Thư viện

20/5/24

CHỮ XUÂN -TRONG TRUYỆN KIỀU

 



CHỮ XUÂN – TRONG TRUYỆN KIỀU


         “Mưa xuân lác đác vườn đào,
       Công anh đắp đất, ngăn rào trồng hoa” (Ca dao).
    

      Trong truyện Kiều của thi sĩ Nguyễn Du có cả thảy: Năm mươi lăm [55] câu thơ có chữ Xuân. Nhưng nếu mà đếm chữ thì lại có tới năm mươi bảy [57] chữ Xuân, bởi vì có hai câu có cùng hai chữ Xuân. Ngày xuân lắm lúc đi về cùng xuân”. Và, “Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng”. Ngoài những câu thơ có chữ Xuân ra, trong suốt truyện Kiều thi sĩ Nguyễn Du cũng đã tả nhiều cảnh mùa xuân mà chẳng có chữ xuân nào. Chúng ta có thể hiểu, bởi do ảnh hưởng đường thi, nên cỏ cây hoa lá trong truyện Kiều thật là kiêu sa, rực rỡ và trang trọng nhưng lại không mấy uyển chuyển mềm mại và gần gũi… Nguyễn Du (1765 – 1820). Truyện Kiều của ông là một tác phẩm văn học cổ điển lừng danh viết bằng chữ Nôm. Ông sống tới - năm mươi lăm [55] tuổi, tương ứng với - năm mươi lăm câu thơ có chữ “xuân”. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên đến kỳ lạ…!


     Thúy Kiều, người con gái vừa tới cập kê đã phải gánh chịu oan khiên giá họa, phải bán mình để lấy tiền chuộc cha.

Xót người quê bỏ ra đi
con thuyền nhỏ tự do thì thiết tha
nước mây chao đảo trăng tà
chân trời quê mẹ lùi xa xa dần.
                                                  Trích thơ (Trang Y Hạ).

     Nàng đã hy sinh mười lăm mùa xuân lang bạt khắp mọi nơi, chịu trăm ngàn cay đắng lẫn tủi nhục. Cuối cùng, nàng còn giữ được mạng sống để trở về quê nhà gặp lại người thân thì kể ra cũng còn có phúc. Mùa xuân của nàng Kiều không nhiều lắm ngoài thời gian còn ở với cha mẹ các em và Kim Trọng ra, thì nàng chỉ có mấy lần tạm gọi là có mùa xuân. Đó là: Thời gian ở với Thúc Sinh…! (Dù ngắn ngủi và phải ra tòa chịu đánh đập, tra tấn dã man vì Thúc Ông kiện cáo). Thời gian ở với Hoạn Thư sau khi bắt Kiều về đánh cho hả giận, rồi cho nàng chép kinh ở Quan Âm Các. Thúy Kiều lo sợ bị trả thù nên đã bỏ trốn “Cửa Thiền vừa cữ cuối xuân”  . Ngày xuân ngắn ngủi sống yên bình ở chùa với Sư trưởng Giác Duyên. Mùa xuân này chỉ có ba câu thơ và cũng chỉ là mốc thời gian “cuối xuân” mà thôi. Đó là: Thời gian nàng ở với Từ Hải cũng ngắn ngủi bởi mỏi mòn chờ đợi…! Thời gian trở về nhà gặp lại người thân và Kim Trọng – đoàn tụ và đối diện tình duyên (người xưa) cũng lắm bẽ bàng.

Đêm xa quốc gọi tỉ tê
Liêu Dương, Vô Tích câu thề gãy đôi
Nguyễn Du cảm cảnh bồi hồi,
Xé lòng Ngưng Bích đơn côi vỗ bờ.
Trích thơ (Trang Y Hạ)

                              Hãy Đón Xuân Với Thúy Kiều:


      Vào truyện, Nguyễn Du đã cho biết sơ sơ qua gia phong nề nếp và tuổi xuân của hai chị em nàng Kiều: “Phong lưu rất mực hồng quần”. Vậy mà gia đình Thúy Kiều từ chỗ yên ấm bỗng dưng tai bay vạ gió làm cho tan nát - nàng Kiều phải ra ngoài sương gió chịu trăm ngàn đắng cay. Tuy nhiên mùa xuân không bao giờ phai mờ, xuân tới xuân đi đem lại cho đời với biết bao hy vọng, nếu không có mùa xuân cho muôn loài hoa nở thì trái đất sẽ khô khan.

1 - Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê.

     Nàng Thúy Kiều khi còn ở với gia đình tuy gia cảnh vào bậc trung lưu, nhưng cuộc sống Thúy Kiều chẳng khác gì một khuê nữ đài các kín cổng cao tường. Nàng chưa hiểu biết gì nhiều về tình yêu, về nhân tình thế thái. Mùa xuân, ngày lễ Thanh Minh nàng cũng cùng đi với các em cho khuây khỏa đồng thời tận hưởng hương xuân dù xuân bước qua tháng ba còn sót…!

2 - Ngày xuân con én đưa thoi,

Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.


     Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Hai câu nầy tuy thiếu chữ xuân. Nhưng khi đọc..., cũng hiểu ra rằng Nguyễn Du đã tả cảnh mùa xuân thật sống động. Mùa xuân của tháng ba vẫn còn cỏ non, hoa vẫn còn nở và trai thanh gái lịch háo hức chuẩn bị đi chơi xuân. “Gần xa nô nức yến anh”,

3 - Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.


     Trong mỗi người sinh ra, đều có mệnh số hay căn phần nào đó…! Tốt xấu, giàu nghèo cũng như tương lai tất cả đều không thể biết trước. Tất cả chỉ là ước đoán…! Thúy Kiều cùng các em đi dự tiết Thanh Minh vô tình nhìn thấy ngôi mộ vô chủ, cây cỏ phủ kín hoang vu lạnh lẽo không một ai nhang khói. Nàng chạnh lòng thương cảm…! Em nàng, Vương Quan kể cho nàng nghe: Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Kiếp hồng nhan có mong manh,”! Thương cho nàng kỹ Nữ Đạm Tiên. Cùng là phận gái, cũng tài hoa như nhau, Kiều đã không cầm lòng mà thố lộ nỗi thương tâm…!

4 - Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.


     Trong khi viếng mộ Đạm Tiên, Chị em Thúy Kiều gặp Kim Trọng. Trong mắt Kim Trọng: Hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân đều sắc nước hương trời…! Không khác gì hai nàng Đại Kiều và Tiểu Kiều của thời Tam quốc xa xưa.

5- Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều.


     Kim Trọng là bậc tài danh đương thời. Chàng cảm nhận và yêu mến tài sắc của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân một cách thán phục, thánh thiện trong lần gặp gỡ đầu tiên đó.

6 - Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
     

     Và, cuộc tình của (Thúy Kiều - Kim Trọng) hình thành trong tâm tưởng. Thúy Kiều tự hỏi Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?” . Để rồi khi cả hai người chia tay nhau để trở về nhà nhưng trong lòng mỗi người đều mang một nỗi nhớ, nỗi buồn man mác ở trong tâm lòng…!

7 -Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.


     Kim Trọng trở về nhà, khi đó trong lòng mới hiểu ra rằng đã thầm thương nhớ Thúy Kiều không nguôi, nên chàng Kim Trọng tìm cớ đi du học. Chàng thuê nhà gần nơi ở của Thúy Kiều, (Thành Bắc Kinh). Nơi Kim Trọng thuê nhà để ở, nơi đó có “Hiên Lãm Thúy” mà sau này hai người hẹn hò gặp gỡ, trao cho nhau kỷ vật làm tin. Hai người cũng tính tới hôn nhân và sẽ cậy nhờ người mai mối. 


     Dưới đây là đoạn đối thoại qua lại tràn đầy yêu thương của Kim Trọng và Thuý Kiều:

8 - Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi.

Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,”

9- Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

10 -Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,


Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru! Lặng nghe lời nói như ru,”

11 - Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.


     Kim Trọng và Thúy Kiều, tình thắm duyên ưa “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.”. Cả hai người trông chờ tin tốt từ gia đình cho cuộc hôn nhân của họ.

12 - Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.


Và, hai người qua lại hồn nhiên trong niềm tin yêu của mùa xuân, của tuổi trẻ... Lần lần ngày gió đêm trăng,”!

13 - Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.


Kim Trọng và Thúy Kiều tràn đầy hy vọng. Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.”!

14 -Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.


     Thừa lúc song thân đi dự tiệc. Thúy Kiều và Kim Trọng qua lại tâm tình với nhau… Dư âm còn để lại trong giấc xuân mơ màng.

15 - Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.


     Nhưng rồi, tai bay vạ gió biết đâu mà lường… Bỗng dưng người nhà Kim Trọng đưa tin: Kim Trọng phải về Liêu Dương để thọ tang người chú…!Cuộc chia tay lần nầy như một “định mệnh” đưa đẩy hai người cách xa nhau những mười lăm năm…!

Liêu Dương ngàn dặm xa chi đó, Khéo để Lâm Tuy bướm dập diều”.

16 - Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang,


     Tiếp đến, gia đình Thúy Kiều cũng gặp tai họa bởi thằng bán tơ, Thúy Kiều đành phải bán mình để lấy tiền lo lót cho quan tham mà chuộc cha khỏi bị cảnh tù đày. Thời nào cũng vậy, hễ có tiền lo lót thì chuyện dữ cũng hóa ra lành.

17 - Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.


     Nàng tự trách mình là làm con mà chưa một lần đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục. Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.”. Thúy Kiều nghĩ tới cha mẹ già như vậy quả là người con có hiếu thảo.

18 - Cỗi xuân tuổi hạc càng cao.


     Thúy Kiều đau xót cho mối tình đầu dang dở, oan nghiệt… Nàng tự trách mình đã phụ bạc lời thề với người mình yêu Kim Trọng. Đêm khuya nàng trằn trọc thở dài nước mắt rơi thấm ướt gối…!

19 - Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân.
Thúy Kiều nảy ra ý nghĩ cậy nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa “tình” cho Kim Trọng. Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!”

20 - Ngày xuân em hãy còn dài.
     

     Thúy Vân thức giấc thấu hiểu nỗi đau chị. Thúy Kiều, Thúy Vân cùng ngồi than thở làm cho cha mẹ nàng thức giấc. Ông bà tìm cách an ủi Thúy Kiều.
 
21 - Xuân Huyên chợt tỉnh giấc nồng.


     Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều, nói là về làm vợ lẻ, nhưng thật ra là đưa về nhà mụ vợ già, vốn là một mụ tú bà để câu khách đào hoa giàu có lắm tiền nhiều bạc. Do quen thói ăn chơi trác táng của gã họ Mã, nên Thúy Kiều thất thân ngay trong đêm mà gã họ Mã đưa nàng về “trú phòng”…!

22 - Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.


     Nàng nhớ tới Kim Trọng và hối tiếc: Biết thân đến chốn lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.”. Để rồi…” Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về. Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.”!

23 - Đêm xuân một giấc mơ màng.

     Trên danh nghĩa là họ Mã mua Thúy Kiều về làm vợ. Vậy mà đêm xuân ấy chỉ là một giấc mơ màng, rồi sau khi xong cuộc… đuốc hoa thì để đó, còn nàng thì nằm trơ ra như một xác chết. Chàng họ Mã lẻn đi đâu mất, bỏ mặc cho nàng nằm trơ trọi mà chẳng có một lời an ủi…!


     Nàng Kiều bị mụ tú bà, vợ hờ của họ Mã ép tiếp khách. Nàng ngần ngại không chịu. Nhưng rồi sau đó mụ ta biết thằng chồng hờ họ mã đã “phỗng tay trên” sự trinh trắng của Thúy Kiều. Mụ tú ra tay đánh đập nàng thậm tệ, rồi cho Thúy Kiều ra ở lậu Ngưng Bích. Mụ còn khuyên Thúy Kiều hãy suy nghĩ lại vì hoa còn đang xuân, cuộc đời còn dài. Mụ tú cho Kiều ra Lầu Ngưng Bích là đã có sự tính toán.

24 - Hoa xuân phong nhụy, ngày xuân còn dài.


Trước cảnh bị ép buộc phải tiếp khách và những trận đòn thù của mụ Tú bà, Thúy Kiều cũng đành ngậm ngùi buông xuôi. Cũng là lỡ một lầm hai, Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa!

25 - Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.


     Tú bà dùng những lời nói ngon ngọt dỗ dành khuyên nhủ đủ điều. Thấy lời quyết đoán hẳn hoi, Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.”! Câu “Khóa buồng xuân”, phải hiểu theo nghĩa khác. Đó là lời hứa ngầm của mụ Tú bà rằng: Ta đây không ép con tiếp khách nữa; con cứ khóa buồng xuân lại đi, rồi từ từ ta sẽ tìm một mối lương duyện thật xứng đáng để gã con Người còn thì của hãy còn, Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà”. Con cái nhà…”, mà mụ Tú bà muốn nói, đó chính là gã họ Sở và cái lầu Ngưng Bích. Cái bẫy lưới âm mưu hãm hại nàng Kiều quá lớn, với sức nhỏ nhoi của một cô gái thơ ngây mới bước chân vào đường đời làm sao có thể thấu hiểu. Thúy Kiều đã mắc kế “đà đao” - hồi mã thương, của mụ Tú bà và gã Sở Khanh mà không hề hay biết.

Sở Khanh, cụ quả đại tài
 thơ dụ-gái, chẳng có ai sánh bằng
 Tú Bà chỉ biết hung-hăng
 dùng roi vọt, có xót chăng gái lành” .
    (Trích thơ “Uống Rượu Với Cụ Sở Khanh” của Trang Y Hạ).

26 - Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân.


     Thúy Kiều ngồi ở trên lầu Ngưng Bích. Nàng nhìn ra ngoài biển, để rồi nàng mơ ước: - phải chi có một con thuyền nào đó ghé vào cứu đưa nàng về lại chốn quê nhà hay ít ra cũng giúp nàng trốn khỏi cái nơi nàng đang bị người ta hành hạ, tủi nhục..!.   Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác, biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”. Bỗng đâu có một anh chàng dáng vẻ thư sinh ghé thăm và đề thơ.

27 - Một chàng vừa trạc thanh xuân


     Mụ tú bà muốn để cho Thúy Kiều “tâm phục, khẩu phục” mà “tự nguyện” chịu tiếp khách làng chơi… Mụ ta thuê tên du thủ du thực, nhưng có tài văn thơ, đó là Sở Khanh “đóng một vở kịch” hầu lừa Thúy Kiều trốn đi… Đến khi mọi chuyện đổ bể nàng bị mụ tú bà đánh đập tàn nhẫn…, còn bị tên họ Sở trở giọng phủi bỏ hết lời thề non hẹn biển bằng mấy bài thơ tình ướt át (thơ dụ gái) và lại hùa theo mụ tú bà đánh nàng. Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân? Mặc người mưa Sở, mây Tần,”!

28 - Những mình nào biết có xuân là gì.


     Thúy Kiều càng bị hành hạ, nàng lại càng nhớ chốn quê nhà đầm ấm ngày xưa mà thương cha, nhớ mẹ. Nàng tiếc nuối đời con gái xuân xanh của nàng đã bị kẻ chuyên tay xem như một món đồ để buôn bán, qua tay…! 

29 - Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.

     Một ngày, bỗng dưng cuộc đời nàng thay đổi; thay đổi từ khi: “Khách du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. Vốn người huyện Tích Châu Thường, Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri. Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. Trướng tô giáp mặt hoa đào, Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa? Hải đường mơn mởn cành tơ,”!. Họ Thúc vốn là người có ăn học, đa tình... Chàng gặp Thúy Kiều và xem nàng là tri kỷ, tri âm. Thúy Kiều chịu cảnh bi ai nên khi gặp Thúc Sinh nàng như vớ được cáo phao, dù là cái phao tạm bợ để thoát cảnh “cá cảnh, chim lồng”.

30 - Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.


     Dù tuổi xuân của Thúy Kiều đã trãi qua “gió - mưa”... Mưa ngoài trời hay là mưa ở trong lòng thì trời đất cũng không nỡ bỏ nàng, và đã cho nàng gặp Thúc Sinh - đó là một sự an ủi – cứ tạm cho là nồng ấm trong “tình nghĩa vợ chồng” kể từ khi nàng lưu lạc nơi xứ người tới nay. Do đó, nàng dễ gì bỏ qua sự may mắn mà trời đã ban cho đó.

31 - Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng.


     Nàng Kiều cứ tưởng rằng: Thúc Sinh đến với nàng, chỉ là khách tìm đi tìm thú vui nhục dục như bao người khách khác. Tuy nhiên ở vào hoàn cảnh của nàng hiện giờ nàng vẫn chấp nhận “hạnh phúc” nhằm kéo đời nàng ra khỏi sự đày đọa... Đối với Thúc Sinh thì không phải như vậy dù gì chàng cũng là người có ăn học, biết phân biệt vàng thau. Chàng đã nhìn Thúy Kiều như một thiên thần trên trời bị đày đọa…! Trước còn trăng gió sau ra đá vàng. Dịp đâu may mắn lạ dường,”!


     Và, cũng thật là may mắn nữa cho Thúy Kiều và Thúc Sinh là Thúc Ông đi xa nay trở lại quê nhà… Và mọi chuyện được sắp đặt (như chuyện đã rồi) cho cuộc hôn nhân, để cùng nhau sống chung mà Thúc Ông phải chấp nhận cho êm cửa, êm nhà. (Dù Thúc ông có kiện đưa Thúy Kiều ra tòa).

32 - Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.

     Thúc Sinh mê mẩn Thúy Kiều cũng phải lẽ thôi vì nàng vừa đẹp vừa có tài Sinh càng một tỉnh mười mê,”! Thúc sinh yêu nàng Kiều vào mùa xuân. Mùa xuân đã tới với nàng lần nữa.

33 - Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.


(Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều hai chữ XUÂN trong một câu thơ)
     Số phận nghiệt ngả đẩy Thúy Kiều ở chốn Thanh Lâu. Nay nàng gặp Thúc Sinh, một người đa tình lãng tử đã có vợ. Thúc Sinh ngỏ ý chuộc nàng ra khỏi lầu xanh. Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.”!

34 - Chúa xuân đành đã có nơi.

     Quãng thời gian gặp Thúc Sinh, Thúy Kiều cũng mong cho mình được danh chính ngôn thuận, cho dù là làm lẻ mọn cũng được, nên nàng khuyên Thúc Sinh trở lại quê nhà mà thú thiệt với vợ cả để đôi bên được hợp lý, hợp tình trên danh nghĩa vợ chồng, nên nàng đã thưa với Thúc ông.

35 - Rạng ra gửi đến xuân đường

     Phần Thúc ông, đã chứng kiến cảnh Kiều và Thúc sinh quấn quýt như vợ chồng, ông cũng khuyên Thúc Sinh nên trở về nhà nói rõ mọi chuyện cho vợ hay. Chuyện năm thê bảy thiệp là chuyện hợp pháp có gì mà phải e ngại miễn là người vợ cả ưng thuận và người chồng lo chu đáo cho gia đình.

36 - Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.


     Thúc Sinh nghe lời Thúc Ông và nàng Kiều, chàng khăn gói trở về nhà “bàn bạc với vợ”. Khi xong việc, Thúc Sinh trở lại nhà Thúc Ông, thì mới hay tin Thúy Kiều bị chết cháy vì hỏa hoạn…! Thúc Sinh khóc than thương tiếc cho số phận hẩm hiu của nàng. Chàng tiếc rằng đã gặp nàng Tiên (Thúy Kiều), giờ lại mất; mất một cách đau đớn bởi không tìm được xác của nàng, xác của nàng đã hóa ra tro bụi….!

37 - Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân.


     Thúc Sinh dằn vật nỗi đau xót theo năm tháng…! Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. Sen tàn cúc lại nở hoa,”!. Kế hoạch bắt Thúy Kiều của Hoạn Thư (vợ cả) của Thúc Sinh, nếu là người đàn bà tầm thương (dân dã) thì không thể nào làm được, sở dĩ Hoạn Thư làm được và làm một cách suôn sẻ, bởi vì nàng là con gái của một vị Thương Thư. Danh dự của nàng và gia tộc quyền quý nàng không thể để Thúc Sinh chồng nàng lấy Thúy Kiều một cô gái lầu xanh về làm vợ lẻ. Đó là lý do chính, còn ghen tương thì ai lại không ghen. Hoạn Thư cũng thừa biết bắt cóc Thúy Kiều là sai luật, nhưng luật lệ không thể đụng chạm tới dòng họ quyền thế của nàng.

     Thúc ông cũng như Thúc Sinh đã không nghĩ tới điều “Danh Dự” đó mà tự mình gây tai họa cho chính mình và cho Thúy Kiều. (Ban đầu Thúc Ông không chấp nhận). Danh dự là điều thiêng liêng dù mất mạng cũng phải bảo vệ. Do đó chúng ta cũng không nên trách Hoạn Thư độc ác. Hoạn thư mà độc ác thì nàng đã giết chết Thúy Kiều. Thật ra trong thâm tâm của Hoạn Thư (cùng phận gái và sắc đẹp tài năng ngang nhau), nàng cũng có phần cảm thương và nể nang Thúy Kiều mà không nỡ nặng tay.

38 - Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.


     Hậu quả đau thương cho Thúc Sinh gặp lại Thúy Kiều nơi nhà người vợ cả là Hoạn Thư, thật là trớ trêu… Từ người yêu lại hóa ra… người bị ‘tù tội’…! Và có thể thấy - tù tội cho cả hai người (Kiều và Sinh). Chàng nhìn nàng “tiên” của mình mà cúi mặt làm thinh, có còn cảnh nào đau xót nhục nhả hơn…!  Tìm đâu cho thấy cố nhân? Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm. Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương. Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,”. Sau đó Hoa Nô Thúy Kiều đã được Hoạn Thư cho ra tu ở cái am “Quan Âm Các” phía sau vườn với pháp danh Trạc Tuyền.

Bụng đầy chữ để cho mình trúng kế
kế “ghen tương” thâm-thúy của đàn bà
chuyện đã vậy, còn đưa tay chịu trói
bỏ người tình thui thủi ở [am ma].

(Trích “Uống Rượu Với Cụ Thúc Sinh” thơ Trang Y Hạ).

39 - Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.


     Thúc Sinh cũng tự bạch nỗi lòng, là đã bỏ rơi Thúy Kiều trong cảnh bị vợ lăng nhục mà không biết cách gì để cứu nàng, mà lại còn đổ thừa cho “chúa xuân”…! Đã cam chịu bạc với tình,”! Đó là một hành động bạc nhược.

40 - Chúa xuân để tội một mình cho hoa.

     Bởi vì: Thấp cơ thua trí đàn bà, Trông vào đau ruột nói ra ngại lời. Vì ta cho lụy đến người,”!. Thúc Sinh không “thấp cơ” mà là “Hèn”, sự hèn rất đàn ông đối với phần nhiều kẻ có gia đình mà còn đi ngoại tình. Một khi vỡ lỡ họ sẵn sàng phủi tay xua đuổi người tình. Họ khác với phụ nữ ở chuyện nầy.

Cụ trơ tráo “đớn hèn” nhìn thục nữ
Quỵ dưới chân vợ chồng cụ gảy đờn
Tình tấm mẳn hẹn thề cụ quên tuốt
Khí nam nhi trong cụ đã sạch trơn.
(Trích thơ “Uống Rượu Với Cụ Thúc Sinh” của Trang Y Hạ)

41 - Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh.


     Thể theo lời yêu cầu của Thúy Kiều. Hoạn Thư xin được đi tu [tu trong cái am trong vườn của Hoạn Thư thì không khác gì ở tù]. Bởi Hoạn Thư đã cho người canh giữ cẩn mật. Thúc Sinh quá hèn không bảo vệ được Thúy Kiều trước người vợ uy quyền thì lối thoát duy nhứt là Thúy Kiều (phải xin) tu để chờ dịp thoát nạn. Chứng tỏ Thúy Kiều khôn ngoan, mạnh mẽ hơn Thúc Sinh.

42 - Cửa thiền vừa tiết cuối xuân.


     Nghĩ mà buồn cho Thúy Kiều! Nàng có xuân và đã mất xuân của cả cuộc đời. Vậy mà ngày [đi tu] lại rơi vào “Tiết cuối xuân”. Tiết xuân trong tù…! Nàng lại nhớ đến cha mẹ, nhớ em, nhớ quê nhà, nhớ Kim Trọng! Đoái thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa,”! Ở trong cảnh tù đày ai mà không nhớ nhà mỗi khi mùa xuân về được đoàn tụ cùng gia đình.

43 - Xót thay huyên cỗi xuân già.


     Bán mình để lấy tiền chuộc cha, nên trong lòng Thúy Kiều luôn nhớ về cha mẹ và lo lắng…! Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi. Chốc là mười mấy năm trời, Còn ra khi đã da mồi tóc sương. Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Duyên em dù nối chỉ hồng, May ra khi đã tay bồng tay mang.”. Thúy Kiều ví mình như ngó sen, cho dù bị người đời bẻ ngang, nhưng sợi tơ trong lòng vẫn còn dùng dằng chưa muốn đứt. Nghĩa là: đối với Kim Trọng nàng vẫn một lòng chung tình và ngày đêm thương nhớ…!


     Hơn mười năm lưu lạc phương người. Thúy Kiều gặp Tướng quân Từ Hải. Trai anh hùng gái thuyền quyên, hai người bèo nước gặp nhau và ân ái mặn nồng hơn nửa năm. Từ Hải chia tay Thúy Kiều để về “Đại bản doanh”, hẹn sẽ trở lại đón Thúy Kiều… !


     Từ Hải là niềm hạnh phúc; là mùa xuân đẹp tuyệt vời trong đời Thúy Kiều - khác hẳn với Thúc Sinh - Thúc Sinh chỉ cho nàng tình yêu nhưng sau đó là “khổ nhục”, bị vợ cả đánh ghen…! Thúc Sinh cúi đầu chịu nhục mà không dám một lời biện minh cho mình, nói chi tới người yêu. Thúc Sinh chỉ có tâm hồn văn thơ lãng mạn…, nặng về nhục dục hơn là tình yêu sâu nặng đối với Thúy Kiều, cho dù có tấm lòng quân tử, mà thiếu nghĩa khí và sĩ khí thì kể như bỏ đi. Từ Hải cho Thúy Kiều tình yêu nồng nàn, biết giữ lời hứa. Đáng trân quý là giúp Thúy Kiều “trả thù” những kẻ đã hại nàng.


     Dưới mắt Triều đình, thì Từ Hải chỉ là “bọn phiến loạn”. [Năm Gia Tĩnh triều Minh không chỉ có mỗi Từ Hải là phiến loạn, trước Từ Hải cũng đã có nhiều nhóm phiến loạn.]. Cái oan ức gia đình Thúy Kiều chịu đau khổ cũng là tại xã hội lúc đó - luật pháp và đạo đức đã quá suy đồi… Bọn quan lại thi nhau ăn hối lộ, vơ vét của cải bá tánh… Từ Hải là một vị tướng có quân đội, có thế lực… Từ Hải với tính cách và phẩm cách của người anh hùng, chàng xứng đáng làm chồng Thúy Kiều. Chàng đã tạm xa Thúy Kiều để ra đi vì nghiệp lớn: Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng dong”. Ấy là mùa xuân mà Thúy Kiều phải xa chồng, sống trong nhớ mong và hy vọng. “Nàng thì chiếc bóng song mai, Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài then mây. Sân rêu chẳng vẽ dấu giày, Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân”. Từ Hải đã xưng bá một vùng… Triều đình muốn đánh dẹp nhưng không đủ sức. Từ Hải nói: Sức nầy ai dễ làm gì được ai”. Từ Hải ngồi ghế chánh án, để xử bọn: Hoạn Thư cậy thế “con ông cháu cha”, lập băng nhóm đi đốt nhà, bắt cóc người về giam cầm và xúc phạm thân thể Thúy Kiều. Từ Hải xử bọn [Bạc Hà, Bạc Hạnh]. Từ Hải xử bọn ma cô, giang hồ [Ưng, Khuyển, Sở Khanh]. Từ Hải xử bọn kinh doanh trên thân xác phụ nữ [Tú bà, Mã Giám Sinh]. Trời cao có mắt. Gieo nhân nào giặt quả nấy. Tiệc bày thưởng tướng khao binh, Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân. Vinh hoa bỏ lúc phong trần,”!

44 - Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.

     Kim Trọng hay tin Thúy Kiều trầm mình chết trên sông Tiền Đường. Chàng vật vã khóc than. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.”! Cha mẹ nàng cũng sầu đau không ít.

45 - Xuân huyên lo sợ biết bao


     Sau đó gia đình Thúy Kiều chọn ngày tác hợp Kim Trọng với Thúy Vân, đúng theo lời Thúy Kiều dặn dò trước lúc ra đi. Vội vàng sắm sửa chọn ngày, Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương,”! Tội nghiệp cho nàng Thúy Vân, nàng không có tình yêu, nàng chỉ là một “người thế thân” của chị mình. Nghĩ cho cùng là nàng chung chạ như vợ chồng với “người anh rể”. Sự hy sinh của Thúy Vân quá lớn.

46 - Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì.


     Kim Trọng và Thúy Vân “kết hôn”, nhưng trong lòng vui không trọn vẹn, bởi Thúy Kiều vẫn “bóng chim tăm cá”…! “Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được nào! Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây. Những là phiền muộn đêm ngày,”! Thiết nghĩ cả hai chị em Kiều – Vân, trong lòng đã có ý nghĩ cả hai cùng lấy một chồng (theo quan niệm thời xưa đó thì không có gì gọi là trái với luân thường, đạo lý).

47 - Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần.  


     Sau một thời gian Kim Trọng và Văn Quan (em trai Thúy Kiều) cùng thi đỗ và được triều đình bổ nhiệm làm quan.

48 - Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.


     Gia đình Vương ông lúc nầy thật hạnh phúc vui vẻ! Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.”! Vậy mới hay xuân đi rồi xuân lại về. Trong cái rủi có cái may. Biết bao thân thận không được “cái may” đó.

49 - Phòng xuân trướng rủ hoa đào.


     Một đêm: Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy Thúy Kiều chị mình đã chết. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng Kim Trọng và cả nhà đi tìm tung tích Thúy Kiều. Mới hay Thúy Kiều còn sống. Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông xem đủ mặt một nhà:”!

50 - Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.


     Thúy Kiều nhìn người thân: “Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Thúy Kiều tự xét mình rằng: “Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,” không biết người yêu xưa đối đãi như thế nào sau nầy?!

51 - Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.


     Kim Trọng Và Thúy Kiều gặp lại nhau trong niềm hân hoan không thể nào kể siết. Họ ôn lại kỷ niệm xưa… Tiếng đờn bây giờ không ai oán, tủi hờn…! Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao. Canh khuya bức gấm rủ thao,”. Niềm vui được đoàn tụ cùng gia đình và người yêu đã góp phần cho Thúy Kiều lấy lại niềm tin vào cuộc sống.

52 - Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.


     Đối với Thúy Kiều - tình đầu cũng là tình cuối -  gặp lại nhau, làm sao mà không quyến luyến cho được…! Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình. Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.”. Và hy vọng:

53 - Chừng xuân tơ liễu còn xanh.


     Thúy Kiều bán mình chuộc cha, chứ nào phải tà dâm. Nàng chẳng lỗi lầm với người yêu Kim Trọng. Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân. Gương trong chẳng chút bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.”!

54 - Khúc đâu êm ái xuân tình.


     Cuối cuộc đoạn trường đầy gian nan khổ nhục, Thúy Kiều đã về với gia đình, tất cả đều sum họp đầy đủ. Phúc lộc đầy nhà.

55 - Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.


     Kể ra Thúy Kiều cũng đã có xuân, dù cho nàng đã bị ba chìm bảy nổi trong những tình cảnh oái ăm của cuộc đời. Nàng vẫn còn có phước gặp lại người thân, gặp lại người yêu cũ. Đã có biết bao nhiêu người con gái sống cùng thời với Thúy Kiều và cũng có biết bao nhiêu người con gái sau nầy… Tất cả họ là “nạn nhân” của một xã hội trọng nam khinh nữ, chắc gì họ đều được có sự may mắn [rất có hậu] là an toàn trở về nơi đã ra đi trong buồn tủi!

   Phôi pha chút phận hồng nhan,
   Mười lăm năm ấy là vàng đấy thôi.
   Chiều nay xuống phố ta ngồi,
  Chờ em, em mãi xa xôi có về! (Trích thơ Trang Y Hạ)


Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!”


Trang Y Hạ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét