CHỮ
XUÂN – TRONG TRUYỆN KIỀU
“Mưa
xuân lác đác vườn đào,
Công
anh đắp đất, ngăn rào trồng hoa” (Ca dao).
Trong
truyện Kiều của thi sĩ Nguyễn Du có cả thảy: Năm mươi
lăm [55] câu thơ có chữ Xuân. Nhưng nếu mà đếm chữ
thì lại có tới năm mươi bảy [57] chữ Xuân, bởi vì có
hai câu có cùng hai chữ Xuân. “Ngày
xuân lắm lúc đi về cùng xuân”. Và, “Lòng xuân phơi
phới chén xuân tàng tàng”.
Ngoài
những câu thơ có chữ Xuân ra, trong suốt truyện Kiều
thi sĩ Nguyễn Du cũng đã tả nhiều cảnh mùa xuân mà
chẳng có chữ xuân nào. Chúng ta có thể hiểu, bởi do
ảnh hưởng đường thi, nên cỏ cây hoa lá trong truyện
Kiều thật là kiêu sa, rực rỡ và trang trọng nhưng lại
không mấy uyển chuyển mềm mại và gần gũi… Nguyễn
Du (1765 – 1820). Truyện Kiều của ông là một tác phẩm
văn học cổ điển lừng danh viết bằng chữ Nôm. Ông
sống tới - năm mươi lăm [55] tuổi, tương ứng với -
năm mươi lăm câu thơ có chữ “xuân”. Một sự trùng
hợp ngẫu nhiên đến kỳ lạ…!
Thúy
Kiều, người con gái vừa tới cập kê đã phải gánh
chịu oan khiên giá họa, phải bán mình để lấy tiền
chuộc cha.
Xót
người quê bỏ ra đi
con
thuyền nhỏ tự do thì thiết tha
nước
mây chao đảo trăng tà
chân
trời quê mẹ lùi xa xa dần.
Trích
thơ (Trang
Y Hạ).
Nàng
đã hy sinh mười lăm mùa xuân lang bạt khắp mọi nơi,
chịu trăm ngàn cay đắng lẫn tủi nhục. Cuối cùng, nàng
còn giữ được mạng sống để trở về quê nhà gặp
lại người thân thì kể ra cũng còn có phúc. Mùa xuân
của nàng Kiều không nhiều lắm ngoài thời gian còn ở
với cha mẹ các em và Kim Trọng ra, thì nàng chỉ có mấy
lần tạm gọi là có mùa xuân. Đó là: Thời gian ở với
Thúc Sinh…! (Dù ngắn ngủi và phải ra tòa chịu đánh
đập, tra tấn dã man vì Thúc Ông kiện cáo). Thời gian ở
với Hoạn Thư sau khi bắt Kiều về đánh cho hả giận,
rồi cho nàng chép kinh ở Quan Âm Các. Thúy Kiều lo sợ bị
trả thù nên đã bỏ trốn “Cửa
Thiền vừa cữ cuối xuân”
.
Ngày xuân ngắn ngủi sống yên bình ở chùa với Sư
trưởng Giác Duyên. Mùa xuân này chỉ có ba câu thơ và
cũng chỉ là mốc thời gian “cuối xuân” mà thôi. Đó
là: Thời gian nàng ở với Từ Hải cũng ngắn ngủi bởi
mỏi mòn chờ đợi…! Thời gian trở về nhà gặp lại
người thân và Kim Trọng – đoàn tụ và đối diện tình
duyên (người
xưa) cũng lắm
bẽ bàng.
Đêm
xa quốc gọi tỉ tê
Liêu
Dương, Vô Tích câu thề gãy đôi
Nguyễn
Du cảm cảnh bồi hồi,
Xé
lòng Ngưng Bích đơn côi vỗ bờ.
Trích
thơ (Trang
Y Hạ)
Hãy
Đón Xuân Với Thúy Kiều:
Vào
truyện, Nguyễn Du đã cho biết sơ sơ qua gia phong nề nếp
và tuổi xuân của hai chị em nàng Kiều: “Phong
lưu rất mực hồng quần”. Vậy mà gia đình Thúy Kiều
từ chỗ yên ấm bỗng dưng tai bay vạ gió làm cho tan nát
- nàng Kiều phải ra ngoài sương gió chịu trăm ngàn đắng
cay. Tuy nhiên mùa xuân không bao giờ phai mờ, xuân tới
xuân đi đem lại cho đời với biết bao hy vọng, nếu
không có mùa xuân cho muôn loài hoa nở thì trái đất sẽ
khô khan.
1
- Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê.
Nàng
Thúy Kiều khi còn ở với gia đình tuy gia cảnh vào bậc
trung lưu, nhưng cuộc sống Thúy Kiều chẳng khác gì một
khuê nữ đài các kín cổng cao tường. Nàng chưa hiểu
biết gì nhiều về tình yêu, về nhân tình thế thái. Mùa
xuân, ngày lễ Thanh Minh nàng cũng cùng đi với các em cho
khuây khỏa đồng thời tận hưởng hương xuân dù xuân
bước qua tháng ba còn sót…!
2
- Ngày xuân con én đưa thoi,
“Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Cỏ
non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài
bông hoa. Hai câu nầy tuy thiếu chữ xuân. Nhưng khi đọc...,
cũng hiểu ra rằng Nguyễn Du đã tả cảnh mùa xuân thật
sống động. Mùa xuân của tháng ba vẫn còn cỏ non, hoa
vẫn còn nở và trai thanh gái lịch háo hức chuẩn bị đi
chơi xuân. “Gần xa nô nức yến anh”,
3
-
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Trong
mỗi người sinh ra, đều có mệnh số hay căn phần nào
đó…! Tốt xấu, giàu nghèo cũng như tương lai tất cả
đều không thể biết trước. Tất cả chỉ là ước
đoán…! Thúy Kiều cùng các em đi dự tiết Thanh Minh vô
tình nhìn thấy ngôi mộ vô chủ, cây cỏ phủ kín hoang
vu lạnh lẽo không một ai nhang khói. Nàng chạnh lòng
thương cảm…! Em nàng, Vương Quan kể cho nàng nghe: “Đạm
Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Kiếp hồng nhan có
mong manh,”!
Thương
cho nàng kỹ Nữ Đạm Tiên. Cùng là phận gái, cũng tài
hoa như nhau, Kiều đã không cầm lòng mà thố lộ nỗi
thương tâm…!
4
- Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Trong
khi viếng mộ Đạm Tiên, Chị em Thúy Kiều gặp Kim Trọng.
Trong mắt Kim Trọng: Hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân đều
sắc nước hương trời…! Không khác gì hai nàng Đại
Kiều và Tiểu Kiều của thời Tam quốc xa xưa.
5-
Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Kim
Trọng là bậc tài danh đương thời. Chàng cảm nhận và
yêu mến tài sắc của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân một
cách thán phục, thánh thiện trong lần gặp gỡ đầu tiên
đó.
6
- Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Và,
cuộc tình của (Thúy
Kiều - Kim Trọng)
hình thành trong tâm tưởng. Thúy Kiều tự hỏi “Người
đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay
không?”
.
Để rồi khi cả hai người chia tay nhau để trở về nhà
nhưng trong lòng mỗi người đều mang một nỗi nhớ, nỗi
buồn man mác ở trong tâm lòng…!
7
-Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Kim
Trọng trở về nhà, khi đó trong lòng mới hiểu ra rằng
đã thầm thương nhớ Thúy Kiều không nguôi, nên chàng
Kim Trọng tìm cớ đi du học. Chàng thuê nhà gần nơi ở
của Thúy Kiều, (Thành Bắc Kinh). Nơi Kim Trọng thuê nhà
để ở, nơi đó có “Hiên Lãm Thúy” mà sau này hai
người hẹn hò gặp gỡ, trao cho nhau kỷ vật làm tin. Hai
người cũng tính tới hôn nhân và sẽ cậy nhờ người
mai mối.
Dưới
đây là đoạn đối thoại qua lại tràn đầy yêu thương
của Kim Trọng và Thuý Kiều:
8
- Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi.
“Khuôn
thiêng dù phụ tấc thành,”
9-
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
10
-Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,
“Công
đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru! Lặng nghe lời nói
như ru,”
11
- Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.
Kim
Trọng và Thúy Kiều, tình thắm duyên ưa “Tình trong như
đã, mặt ngoài còn e.”. Cả hai người trông chờ tin tốt
từ gia đình cho cuộc hôn nhân của họ.
12
- Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.
Và,
hai người qua lại hồn nhiên trong niềm tin yêu của mùa
xuân, của tuổi trẻ... “Lần
lần ngày gió đêm trăng,”!
13
- Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Kim
Trọng và Thúy Kiều tràn đầy hy vọng.
“Xưa
nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.”!
14
-Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
Thừa
lúc song thân đi dự tiệc. Thúy Kiều và Kim Trọng qua lại
tâm tình với nhau… Dư âm còn để lại trong giấc xuân
mơ màng.
15
- Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nhưng
rồi, tai bay vạ gió biết đâu mà lường… Bỗng dưng
người nhà Kim Trọng đưa tin: “Kim
Trọng phải về Liêu Dương để thọ tang người chú…!”
Cuộc
chia tay lần nầy như một “định mệnh” đưa đẩy hai
người cách xa nhau những mười lăm năm…!
“Liêu
Dương ngàn dặm xa chi đó, Khéo để Lâm Tuy bướm dập
diều”.
16
- Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang,
Tiếp
đến, gia đình Thúy Kiều cũng gặp tai họa bởi thằng
bán tơ, Thúy Kiều đành phải bán mình để lấy tiền lo
lót cho quan tham mà chuộc cha khỏi bị cảnh tù đày. Thời
nào cũng vậy, hễ có tiền lo lót thì chuyện dữ cũng
hóa ra lành.
17
- Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Nàng
tự trách mình là làm con mà chưa một lần đền đáp ơn
sinh thành dưỡng dục. “Tóc
tơ chưa chút đền ơn sinh thành.”. Thúy Kiều nghĩ tới
cha mẹ già như vậy quả là người con có hiếu thảo.
18
- Cỗi xuân tuổi hạc càng cao.
Thúy
Kiều đau xót cho mối tình đầu dang dở, oan nghiệt…
Nàng tự trách mình đã phụ bạc lời thề với người
mình yêu Kim Trọng. Đêm khuya nàng trằn trọc thở dài
nước mắt rơi thấm ướt gối…!
19
- Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân.
Thúy
Kiều nảy ra ý nghĩ cậy nhờ Thúy Vân thay mình trả
nghĩa “tình” cho Kim Trọng. “Hiếu
tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!”
20
- Ngày xuân em hãy còn dài.
Thúy
Vân thức giấc thấu hiểu nỗi đau chị. Thúy Kiều, Thúy
Vân cùng ngồi than thở làm cho cha mẹ nàng thức giấc.
Ông bà tìm cách an ủi Thúy Kiều.
21
- Xuân Huyên chợt tỉnh giấc nồng.
Mã
Giám Sinh mua Thúy Kiều, nói là về làm vợ lẻ, nhưng
thật ra là đưa về nhà mụ vợ già, vốn là một mụ tú
bà để câu khách đào hoa giàu có lắm tiền nhiều bạc.
Do quen thói ăn chơi trác táng của gã họ Mã, nên Thúy
Kiều thất thân ngay trong đêm mà gã họ Mã đưa nàng về
“trú phòng”…!
22
- Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.
Nàng
nhớ tới Kim Trọng và hối tiếc: “Biết
thân đến chốn lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người
tình chung.”.
Để
rồi…” Tiếc
thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc
gì đến hương.”!
23
- Đêm xuân một giấc mơ màng.
Trên
danh nghĩa là họ Mã mua Thúy Kiều về làm vợ. Vậy mà
đêm xuân ấy chỉ là một giấc mơ màng, rồi sau khi xong
cuộc… đuốc hoa thì để đó, còn nàng thì nằm trơ ra
như một xác chết. Chàng họ Mã lẻn đi đâu mất, bỏ
mặc cho nàng nằm trơ trọi mà chẳng có một lời an ủi…!
Nàng
Kiều bị mụ tú bà, vợ hờ của họ Mã ép tiếp khách.
Nàng ngần ngại không chịu. Nhưng rồi sau đó mụ ta biết
thằng chồng hờ họ mã đã “phỗng tay trên” sự trinh
trắng của Thúy Kiều. Mụ tú ra tay đánh đập nàng thậm
tệ, rồi cho Thúy Kiều ra ở lậu Ngưng Bích. Mụ còn
khuyên Thúy Kiều hãy suy nghĩ lại vì hoa còn đang xuân,
cuộc đời còn dài. Mụ tú cho Kiều ra Lầu Ngưng Bích là
đã có sự tính toán.
24
- Hoa
xuân phong
nhụy, ngày xuân còn dài.
Trước
cảnh bị ép buộc phải tiếp khách và những trận đòn
thù của mụ Tú bà, Thúy Kiều cũng đành ngậm ngùi buông
xuôi. “Cũng
là lỡ một lầm hai, Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa!
25
-
Khóa
buồng xuân để đợi ngày đào non.
Tú
bà dùng những lời nói ngon ngọt dỗ dành khuyên nhủ đủ
điều.
“Thấy
lời quyết đoán hẳn hoi, Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi
nguôi dần.”!
Câu
“Khóa buồng xuân”, phải hiểu theo nghĩa khác. Đó là
lời hứa ngầm của mụ Tú bà rằng: Ta đây không ép con
tiếp khách nữa; con cứ khóa buồng xuân lại đi, rồi từ
từ ta sẽ tìm một mối lương duyện thật xứng đáng để
gã con “Người
còn thì của hãy còn, Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà”.
“Con
cái nhà…”, mà mụ Tú bà muốn nói, đó chính là gã họ
Sở và cái lầu Ngưng Bích. Cái bẫy lưới âm mưu hãm
hại nàng Kiều quá lớn, với sức nhỏ nhoi của một cô
gái thơ ngây mới bước chân vào đường đời làm sao có
thể thấu hiểu. Thúy Kiều đã mắc kế “đà đao” -
hồi mã thương, của mụ Tú bà và gã Sở Khanh mà không
hề hay biết.
“Sở
Khanh, cụ quả đại tài
thơ
dụ-gái, chẳng có ai sánh bằng
Tú
Bà chỉ biết hung-hăng
dùng
roi vọt, có xót chăng gái lành” .
(Trích
thơ “Uống Rượu Với Cụ Sở Khanh” của Trang Y Hạ).
26
-
Trước
lầu Ngưng Bích khóa xuân.
Thúy
Kiều ngồi ở trên lầu Ngưng Bích. Nàng nhìn ra ngoài
biển, để rồi nàng mơ ước: - phải chi có một con
thuyền nào đó ghé vào cứu đưa nàng về lại chốn quê
nhà hay ít ra cũng giúp nàng trốn khỏi cái nơi nàng đang
bị người ta hành hạ, tủi nhục..!.
“Buồn
trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm
xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác,
biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây
mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt
ghềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”.
Bỗng
đâu có một anh chàng dáng vẻ thư sinh ghé thăm và đề
thơ.
27
-
Một
chàng vừa trạc thanh xuân
Mụ
tú bà muốn để cho Thúy Kiều “tâm phục, khẩu phục”
mà “tự nguyện” chịu tiếp khách làng chơi… Mụ ta
thuê tên du thủ du thực, nhưng có tài văn thơ, đó là Sở
Khanh “đóng một vở kịch” hầu lừa Thúy Kiều trốn
đi… Đến khi mọi chuyện đổ bể nàng bị mụ tú bà
đánh đập tàn nhẫn…, còn bị tên họ Sở trở giọng
phủi bỏ hết lời thề non hẹn biển bằng mấy bài thơ
tình ướt át (thơ
dụ gái) và
lại hùa theo mụ tú bà đánh nàng. “Khi
sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán, ong
chường bấy thân? Mặc người mưa Sở, mây Tần,”!
28
-
Những mình nào biết có xuân là gì.
Thúy
Kiều càng bị hành hạ, nàng lại càng nhớ chốn quê nhà
đầm ấm ngày xưa mà thương cha, nhớ mẹ. Nàng tiếc
nuối đời con gái xuân xanh của nàng đã bị kẻ chuyên
tay xem như một món đồ để buôn bán, qua tay…!
29
-
Cành
xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Một
ngày, bỗng dưng cuộc đời nàng thay đổi; thay đổi từ
khi:
“Khách
du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư
hương. Vốn người huyện Tích Châu Thường, Theo nghiêm
đường mở ngôi hàng Lâm Tri. Hoa khôi mộ tiếng Kiều
nhi, Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. Trướng
tô giáp mặt hoa đào, Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng
ưa? Hải đường mơn mởn cành tơ,”!.
Họ Thúc vốn là người có ăn học, đa tình... Chàng gặp
Thúy Kiều và xem nàng là tri kỷ, tri âm. Thúy Kiều chịu
cảnh bi ai nên khi gặp Thúc Sinh nàng như vớ được cáo
phao, dù là cái phao tạm bợ để thoát cảnh “cá cảnh,
chim lồng”.
30
-
Ngày
xuân càng gió càng mưa càng nồng.
Dù
tuổi xuân của Thúy Kiều đã trãi qua “gió - mưa”...
Mưa ngoài trời hay là mưa ở trong lòng thì trời đất
cũng không nỡ bỏ nàng, và đã cho nàng gặp Thúc Sinh -
đó là một sự an ủi – cứ tạm cho là nồng ấm trong
“tình nghĩa vợ chồng” kể từ khi nàng lưu lạc nơi
xứ người tới nay. Do đó, nàng dễ gì bỏ qua sự may
mắn mà trời đã ban cho đó.
31
-
Đêm xuân ai
dễ cầm lòng được chăng.
Nàng
Kiều cứ tưởng rằng: Thúc Sinh đến với nàng, chỉ là
khách tìm đi tìm thú vui nhục dục như bao người khách
khác. Tuy nhiên ở vào hoàn cảnh của nàng hiện giờ nàng
vẫn chấp nhận “hạnh phúc” nhằm kéo đời nàng ra
khỏi sự đày đọa... Đối với Thúc Sinh thì không phải
như vậy dù gì chàng cũng là người có ăn học, biết
phân biệt vàng thau. Chàng đã nhìn Thúy Kiều như một
thiên thần trên trời bị đày đọa…! “Trước
còn trăng gió sau ra đá vàng. Dịp đâu may mắn lạ
dường,”!
Và,
cũng thật là may mắn nữa cho Thúy Kiều và Thúc Sinh là
Thúc Ông đi xa nay trở lại quê nhà… Và mọi chuyện
được sắp đặt (như
chuyện đã rồi) cho
cuộc hôn nhân, để cùng nhau sống chung mà Thúc Ông phải
chấp nhận cho êm cửa, êm nhà. (Dù
Thúc ông có kiện đưa Thúy Kiều ra tòa).
32
-
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
Thúc
Sinh mê mẩn Thúy Kiều cũng phải lẽ thôi vì nàng vừa
đẹp vừa có tài “Sinh
càng một tỉnh mười mê,”!
Thúc
sinh yêu nàng Kiều vào mùa xuân. Mùa xuân đã tới với
nàng lần nữa.
33
-
Ngày xuân lắm
lúc đi về với xuân.
(Nguyễn
Du đã cho Thúy Kiều hai chữ XUÂN trong một câu thơ)
Số
phận nghiệt ngả đẩy Thúy Kiều ở chốn Thanh Lâu. Nay
nàng gặp Thúc Sinh, một người đa tình lãng tử đã có
vợ. Thúc Sinh ngỏ ý chuộc nàng ra khỏi lầu xanh. “Thiếp
như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm lượn vành mà
chơi.”!
34
-
Chúa xuân đành
đã có nơi.
Quãng
thời gian gặp Thúc Sinh, Thúy Kiều cũng mong cho mình được
danh chính ngôn thuận, cho dù là làm lẻ mọn cũng được,
nên nàng khuyên Thúc Sinh trở lại quê nhà mà thú thiệt
với vợ cả để đôi bên được hợp lý, hợp tình trên
danh nghĩa vợ chồng, nên nàng đã thưa với Thúc ông.
35
- Rạng ra
gửi đến xuân đường
Phần
Thúc ông, đã chứng kiến cảnh Kiều và Thúc sinh quấn
quýt như vợ chồng, ông cũng khuyên Thúc Sinh nên trở về
nhà nói rõ mọi chuyện cho vợ hay. Chuyện năm thê bảy
thiệp là chuyện hợp pháp có gì mà phải e ngại miễn
là người vợ cả ưng thuận và người chồng lo chu đáo
cho gia đình.
36
-
Xuân
đình thoắt đã dạo ra cao đình.
Thúc
Sinh nghe lời Thúc Ông và nàng Kiều, chàng khăn gói trở
về nhà “bàn bạc với vợ”. Khi xong việc, Thúc Sinh
trở lại nhà Thúc Ông, thì mới hay tin Thúy Kiều bị
chết cháy vì hỏa hoạn…! Thúc Sinh khóc than thương tiếc
cho số phận hẩm hiu của nàng. Chàng tiếc rằng đã gặp
nàng Tiên (Thúy
Kiều),
giờ lại mất; mất một cách đau đớn bởi không tìm
được xác của nàng, xác của nàng đã hóa ra tro bụi….!
37
-
Tiếc
hoa những ngậm ngùi xuân.
Thúc
Sinh dằn vật nỗi đau xót theo năm tháng…! “Thân
này dễ lại mấy lần gặp tiên. Sen tàn cúc lại nở
hoa,”!.
Kế
hoạch bắt Thúy Kiều của Hoạn Thư (vợ
cả) của Thúc Sinh, nếu là người đàn bà tầm thương
(dân dã) thì không thể nào làm được, sở dĩ Hoạn Thư
làm được và làm một cách suôn sẻ, bởi vì nàng là
con gái của một vị Thương Thư. Danh dự của nàng và
gia tộc quyền quý nàng không thể để Thúc Sinh chồng
nàng lấy Thúy Kiều một cô gái lầu xanh về làm vợ lẻ.
Đó là lý do chính, còn ghen tương thì ai lại không ghen.
Hoạn Thư cũng thừa biết bắt cóc Thúy Kiều là sai luật,
nhưng luật lệ không thể đụng chạm tới dòng họ quyền
thế của nàng.
Thúc
ông cũng như Thúc Sinh đã không nghĩ tới điều “Danh
Dự” đó mà tự mình gây tai họa cho chính mình và cho
Thúy Kiều. (Ban
đầu Thúc Ông không chấp nhận). Danh
dự là điều thiêng liêng dù mất mạng cũng phải bảo
vệ. Do đó chúng ta cũng không nên trách Hoạn Thư độc
ác. Hoạn thư mà độc ác thì nàng đã giết chết Thúy
Kiều. Thật ra trong thâm tâm của Hoạn Thư (cùng
phận gái và sắc đẹp tài năng ngang nhau), nàng cũng có
phần cảm thương và nể nang Thúy Kiều mà không nỡ nặng
tay.
38
-
Sầu dài ngày
ngắn đông đà sang xuân.
Hậu
quả đau thương cho Thúc Sinh gặp lại Thúy Kiều nơi nhà
người vợ cả là Hoạn Thư, thật là trớ trêu… Từ
người yêu lại hóa ra… người bị ‘tù tội’…! Và
có thể thấy - tù tội cho cả hai người (Kiều
và Sinh). Chàng
nhìn nàng “tiên” của mình mà cúi mặt làm thinh, có
còn cảnh nào đau xót nhục nhả hơn…!
“Tìm
đâu cho thấy cố nhân? Người ngoài cười nụ người
trong khóc thầm. Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu
chàng những gạt thầm giọt Tương. Sớm khuya sắm đủ
dầu đèn,”. Sau
đó Hoa Nô Thúy Kiều đã được Hoạn Thư cho ra tu ở cái
am “Quan Âm Các” phía sau vườn với pháp danh Trạc
Tuyền.
Bụng
đầy chữ để cho mình trúng kế
kế
“ghen tương” thâm-thúy của đàn bà
chuyện
đã vậy, còn đưa tay chịu trói
bỏ
người tình thui thủi ở [am ma].
(Trích
“Uống Rượu Với Cụ Thúc Sinh” thơ Trang Y Hạ).
39
- Xuân,
Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
Thúc
Sinh cũng tự bạch nỗi lòng, là đã bỏ rơi Thúy Kiều
trong cảnh bị vợ lăng nhục mà không biết cách gì để
cứu nàng, mà lại còn đổ thừa cho “chúa xuân”…!
“Đã
cam chịu bạc với tình,”! Đó là một hành động bạc
nhược.
40
-
Chúa
xuân để tội một mình cho hoa.
Bởi
vì: “Thấp
cơ thua trí đàn bà, Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,”!.
Thúc
Sinh không “thấp cơ” mà là “Hèn”, sự hèn rất đàn
ông đối với phần nhiều kẻ có gia đình mà còn đi
ngoại tình. Một khi vỡ lỡ họ sẵn sàng phủi tay xua
đuổi người tình. Họ khác với phụ nữ ở chuyện nầy.
Cụ
trơ tráo “đớn hèn” nhìn thục nữ
Quỵ
dưới chân vợ chồng cụ gảy đờn
Tình
tấm mẳn hẹn thề cụ quên tuốt
Khí
nam nhi trong cụ đã sạch trơn.
(Trích
thơ “Uống Rượu Với Cụ Thúc Sinh” của
Trang
Y Hạ)
41
-
Cát
lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh.
Thể
theo lời yêu cầu của Thúy Kiều. Hoạn Thư xin được đi
tu [tu trong cái am trong vườn của Hoạn Thư thì không khác
gì ở tù]. Bởi Hoạn Thư đã cho người canh giữ cẩn
mật. Thúc Sinh quá hèn không bảo vệ được Thúy Kiều
trước người vợ uy quyền thì lối thoát duy nhứt là
Thúy Kiều (phải
xin)
tu để chờ dịp thoát nạn. Chứng tỏ Thúy Kiều khôn
ngoan, mạnh mẽ hơn Thúc Sinh.
42
- Cửa
thiền vừa tiết cuối xuân.
Nghĩ
mà buồn cho Thúy Kiều! Nàng có xuân và đã mất xuân của
cả cuộc đời. Vậy mà ngày [đi tu] lại rơi vào “Tiết
cuối xuân”. Tiết xuân trong tù…! Nàng lại nhớ đến
cha mẹ, nhớ em, nhớ quê nhà, nhớ Kim Trọng! “Đoái
thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây Tần
xa xa,”!
Ở trong cảnh tù đày ai mà không nhớ nhà mỗi khi mùa
xuân về được đoàn tụ cùng gia đình.
43
-
Xót
thay huyên cỗi xuân già.
Bán
mình để lấy tiền chuộc cha, nên trong lòng Thúy Kiều
luôn nhớ về cha mẹ và lo lắng…! “Tấm
lòng thương nhớ, biết là có nguôi. Chốc là mười mấy
năm trời, Còn ra khi đã da mồi tóc sương. Tiếc thay chút
nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Duyên
em dù nối chỉ hồng, May ra khi đã tay bồng tay mang.”.
Thúy
Kiều ví mình như ngó sen, cho dù bị người đời bẻ
ngang, nhưng sợi tơ trong lòng vẫn còn dùng dằng chưa
muốn đứt. Nghĩa là: đối với Kim Trọng nàng vẫn một
lòng chung tình và ngày đêm thương nhớ…!
Hơn
mười năm lưu lạc phương người. Thúy Kiều gặp Tướng
quân Từ Hải. Trai anh hùng gái thuyền quyên, hai người
bèo nước gặp nhau và ân ái mặn nồng hơn nửa năm. Từ
Hải chia tay Thúy Kiều để về “Đại bản doanh”, hẹn
sẽ trở lại đón Thúy Kiều… !
Từ
Hải là niềm hạnh phúc; là mùa xuân đẹp tuyệt vời
trong đời Thúy Kiều - khác hẳn với Thúc Sinh - Thúc Sinh
chỉ cho nàng tình yêu nhưng sau đó là “khổ nhục”, bị
vợ cả đánh ghen…! Thúc Sinh cúi đầu chịu nhục mà
không dám một lời biện minh cho mình, nói chi tới người
yêu. Thúc Sinh chỉ có tâm hồn văn thơ lãng mạn…, nặng
về nhục dục hơn là tình yêu sâu nặng đối với Thúy
Kiều, cho dù có tấm lòng quân tử, mà thiếu nghĩa khí
và sĩ khí thì kể như bỏ đi. Từ Hải cho Thúy Kiều
tình yêu nồng nàn, biết giữ lời hứa. Đáng trân quý
là giúp Thúy Kiều “trả thù” những kẻ đã hại nàng.
Dưới
mắt Triều đình, thì Từ Hải chỉ là “bọn phiến
loạn”. [Năm Gia Tĩnh triều Minh không chỉ có mỗi Từ
Hải là phiến loạn, trước Từ Hải cũng đã có nhiều
nhóm phiến loạn.]. Cái oan ức gia đình Thúy Kiều chịu
đau khổ cũng là tại xã hội lúc đó - luật pháp và đạo
đức đã quá suy đồi… Bọn quan lại thi nhau ăn hối
lộ, vơ vét của cải bá tánh… Từ Hải là một vị
tướng có quân đội, có thế lực… Từ Hải với tính
cách và phẩm cách của người anh hùng, chàng xứng đáng
làm chồng Thúy Kiều. Chàng đã tạm xa Thúy Kiều để ra
đi vì nghiệp lớn:
“Trông
vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đàng
thẳng dong”.
Ấy
là mùa xuân mà Thúy Kiều phải xa chồng, sống trong nhớ
mong và hy vọng. “Nàng
thì chiếc bóng song mai, Đêm thâu đằng đẵng nhặt cài
then mây. Sân rêu chẳng vẽ dấu giày, Cỏ cao hơn thước,
liễu gầy vài phân”.
Từ
Hải đã xưng bá một vùng… Triều đình muốn đánh dẹp
nhưng không đủ sức. Từ Hải nói: “Sức
nầy ai dễ làm gì được ai”.
Từ
Hải ngồi ghế chánh án, để xử bọn: Hoạn Thư cậy
thế “con ông cháu cha”, lập băng nhóm đi đốt nhà,
bắt cóc người về giam cầm và xúc phạm thân thể Thúy
Kiều. Từ Hải xử bọn [Bạc Hà, Bạc Hạnh]. Từ Hải
xử bọn ma cô, giang hồ [Ưng, Khuyển, Sở Khanh]. Từ Hải
xử bọn kinh doanh trên thân xác phụ nữ [Tú bà, Mã Giám
Sinh]. Trời cao có mắt. Gieo nhân nào giặt quả nấy.
“Tiệc
bày thưởng tướng khao binh, Om thòm trống trận, rập
rình nhạc quân. Vinh hoa bỏ lúc phong trần,”!
44
-
Chữ
tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Kim
Trọng hay tin Thúy Kiều trầm mình chết trên sông Tiền
Đường. Chàng vật vã khóc than. “Thẩn
thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu
theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.”! Cha mẹ nàng cũng
sầu đau không ít.
45
-
Xuân
huyên lo sợ biết bao
Sau
đó gia đình Thúy Kiều chọn ngày tác hợp Kim Trọng với
Thúy Vân, đúng theo lời Thúy Kiều dặn dò trước lúc ra
đi. “Vội
vàng sắm sửa chọn ngày, Duyên Vân sớm đã se dây cho
chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương,”! Tội nghiệp
cho nàng Thúy Vân, nàng không có tình yêu, nàng chỉ là
một “người thế thân” của chị mình. Nghĩ cho cùng
là nàng chung chạ như vợ chồng với “người anh rể”.
Sự hy sinh của Thúy Vân quá lớn.
46
-
Trai
tài gái sắc xuân đương vừa thì.
Kim
Trọng và Thúy Vân “kết hôn”, nhưng trong lòng vui không
trọn vẹn, bởi Thúy Kiều vẫn “bóng chim tăm cá”…!
“Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được
nào! Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại
thấy nàng về đây. Những là phiền muộn đêm ngày,”!
Thiết nghĩ cả hai chị em Kiều – Vân, trong lòng đã có
ý nghĩ cả hai cùng lấy một chồng (theo
quan niệm thời xưa đó thì không có gì gọi là trái với
luân thường, đạo lý).
47
-
Xuân
thu biết đã đổi thay mấy lần.
Sau
một thời gian Kim Trọng và Văn Quan (em
trai Thúy Kiều) cùng
thi đỗ và được triều đình bổ nhiệm làm quan.
48
-
Vương,
Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Gia
đình Vương ông lúc nầy thật hạnh phúc vui vẻ! “Sớm
khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.”! Vậy mới hay xuân
đi rồi xuân lại về. Trong cái rủi có cái may. Biết bao
thân thận không được “cái may” đó.
49
-
Phòng
xuân trướng rủ hoa đào.
Một
đêm: “Nàng
Vân nằm bỗng chiêm bao thấy Thúy Kiều chị mình đã
chết. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng
Kim Trọng và cả nhà đi tìm tung tích Thúy Kiều. Mới hay
Thúy Kiều còn sống. “Khỏi
rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng
gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông
xem đủ mặt một nhà:”!
50
-
Xuân
già còn khỏe huyên già còn tươi.
Thúy
Kiều nhìn người thân:
“Hai
em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người
ngày xưa! Thúy Kiều tự xét mình rằng: “Bấy chầy dãi
nguyệt dầu hoa,”
không
biết người yêu xưa đối đãi như thế nào sau nầy?!
51
-
Mười
phần xuân có gầy ba bốn phần.
Kim
Trọng Và Thúy Kiều gặp lại nhau trong niềm hân hoan
không thể nào kể siết. Họ ôn lại kỷ niệm xưa…
Tiếng đờn bây giờ không ai oán, tủi hờn…! “Bi
hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao. Canh khuya bức gấm rủ
thao,”.
Niềm
vui được đoàn tụ cùng gia đình và người yêu đã góp
phần cho Thúy Kiều lấy lại niềm tin vào cuộc sống.
52
-
Dưới
đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
Đối
với Thúy Kiều - tình đầu cũng là tình cuối - gặp
lại nhau, làm sao mà không quyến luyến cho được…!
“Tình
nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung
tình. Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.”. Và
hy vọng:
53
-
Chừng
xuân tơ liễu còn xanh.
Thúy
Kiều bán mình chuộc cha, chứ nào phải tà dâm. Nàng
chẳng lỗi lầm với người yêu Kim Trọng. “Nghĩ
rằng chưa thoát khỏi vành ái ân. Gương trong chẳng chút
bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! Ấy
là hồ điệp hay là Trang sinh.”!
54
-
Khúc
đâu êm ái xuân tình.
Cuối
cuộc đoạn trường đầy gian nan khổ nhục, Thúy Kiều
đã về với gia đình, tất cả đều sum họp đầy đủ.
Phúc lộc đầy nhà.
55
-
Vườn
xuân một cửa để bia muôn đời.
Kể
ra Thúy Kiều cũng đã có xuân, dù cho nàng đã bị ba chìm
bảy nổi trong những tình cảnh oái ăm của cuộc đời.
Nàng vẫn còn có phước gặp lại người thân, gặp lại
người yêu cũ. Đã có biết bao nhiêu người con gái sống
cùng thời với Thúy Kiều và cũng có biết bao nhiêu người
con gái sau nầy… Tất cả họ là “nạn nhân” của một
xã hội trọng nam khinh nữ, chắc gì họ đều được có
sự may mắn [rất có hậu] là an toàn trở về nơi đã ra
đi trong buồn tủi!
Phôi
pha chút phận hồng nhan,
Mười
lăm năm ấy là vàng đấy thôi.
Chiều
nay xuống phố ta ngồi,
Chờ
em, em mãi xa xôi có về! (Trích thơ Trang Y Hạ)
“Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét