
thơ của thi sĩ Tiên Điền Nguyễn Du “Bất tri
tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.
Hai câu thơ của thi si Bùi Giáng là một ẩn dụ. Thi sĩ
phải chăng tư tưởng lớn của họ gặp nhau trên bầu
trời thơ mênh mông huyền ảo!
Thi
sĩ Nguyễn Du than thở ba trăm năm sau biết có ai khóc Tố
Như? Thiên hạ khóc Tố Như mà làm gì chứ? Thiên hạ có
khóc, có khóc chăng là khóc cho nàng kiều, nàng kiều sinh
nhằm vào thời loạn lạc, xã hội suy đồi, khóc cho nàng
kiều hiện đang sống, khóc cho nàng kiều sẽ sống trong
tương lai...
Thi
sĩ Bùi Giáng cũng than thở “Ta đi để lại đôi dòng.
Lá rơi
có dội ở trong sương mù”. Cách lo lắng của Bùi Giáng
có khác. “Ta đi”, nghĩa là ta chết, ta chết ta vẫn để
lại “đôi giòng”. Đôi giòng dó là “em về mấy thế
kỷ sau, nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không”. Và
“lá rơi” là lớp người sinh sau có nghe tiếng lá “có
dội” tiếng thơ của ta ở trong sương mù.
Thi
sĩ Trần Tử Ngang (661
- 702),
nói “Làm thơ là để gởi tấm lòng vô thiên cổ chứ
không phải lưu danh nhứt thời”. Vậy thi sĩ đã gởi vô
thiên cái chuyện gì? Hãy nghe sự u hoài, lo lắng của thi
sĩ qua bài thơ:
Bài
Ca Lên Đài U Châu
“Tiền
bất kiến cổ nhân
Hậu
bất kiến lai giả
Niệm
thiên địa chi du du
Độc
sảng nhiên nhi thế hạ.”
(Trước
chẳng thấy người xưa
Sau
thì người mới vẫn chưa thấy mà
Ngẫm
trời đất rộng bao la
Một
ngồi thương cảm lệ sa
đôi
dòng.)
Trang
Y Hạ (Tạm dịch)
Thi
sĩ Tản Đà cũng để lại hai câu:
“Dân
hai lăm triệu ai người lớn,
Nước
bốn nghìn năm vẫn trẻ con”.
Phải
chăng thơ của người xưa là Sấm Truyền?
Tỷ
như em về với màu trăng ấy đã khô khan không còn sinh
khí của sự sống thì dù thi sĩ có gửi đôi dòng cũng
sẽ biệt tăm biệt tích hoặc rơi vào cõi hư không. Và
chiếc lá rơi cũng không còn xào xạc trong sương mù lạnh
cóng… Người đời sau chỉ còn nghe tiếng dế than đêm,
tiếng gà gáy gọi ngày… Thơ ông bao hàm một triết lý
nhân sinh, nhân ái vẫn còn vang vọng... Tôi nghĩ như vậy!
Dù em có về hay không về còn thấy màu trăng thơ mộng
hay không thấy trăng thì dự báo đó là tấm lòng ưu ái
của thi sĩ đối với lớp tuổi trẻ và cuộc đời ngắn
ngủi sau nầy.
Thơ
của thi sĩ Bùi Giáng lấp lửng nửa chừng, nhưng lại
soi rọi về cội nguồn. Ông để lại cho đời sau một
vài câu nói thú vị “Muốn bàn tới thơ, muốn diễn
dịch thơ thì tốt nhứt hãy làm một bài thơ khác” Và
“Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và
chết đi giữa ly kỳ gay cấn”.
Tôi
chỉ đủ trình độ thẩm thấu và rung cảm một phần
rất nhỏ chứ chưa dám gọi là bình thơ, tôi chỉ mạo
muội viết ra vài dòng, giả dụ có gì sai sót hay xúc
phạm tới thi sĩ, xin ông tha thứ. Tôi viết bốn câu thơ
để tưởng nhớ ông và tạm dừng bài viết.
Thơ
nổi sóng Hàn Giang dìu Bùi Giáng
bước
lên thuyền chở lục bát đi rao
rót
hiu quạnh nhâm nhi thời quên lãng
khùng
điên đâu múa bút tới thiên tào.
Trích
thơ (Trang Y Hạ)
Trang
Y Hạ
Đồng tình với nhận định của anh.
Trả lờiXóa"Vui đắp đỗi trái ngang buồn lây lất
Ngày sông đi mây cũng dạt như bèo
Trăng khánh tận mùa tương tư vĩnh viễn
Người xa Người khát vọng mãi vàng treo..."
Cảm ơn bạn. Chúc bạn sức khỏe!
Trả lờiXóa