Thư viện

20/5/24

HOA VỚI NÀNG KIỀU

 



HOA VỚI NÀNG KIỀU

Trang Y Hạ

     Trước khi bàn về chữ Hoa trong Truyện Kiều, thiết nghĩ cũng nên tìm hiểu về nguồn gốc của các loài Hoa.


     Loài người biết tới Bông Hoa từ hàng ngàn năm về trước (theo Hán Tự gọi là Hoa), còn theo (chữ Nôm gọi là Bông). Tuy biết về loài hoa lâu dài như vậy, nhưng chẳng có một ai hiểu rõ cách thức tiến hóa cũng như nguồn gốc tổ tiên của các loài bông hoa sinh tồn ra sao. Bằng với khoa học, kỹ thuật, hiện nay các nhà nghiên cứu đã biết chắc - các loài bông hoa có một vai trò hết sức quan trọng trong hệ thực vật.

     Hoa bông, vốn là loài sinh sản không khác gì con người – đó là nhụy hoa, phấn hoa cho ra - trái và hột. Trái, hột đã nuôi sống con người. Bông hoa còn cho một số lượng đường mật do loài ong hút từ nhụy hoa. Chính mật ong tự nhiên là nguồn thực phẩm bổ dưỡng từ mấy ngàn năm trước. Người Hy Lạp đã phát giác và họ gọi là: “trăng mật” hay “tuần trăng mật”. Bông hoa cũng là thực phẩm, như: Bông cải trắng, Atiso, bông điên điển, bông thiên lý, bông so đũa, bông cúc… Bông hoa cũng là những vị thuốc Bắc, thuốc Nam dùng để chữa bách bệnh. Nhà sinh học Harve Sauquet cho rằng “Loài người chưa hiểu hết nguồn gốc cũng như sự tiến hóa của các loài hoa”. Ông Darwin cũng cùng một ý kiến như vậy và ông còn nói: “Sự đa dạng hóa bất thường ở loài hoa là một bí ẩn khó giải thích”.

     Trong thiên nhiên, những cây cỏ cho ra bông hoa chiếm khoảng - chín mươi lăm [95%] trong số lượng thực vật kể từ xa xưa cho tới ngày nay. Người ta ước tính có khoảng hơn ba ngàn hai trăm [3, 200] loài hoa trên thế giới. Riêng loài hoa lan có gần hai ngàn năm trăm [2.500] loài khác nhau. Hầu hết bông hoa có ở trong rừng. Tuy nhiên, con người thích bông hoa nên đã đem về nhà trồng để làm cây kiểng cũng như kinh doanh. Ngoài ra, cũng có một số loài bông hoa được lai tạo giống - với đủ màu sắc lung linh trông rất đẹp mắt. Hơn nữa là người ta còn làm bông hoa giả bằng nhựa...

     Bông hoa đã đi vào nghệ thuật – Bông hoa là biểu tượng của bộ phận sinh dục phụ nữ - (trong tác phẩm của Georgia Keeffe). Hoa xuất hiện trong thơ vào thời kỳ lãng mạn ở thế kỷ mười tám [18] và mười chín [19]. Đó là bài “Hoa Thủy Tiên” của (William Wordsworth). Hoa còn xuất hiện cả trong giấc mơ “Một giấc mơ hoa”. Theo thần thoại La Mã, (Flora) là vị nữ thần của Hoa. Theo thần thoại Hy Lạp, (Chloris) là nữ thần của mùa xuân tràn ngập các loài hoa nở... Hoa còn hiện diện trong tranh vẽ. Bức vẽ “Hoa Súng” của Họa sĩ (Claude Monet). Bức vẽ “Hoa Hướng Dương” và “Hoa Diên Vĩ” của Họa sĩ (Van Gogh) đã nổi tiếng thế giới với giá bán hàng chục triệu Mỹ Kim.
                                   

                                    o0o

                Chữ Hoa Trong Truyện Kiều:

     Những chữ Hoa mà thi sĩ Nguyễn Du đã diễn tả qua từng giai đoạn trong cuộc đời của cô:

     Trong Truyện Kiều có cả thảy - Một trăm ba mươi lăm [135] câu thơ có Hoa và dính dáng tới hoa. Ngoài ra còn có ba câu thơ [3] hai chữ [2] chữ Hoa, có một câu thơ. Gió hiu hiu thổi một vài bông lau”. [c98] .

     Vậy Truyện Kiều chỉ : - Một trăm hai mười lăm [125] chữ Hoa (chữ Bông không tính).

Tiểu thư vội thét: Con Hoa!”. [c1844]
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,”. [c1849]

     Những chữ Hoa tuần tự đến với Cô Kiều theo từng giai đoạn trôi nổi, lưu lạc nơi xứ người và đã chịu quá nhiều tủi nhục từ tinh thần đến thể xác. Thiết nghĩ, thì tất cả các thứ hoa đó chỉ là hoa bị vùi dập tả tơi; hoa bị héo tàn theo thời gian…! Tuy nhiên “hoa” mà thi sĩ Nguyễn Du tặng cho cô Thúy Kiều cũng có một khoảng thời gian ngắn ngủi - đã (tươi vui trở lại). Đó là lúc Cô Kiều gặp Thúc Sinh, Cô nghĩ rằng Thúc Sinh là “cái phao” cứu cô ra khỏi sóng gió ba đào của cái số kiếp bị đày đọa ở thanh lâu, - nhưng, cũng chính sự gặp gỡ đó mà Cô Kiều lại bị rơi vào một hoàn cảnh khác càng đau khổ hơn - bởi Hoạn Thư vợ cả Thúc Sinh. Tiếp tới “hoa” Cô Thúy Kiều (tươi tắn trở lại) lần hai, đó khi tương ngộ đấng anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng là Cô Kiều gặp lại Kim Trọng người yêu xưa, để rồi chấm dứt - mười lăm năm lưu đày khổ ải.

     Dưới đây là những câu thơ có chữ “Hoa” hoặc câu gián tiếp câu có chữ Hoa mà thi sĩ Nguyễn Du đã dùng một cách tài tình trong từng bước chân lưu lạc của cô Thúy Kiều.
***
Tạm chia ra từng giai đoạn:
*- Một: - (Giai Đoạn Kiều & Kim Trọng, gặp nhau trong lúc song thân đi dự tiệc... Bên hiên Lãm Thúy, hai người đã thề non hẹn biển. Và hai người bàng hoàng khi nghe tin buồn Kim Trọng phải về Liêu Dương thọ tang.).

     Phần nhiều (trai, gái) yêu nhau thật tâm, họ thường có ý định đi tới tương lai phù hợp với thuần phong mỹ tục cũng như luật lệ đã có từ lâu. (Tuy rằng họ có lén lút hẹn hò). Thúy Kiều và Kim Trọng cũng không ngoại lệ, - yêu nhau chân thành - là phải biết tôn trọng và giữ gìn phẩm giá, tư cách, nhân cách của đôi bên.

1- Hoa cười ngọc thốt đoan trang, [c21]
2- Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. [c26]
3- Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa. [c78]

4- Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. [c98]
[1] (Bông = Hoa).

5- Lại càng ủ dột nét hoa, [c103]
6- Kiều rằng: Những đấng tài hoa, [c116]
7- Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. [c147]
8- Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. [c153]
9- Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa. [c161]

10- Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. [c163]
[1] - (Gián Tiếp ví như hai (hoa).

11- Kiều từ trở gót trướng hoa, [c172]
12- Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! [c181]
Thềm hoa khách đã trở hài, [c212]
13- Hoa trôi bèo dạt đã đành, [c220]

14- Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa? [c227]
15- Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu? [c273]
16- Nặng lòng xót liễu vì hoa [c336]
17- Vội vàng lá rụng hoa rơi [c362]

18- Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường. [c378]
[2] - (Gót Sen, Gián Tiếp ví như hoa).

19- Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng, [c379]
20- Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông [c381]
21- Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm. [c385]
22- Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa! [c403]
23- Anh hoa phát tiết ra ngoài, [c 416]
24- Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. [c417]
25- Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về. [c431]

26- Tiếng sen sẽ động giấc hòe, [c438]
[3] - (Gián Tiếp ví như hoa).

27- Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. [c439]
28- Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa. [c443]
[1] - (Câu có 2 chữ Hoa).

29- Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. [c462]
30- Hoa hương càng tỏ thức hồng, [c498]

31- Vẻ chi một đóa yêu đào, [c504]
[4] - (Gián tiếp ví như hoa)

32- Vội chi liễu ép hoa nài, [c522]
33- Cửa sài vừa ngỏ then hoa, [c530]
34- Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng. [c573]

35- Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! [c635]
[2] - (Câu thơ có hai chữ Hoa).

*Hai: - (Giai đoạn bán mình).

36- Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. [c637]
37- Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây. [c679]

*Ba: - (Ký giấy bán thân).

38- Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao. [c687]
39- Thề hoa chưa ráo chén vàng, [c702]
40- Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa. [c703]
41- Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng. [c755]
42- Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, [c780]

43- Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. [c793]
[5] - (Gián tiếp ví như hoa).

*Bốn: - (Đêm đầu tiên Kiều “thất thân” cùng với Mã Giám Sinh ở nhà trọ).

44- Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. [c809
45- Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn. [c821]
46- Về đây nước trước bẻ hoa, [c828]

47- Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. [c837]
[3] - (Câu thơ có hai chữ Hoa).

48- Tiếc thay một đóa trà mi, [c846]
[6] - (Gián tiếp ví như hoa).

49- Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. [c851]

*Năm: - (Giai đoạn cả nhà Vương Ông tiễn Kiều ra đi với Mã Giám Sinh).

Đùng dùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.”.

* Sáu: (Tú bà bắt lạy thần mặt trắng).

50- Hương hôm hoa sớm phụng thờ. [c934]

*Bảy: - (Tú bà bắt tiếp khách lần thứ nhất).

51- Đổi hoa lót xuống chiếu nằm, [c938]
52- Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi! [c939]
53- Sợ gan nát ngọc liều hoa! [c984]
54- Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài. [c1007]
55- Hoa trôi man mác, biết là về đâu? [c1051]

*Tám: - (Giai đoạn Sở Khanh lừa Kiều).

Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, 1050. Hoa trôi man mác, biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị”.

56- Một tay chôn biết mấy cành phù dung! [c1161]
[7] - (Gián tiếp ví như hoa).

57- Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa? [c1069]

58- Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành. [c1093]
[8] - (Gián tiếp ví như hoa).

59- Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời. [c1137]
Thân lươn bao quản lấm đầu, Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!”.

c1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu. Bày vai có ả Mã Kiều, Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan. Mụ càng kể nhặt, kể khoan, Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha. 1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà, Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời: Thôi đà mắc lận thì thôi! Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh? Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, 1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung!”.

*Chín: - (Giai đoạn tú bà bắt Thúy Kiều tiếp khách lần thứ nhì, sau khi bị Sở Khanh lừa).

60- Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. [c1215]
61- Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? [c1237]
62- Đôi phen gió tựa, hoa kề, [c1242]
63- Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa [c1247]

64- Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. [c1263]
[9] - (Gián tiếp ví như hoa).

*Mười: - (Giai đoạn Thúy Kiều gặp Thúc Sinh).

65- Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? [c1265]
66- Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, [c1280]
67- Trướng tô giáp mặt hoa đào, [c1282]

68- Hải đường mơn mởn cành tơ, [c1284]
[10] - (Gián tiếp ví như hoa).

69- Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, [c1286]
70- Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. [c1311]
71- Thiếp như hoa đã lìa cành, [c1326]
72- Yêu hoa yêu được một màu điểm trang. [c1337]
73- Sá chi liễu ngõ hoa tường? [c1356]

*Mười một: - (Bị quan huyện đặt điều kiện: Trở về lại lầu xanh hay bị gia hình). Dù gì thì Thúy kiều cũng là con nhà danh giá, có học thức. Trước lời đề nghị của quan huyện, Thúy Kiều nhận lời làm thơ để thoát tội. Đề bài thơ là “Cái Gông”. Thúy Kiều vịnh xong đưa quan huyện xem. Bài vịnh:

*Mười hai: - (Thúy Kiều chấp nhận làm thơ).


Phiên Âm:
Hoàng-Oanh-Nhi Khúc. Ngã dữ mộc vi cừu. Hỉ khuyên sáo trung đắc xuất đầu. Cảm phương viên dà cái toàn thân xũ. Hà tằng mi vũ tu. Tọa tỉnh khả ưu. Khả linh lệ ngấn lệ lưu bất đáo chẩn hòa tụ [trù]. Tạ hiền hầu. Giao nhân cường hang, tái bất hứa phóng ca hầu.”
Dịch:
(Ta với cây là thù. Trong khuôn khổ mừng được ló đầu. Vuông tròn che toàn thân cảm thấy xấu. Tai mắt thẹn gì đâu. Đáy giếng âu sầu. Đáng thương áo xiêm chẳng thấm, giọt lệ cứ tuôn mau. Tạ hiền hầu. Cổ bị cứng, giọng hát nghẹn trong yết hầu.).

Quan huyện khen thơ nàng hay và ra lệnh không phạt.

(Có một vài chi tiếc khá thú vị là ở chỗ quan Huyện ngồi trên Tòa xử án – không lo xử án lại còn ra đề “Cái Gông” để cho Cô Thúy Kiều làm thơ rồi “khen hay” và tha bổng. Theo Hán Tự, chữ “quan” là cái mũ, còn trong chữ quan có hai chữ “khẩu” – “quan nói hiếp” hay nói thực cũng được - vì ông quan có tới hai “cái miệng”. Sở dĩ quan Huyện tha cho cô Thúy Kiều là đã có chuyện “lo lót – lót tay” tiền bạc - từ Thúc ông (cha của Thúc Sinh), hoặc chính Thúc Sinh bày ra chuyện “hối lộ” đó để cứu Thúy Kiều. Xưa nay không một ông quan Huyện nào lại nhàn nhã (mở phiên tòa) xử án mà lại ra đề thơ cho “tội nhân” làm, sau đó khen hay rồi tha bổng).
74- Song song vào trước sân hoa lạy quì. [c1409]
75- Tuồng chi hoa thải hương thừa, [c1414]

76- Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. [c1427]
[11] - (Gián tiếp ví như hoa)

77- Trăng hoa song cũng thị phi biết điều. [c1449]
78- Tiên hoa trình trước án phê xem tường. [c1455]
79- Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao. [c1467]

80- Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh. [c1475]
[12] - (Gián tiếp ví như hoa)

81- Từ nghe vườn mới thêm hoa, [c1536]
82- Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa: [c1539]
83- Dưới hoa dậy lũ ác nhân, [c1642]

* Mười ba: (Giai đoạn Hoạn Thư cho người đánh thuốc mê bắt cóc Kiều).

84- Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân, [c1704]
85- Nước trôi hoa rụng đã yên, [c1706]

86- Xót thay đào lý một cành, [c1742]
[13] - (Gián tiếp ví như hoa).

87- Hoa nô truyền dạy đổi tên, [c1744]
88- Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi. [c1767]

(Thúy Kiều nhớ nhà).

c1785. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng, Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau. Bốn phương mây trắng một màu, Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Lần lần tháng trọn ngày qua,”.

89- Sen tàn cúc lại nở hoa, [c1796]

[4] - Câu có 1 chữ Hoa, và tên Hoa Sen). Sen tức là Hoa.

*Mười bốn: - (Giai đoạn, Thúy Kiều gặp lại Thúc Sinh ở nhà Hoạn Thư).

90- Tiểu thư vội thét: Con Hoa! [c1844]
91- Rằng: Hoa nô đủ mọi tài, [c1849]
(Có hai chữ “Con Hoa, Hoa Nô, chỉ người).

92- Cúi đầu quỳ trƣớc sân hoa, [c1896]
93- Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. [c1915]
94- Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường. [c1919]
95- Nàng từ lánh gót vườn hoa, [c1926]
96- Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng. [c1943]
97- Chúa xuân để tội một mình cho hoa! [c1947]
98- Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa. [c1981]
99- Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh. [c1987]
100- Hoa rằng: Bà đã đến lâu, [c1995]
101- Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa! [c2019]

*Mười lăm: - (Giai đoạn Thúy Kiều, đi Trốn khỏi nhà Hoạn Thư).

102- Cất mình qua ngọn tường hoa, [c2028]
103- Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời. [c2063]
104- Kiệu hoa đặt trước thềm hoa, [c2146]
105- Chém cha cái số hoa đào, [c2152]

*Mười sáu: - (giai đoạn Thúy Kiều gặp Từ Hải)

106- Rộng thương cỏ nội hoa hèn, [c2198]
107- Vinh hoa bỏ lúc phong trần, [c2288]
108- Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi. [c2345]
109- E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa. [c2487]
110- Còn chi nữa cánh hoa tàn, [c2586]
111- Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền, [c2602]
112- Dưới đèn sẵn bức tiên hoa, [c2626]

c2699. Đánh tranh chụm nóc thảo đường Một gian nước biếc mây vàng chia đôi”. (Câu thơ hay)

113- Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. [c2749]

*Mười bảy: (Giai đoạn Kiều trở về nhà đoàn tụ cùng gia đình).

114- Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo. [c2813]
115- Vội về sửa chốn vườn hoa, [c2822]
116- Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. [c2863]
117- Phòng xuân trướng rủ hoa đào, [c2878]
118- Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa. [c2899]
119- Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, [c2932]
120- Rõ ràng hoa rụng hương bay [c2998]
121- Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, [c3026]
122- Kiệu hoa giục giã tức thì, [c3034]
123- Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, [c3036]
124- Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. [c3061]
125- Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương. [c3095]
126- Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. [c3097]
127- Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. [c3101]
128- Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! [c3107]
129- Hoa tàn mà lại thêm tươi, [c3124]
130- Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. [c3133]]
131- Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình. [c3145]
132- Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. [c3155]
133- Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi? [c3165]
134- Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? [c3177]
135- Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. [c3225]

     Đọc chữ Hoa trong Truyện Kiều, mới nhận ra rằng – dù ở bất cứ xã hội nào thì người phụ là những “bông hoa” xinh đẹp và rất đẹp - để ngắm – để làm kiểng – nhưng khổ thay là để làm kiểng cho bọn nhà giàu, bọn quan quyền. Người đời [họ] không ngắm, không làm kiểng mà đem gả bán trao đổi qua lại như một món hàng. Thời nào, xã hội nào cũng có “nàng kiều” nối nghiệp nàng kiều không bao giờ chấm dứt (chỉ nhiều hay ít) mà thôi.

Kiều ơi, em khổ một đời
Họa vô đơn chí lầm người bán tơ
Ba trăm năm ngỡ phai mờ
Hồn em lãng vãng dật dờ làm chi.
(Trích thơ: Trang Y Ha).

Trang Y Hạ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét