THƯƠNG
NỮ
“Thương nữ bất tri vong quốc hận”
Thi
sĩ Bùi Giáng nói: “Muốn
bàn tới thơ, muốn diễn dịch
thơ thì tốt nhứt hãy làm một bài thơ khác”.
Thi
sĩ Bùi Giáng ám chỉ là nếu chưa đủ sức để cảm
nhận hết ý nghĩa sâu xa trong một bài thơ thì chớ nên
“bàn tới thơ và diễn dịch thơ”.
Đỗ
Mục [803 – 853]. Thời Trung Đường - tự Mục Chi, hiệu
Phàn Xuyên. Người Vạn Niên, quận Ninh Triệu [nay là
Trường An tỉnh Thiểm Tây]. Ông nội của ông là Đỗ
Hựu, một vị tể tướng triều của triều nhà Đường
và cũng là một sử gia có danh tiếng. Đỗ Mục sinh vào
thời nhà đường suy vi cả nước sinh ra loạn lạc do
nhiều thế lực nổi lên không tuân lệnh Triều Đình, và
cũng như các bộ tộc ở ngoài biên cương liên tục đánh
phá. Vụ phản loạn lớn nhứt là vụ phản loạn của An
Lộc Sơn, (An Lộc Sơ trên danh nghĩa là con nuôi của Dương
Quý Phi). Tuy nhiên, Đỗ Mục đã lớn lên và được học
hành tới nơi tới chốn dưới triều vua Đường Văn Tông
[828]. Ông đi thi và đã đỗ tiến sĩ năm ông vừa được
hai mươi lăm tuổi. Về tác phẩm, ông nổi tiếng với
bài “A Phòng Cung Phú”. Bài "A Phòng Cung Phú"
còn lưu giữ cho tới tận ngày nay. Đỗ Mục được bổ
nhậm đi làm quan suốt cuộc đời cho tới đời vua Đường
Tuyên Tông [853]. Đỗ Mục bị bệnh mất, ông thọ được
năm mươi tuổi.
Thi sĩ Đỗ Mục làm
thơ không nhiều, hầu hết thơ của ông lưu lạc người
ta sưu tầm chỉ được trên đưới khoảng một trăm hai
mươi bài. Ngoài bài phú Cung A Phòng nổi tiếng ông cũng
còn có vài bài thơ khác mà các thi nhân đương thời và
đời sau quan tâm mến mộ, trong đó có bài:
Tần
Hoài Dạ Bạc
Yên
lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài
cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu-Đình-Hoa.
Trang Y
Hạ, Tạm dịch:
(Khói
loang sông lạnh trăng vờn cát
Thuyền
cập bến khuya kế tửu gia
Thương
nữ nào hay hờn mất nước
Bên
sông vang vọng Khúc Đình Hoa.).
Thi
nhân đời sau cũng như người yêu thơ của Thi sĩ Đỗ
Mục mỗi khi họ đọc bài thơ “bạc tần hoài” thường
hay trích lấy hai câu sau cùng của bài thơ nhằm “ám
chỉ” hay là gán ghép cái vô cớ cho người nữ “xướng
ca” một cái tội tưởng tượng tới rất là vô lý mà
có thể tự hiểu hay tạm hiểu là bọn con gái thuộc
hạng “xướng ca vô loại” không biết hờn vong quốc
là gì. Tại sao lại có sự (hàm hồ) như vậy? Ở đây
có thể hiểu rằng hầu hết người đời sau đều diễn
dịch chưa đúng hai chữ “thương nữ”. Chữ “thương
nữ” không dính dáng gì tới - kỹ nữ, ca nữ, đĩ điếm.
Thử sơ Lược hai tập thơ mà Trần Thúc Bảo
(Trần hậu Chủ) ở thời Nam bắc triều (420 – 587) thì
thường được biết đến trong sử sách là:
-
Ngọc Trụ Hậu
Đình Hoa
-
Lâm Xuân Nhạc.
Hậu
Đình Hoa được phổ nhạc từ một bài thơ ủy mị trong
tập thơ cùng tên. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp tuyệt trần
của nàng Trương Lệ Hoa, Trương Quý Phi – họ là người
yêu của Trần Hậu Chủ mà các ca nương thời đó đều
thích khúc ca "Hậu Đình Hoa. Trần Hậu Chủ còn mê
đắm thêm nàng Khổng Quý Tân, Nàng Khổng Quý Tân nhan
sắc cũng không kém nàng Trương Lệ Hoa. Ông cho xây gác
tía: “Lâm Xuân - Ỷ Kết” cho hai giai nhân ngự, và xây
thêm lầu son “Vọng Tiên”. Đồng thời nhà Vua cho xây
vườn hoa kiểng mà ở trong vườn đó có đủ chim muôn
dị thảo với tên là “Nghênh Phong”. Từ đó, nhà vua
và hai giai nhân tuyệt sắc suốt đêm ngày quấn quýt bên
nhau để uống rượu ca hát ngâm thơ.
Trần
Hậu chủ cũng
tự mình
làm một
khúc hát Hậu Đình Hoa:
Nguyên
tác:
“Lệ
vũ phương lâm đối cao các
Trân
trang điểm chất bản khuynh thành,
Ánh
hộ ngưng kiều sa bất tiến,
Xuất
duy hàm thái tiếu tương nghinh.
Yêu
cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
Ngọc
thu lưu quang chiếu Hậu Đình”.
Trần
Hậu Chủ tức
Trần Thúc Bảo, vị vua cuối cùng của nhà Hậu
Trần,
ông sống phong, ham
mê thơ
ca vũ nhạc, rượu, gái đẹp
vô
độ tới
nỗi
bỏ bê chính sự quốc gia. Tình cảnh đất
nước loạn
lạc dân tình khốn khổ kéo dài lâu năm đã làm nản
lòng các quan văn võ trong triều,
họ không có cách gì khuyên can nhà vua, dần
dà
họ cũng như
vua bỏ
bê việc triều chính và một số thì
cáo
quan để về quê.
Thừa dịp rối
ren
Tùy Văn Đế tiến quân rầm rộ về chiếm lấy kinh đô.
Trần Hậu Chủ không hề hay biết đất nước lâm nguy.
Thời khắc dầu sô lửa bỏng vậy mà nhà vua lại
say ngất
ngưỡng
trên lầu bên cạnh
nàng
Trương Lệ Hoa đang ngân nga hát khúc Hậu đình… Bộ hạ
thân tín chạy tới báo tin dữ…! Họ thấy ông vua say
mèm, họ
lấy bình nước lạnh hắt vô mặt ông, ông tỉnh dậy
mặt mày ngơ ngác... Bộ hạ khuyên ông ra đầu hàng để
được giữ toàn mạng sống nhưng ông chọn cách -
dẫn hai người đẹp chạy trốn ở dưới một cái giếng
cạn phía sau vườn
và
bị bắt. Theo
chính sử, Tùy Văn Đế phát
tuyên cáo phạt
Nhà Trần khắp
nơi để
cho
được danh chánh ngôn thuận,
cho nên khi
chiếm kinh đô Kiến Khang, Tùy
Văn Đế không sát hại Trần Hậu Chủ và hoàng tộc, tất
cả đều được đưa về Đại
Hưng gần
Trường An,
đối xử rất tử tế cũng như cấp tiền bạc để cúng
tế tổ tiên. Trần Hậu
Chủ chết vào năm sáu trăm không bốn (604).
Từ
đó tên Trần Hậu Chủ gắn liền với ca khúc Hậu Đình
Hoa và trở thành điển tích của sự mất nước. Nguyên
nhân mất nước được quy hết tội lỗi
lên đầu nàng Trương Quý Phi và nàng bị đem ra hành
quyết. Trường hợp nầy cũng giống Dương Quý Phị bị
quân sĩ bắt treo cổ ở Mã Ngôi để
cứu Nhà Đường.
Tuy nhiên Dương Quý Phi chết còn cứu vãn Nhà Đường còn
Trương Quý Phi chết như
vật thế thân để an lòng thiên hạ chứ không
cứu được Nhà Hậu
Trần!
Mãi
cho tới hai thế kỷ sau, các ca kỹ Trung
Hoa vẫn
mê hát khúc hát Hậu Đình Hoa trong các buổi yến tiệc
dù đang ở trong cảnh nước mất nhà tan. Thi hào Đỗ Mục
một đêm dừng
thuyền ở bến Tấn Hoài gần kề quán rượu bỗng nghe
khúc ca Hậu Đình Hoa
ở
bên kia sông vang vọng...
Đỗ Mục cảm hoài mà sáng tác bài thơ “Tần
hoài
dạ
bạc”
trong đó có câu “Thương nữ bất tri vong quốc hận”,
câu thơ u hoài nổi tiếng được các nhà dịch thuật
dịch sang
chữ quốc ngữ tiếng Việt rằng chữ
“thương nữ” có
nghĩa
là “kỹ
nữ, ca kỹ, gái điếm”.
Dịch
như vậy
thì
có
khác
gì
miệt
thị, chà đạp lên
bài
thơ
của người xưa; chà đạp lên danh
dự của người phụ nữ! Nguyên do bởi đâu mà họ dịch
hai chữ “thương nữ” ra
như vậy?
Đi
tìm, tra tìm trong Hán Tự , và
trong
các Tự
Điển Hán Việt của các tác giả: Trần Văn Chánh, Từ
Điển Phổ Thông, Nguyễn Quốc Hùng, Thiều Chửu, Đào
Duy Anh
thì
có tới hai mươi một [21] bộ chữ Hán
Tự có
chữ
“thương”
mà không một
bộ
chữ Hán
Tự
nào
có chữ thương mang
nghĩa là
“kỹ
nữ, ca kỹ, gái điếm”. Chữ
thương trong các
bộ chữ Hán
Tự
có tới mấy trăm chữ thương với vô số nghĩa nhưng
chỉ chỉ
duy nhứt ở trong
bộ “nhân”
(từ chữ
có hai
nét và
cho
tới chữ
có mười
ba nét), chữ
thương có nghĩa
về
-
Danh: Triều
đại nhà
Thương (vua
Thang) trước
công nguyên. Triều
đại nhà Thương bị mất nước bởi Nhà Chu, từ đó mới
có câu tóm
tắt: “Hạ
- Thương - Chu”. Chữ thương
là người đi buôn bán (thương gia). Thương là: Nhà buôn,
nghề
nghiệp buôn bán (kinh thương). Chữ
thương là họ Thương.
Thương
là màu xanh “Thương hải biến vi tang điền” Tạm dịch
là (Biển xanh hóa
thành ruộng dâu). Thương
là cái chén để uống rượu. “Phủng
thương thượng thọ”. (Nâng chén rượu chúc thọ). Trong
âm nhạc có ngũ âm “cung, thương, giốc, chủy, vũ”.
Chữ
Thương trong Hán Tự không mang nghĩa “yêu thương” như
trong tiếng Việt.
Vậy
thì câu thơ của thi sĩ Đỗ Mục “Thương
nữ bất tri vong quốc hận”, chẳng dính dáng gì tới
các cô “kỹ nữ, ca kỹ, gái điếm”.
Do
đó mà có thể hiểu thêm ý thơ trong câu “Thương nữ
bất tri vong quốc hận” như sau: Thương nữ là người
con gái ở độ tuổi xuân xanh, nên không hề
hay
biết gì chuyện suy vong của đất nước. Chữ Hán rất
uyên thâm mà là thơ thì lại càng uyên thâm chứa
đựng ý
nghĩa ẩn dụ, hoán
dụ
nhiều hơn. Vậy không thể dịch một cách tùy tiện mà
không tra cứu kỹ sẽ
làm sai
lệch
ý nghĩa câu
thơ, bài
thơ của tác giả.
Theo
sử Trung Hoa khi Nhà Thương mất bởi Nhà Chu. Tuy nhiên,
những người trong dòng tộc Nhà Thương vẫn tiếc nuối
và ngấm ngầm khôi phục lại giang sơn. Và
cho tới năm 1218 trước công nguyên, Ân Cao Tôn mới khôi
phục lại
được rồi
lên làm vua hay còn gọi là Nhà Hậu Thương. Như vậy là
đủ biết ảnh hưởng của Nhà Thương trong xã hội Trung
Hoa thời đó là rất sâu rộng trong dân chúng.
Đỗ
Mục có trách là trách cô gái của Nhà Thương, Đỗ Mục
trách như là để
“ám
chỉ” để gián tiếp cho một số quan lại vô tâm không
nghĩ tới chuyện sống còn của quốc gia trong thời khắc
loạn lạc. Còn “Cách giang do xướng hậu đình hoa” thì
ai hát mặc kệ họ.
Đỗ
Mục sinh ra vào thời loạn lạc, chinh chiến triền miên,
lãnh
thổ thời Đường Minh Hoàng rộng lớn, nhưng sau loạn An
Lộc Sơn đất nước dần dà thu hẹp lại và
dân số thời
còn thịnh vượng có
khoảng hơn
(sáu
mươi triệu) người, nay
đã
giảm đi phân nửa bởi chém giết lẫn nhau! Nhà
triết học phương Tây (Hegel)
đã viết: “Trung
Hoa không có triết học, chỉ có chiến lược gia và quan
trường”. Nghĩa
là người
Trung Hoa chỉ
biết học, thi đỗ, làm quan đồng thời nghĩ ra mưu cao,
kế hiểm tranh giành địa vị và đi xâm chiếm đất đai
của các nước khác mà
phần nhiều ở trong lãnh địa Trung Hoa. Văn
hào Lỗ Tấn cũng từng nói “Lịch sử Trung Hoa là lịch
sử ăn thịt người”. Nghĩa là người Trung Hoa trong một
nước tìm mói cách giết nhau.
Trong
xã hội phong kiến Trung Hoa, vai trò người phụ nữ rất
thấp kém, phần nhiều
họ
không được đi học ngoại trừ con cái các vua quan; con
cái
người giàu có. Đã vậy người phụ nữ còn bị ràng
buộc bởi tục lệ rất khắc khe và
khinh thường
như: “Tam
tòng tứ đức”. “Nhất
nam viết tử, thập nữ viết vô”. Thời
nhà Tống người phụ nữ khi sinh con gái, theo tục lệ
thời đó là phải bó đôi bàn chân cho nhỏ, bó chân
càng
nhỏ thì người con gái khi lớn lên mới có “giá trị”
trong việc hôn nhân cũng như ngoài
xã
hội. Bó chân cho đẹp gọi là “Thốn Kim Liên” (Gót
sen ba tất). Bị bó, tất nhiên phải đau đớn, đi đứng
rất khó khăn!
Người
đàn ông thời phong kiến, họ có quyền lấy nhiều thê,
thiếp, thậm chí có quyền mang vợ, con gái đi cầm cố
hoặc mang ra chợ bán cho người khác. Người phụ nữ
thời xưa đã không có được một chút giá trị nào
trong gia đình ngoài xã hội. Vậy thì, trong bài thơ “Bạc
Tần Hoài” thi sĩ Đỗ Mục không lý do gì lại đi trách
cứ người phụ nữ chỉ biết xướng ca mà không nghĩ
tới hận nước. Người xướng ca thời phong kiến hầu
hết là nghèo khổ thất học họ thuộc tầng lớp dưới
đáy xã hội bị khinh khi bị bán cho nhiều người để
làm nô lệ thì trách cứ họ có ích chi “Thương nữ bất
tri vong quốc hận” chứ không phải [thương nữ vô tâm
vong quốc hận]. Bất tri nghĩa là chẳng hay biết chứ
không phải vô tâm. Người xưa nói “Vô sư vô sách bất
chấp bất trách”.
Thi
sĩ chỉ than thở giùm cho người con gái Nước Thương của
thời Xuân Thu Chiến Quốc hoặc người con gái ở độ
tuổi xuân xanh nào đó không hay rằng đã bị mất nước,
và thi sĩ cũng than thở giùm cho người thời nay chỉ lo
hát khúc Hậu Đình Hoa để ăn chơi trác táng mà không lo
cho số phận còn mất của một quốc gia!
Thời
phong kiến, ai là người có quyền cho người phụ nữ
xướng ca hiểu về hiện tình đất nước đây? Cho họ
biết để làm gì khi họ đã bị cho đứng ngoài lề xã
hội, họ không được quyền tham chính; không được
quyền tham gia quân ngũ. Vậy thì không lý do gì Đỗ Mục
lại đi trách họ? Đỗ Mục trách là trách cái đám quan
lại cây quyền ỷ thế kết bè, kết nhóm chỉ lo vơ vét
của cải do người dân nai lưng ra đóng thuế để tổ
chức ăn chơi trác táng, bắt những người ca nữ xinh đẹp
ca hát mua vui cho việc ăn nhậu thậm chí còn ép họ chung
chăn gối. Xót thay cho người ca nữ không hay biết gì về
chuyện vong quốc cứ lặng lẽ ca hát phục cho một đám
quan lại, đám người giàu có chỉ lo ăn chơi không tha
thiết tới chuyện nước mất nhà tan. Thậm chí còn cúi
đầu làm tay sai cho ngoại bang.
Thương
nữ bất tri vong quốc hận. Thử hỏi nếu mà họ biết
hoàn
cảnh “vong
quốc hận”, dẫn
tới
nô lệ, chắc
chắn không khi nào họ hát phục vụ cho một đám quan
lại, đám giàu có. Ngược lại, giới phụ nữ sẽ đóng
góp sức lực để tham gia cứu
nước. Ngày
nay phụ nữ đã có địa vị vững chắc trong xã hội kể
cả những người nhạc sĩ, ca sĩ đều được trọng vọng
và
ảnh hưởng lớn
trong
mọi
lãnh vực đời sống, xã hội và
cao hơn nữa là lãnh đạo một quốc gia. Người
phụ nữ ngày nay không còn loanh quanh trong xó bếp, họ
biết
tự đứng trên đôi chân của mình, họ
không lệ thuộc tài chánh ở người chồng, người đàn
ông. Người phụ nữ ngày nay không còn
là
một thứ đồ chơi rẻ tiền hay một thứ trang trí đứng
ca hát phục vụ cho một bọn đàn ông lắm tiền nhiều
của, trong
khi đó ngoài khơi ngư phủ lúc nào cũng nơm nớp lo sợ
còn
trong
đất liền kẻ thù tự do đi lại nghênh ngang!
Hãy
thẩm thấu thơ Đỗ Mục một cách rất thơ. Thương nữ
bất tri vong quốc hận chỉ là câu ta thán - chẳng thà
như thương nữ bất tri vong quốc hận - còn hơn là làm
trai mà bạc nhược khi đã biết vong quốc mà im lặng
hoặc cố tình không hay biết gì về hiện tình đất nước
thì tấm thân coi như đã chết.
Tuy
nhiên, người đời sau có ý chê rằng bản thân thi sĩ Đỗ
Mục vào thời đất nước loạn ly ông cũng rượu chè
với ca kỹ chứ không tốt lành gì. Họ căn cứ từ bài
thơ “Khiển Hoài” (Khơi Mối Cảm Hoài) của ông mà
“phán xét” ông một cách lệch lạc, hàm hồ và vô căn
cứ.
“Lạc phách giang hồ tái tửu hành,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh,
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
Doanh
đắc thanh lâu bạc hãnh danh”
Trang Y Hạ, Tạm
dịch:
Lạc
nhịp giang hồ uống rượu say,
Eo thon kỹ nữ
nhẹ trong tay.
Mười năm chợt tỉnh Dương
Châu mộng,
Được tiếng thanh lâu bạc danh
hoài.
Đỗ
Mục là thi nhân có tài, ông từng viết tựa đề tập
thơ cho thi nhân Lý Hạ (thời Trung Đường). Đỗ Mục
cũng như các danh sĩ đa tài cùng thời với ông không thể
làm được gì để xoay chuyển bánh xe lịch sử để cứu
vãn tình hình. Tướng soái triều đình nắm quyền lực,
binh lực trong tay còn phải bỏ chạy huống hồ là dân
thường?! Tại sao người đời sau lại đi chỉ trích thi
sĩ Đỗ Mục vì bốn câu thơ “cảm thán” cho thế sự
thăng trầm mà không may là ông; các bạn của ông đã
sống đúng trong thời kỳ loạn lạc và có thể nói
đó là sự hối hận, tiếc thương đã không thể cứu
vãn đất nước! Ông đã tự vấn lương tâm là “lạc
phách”; lạc phách đây có khác câu thơ than thở “Lũ
chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ”. Đã có biết bao
nhiêu người có tài đức tìm chỗ ẩn cư chờ thời mà
không chịu đem tài năng ra giúp đất nước. Đợi tới
khi đất nước an bình mới chịu ló đầu ra mong tìm chút
công danh.
Thi
sĩ Đỗ Mục chẳng qua buồn thế sự suy vi của nhà
Đường, ông mượn chén rượu tiêu sầu bên kỹ nữ
trong một lúc nào đó chứ không hẳn là ông đã “sa
đọa”, nếu mà ông sa đọa giống Trần Hậu Chủ tất
nhiên sử sách đã phê phán ông. Thi sĩ và giai nhân "nàng
thơ" như hình với bóng đã có từ xa xưa cho tới nay
thì có gì lạ đâu? Vậy có trách là trách vua Đường
Minh Hoàng (loạn luân) với con dâu Dương Ngọc Hoàng triền
miên mà bị An Lộc Sơn làm loạn dẫn tới xã tắc loạn
ly, nhà vua phải bỏ kinh thành cùng bộ hạ và người đẹp
Dương Quý Phi chạy trốn. Thi sĩ Đỗ Mục nói “lạc
phách” xem ra chẳng mất gì đối với thi sĩ. Đường
Minh Hoàng; Trần Hậu Chủ lạc phách thì mất cả giang
sơn xã tắc và tính mạng.
Câu
thơ “thương nữ bất tri vong quốc hận” là câu thơ
nhắc nhở cho đấng mày râu rằng: dù người con gái nhà
Thương xưa kia chẳng hay mất nước thì
cũng chẳng có gì là lạ.
Người
làm trai biết rõ
chuyện
đất nước lâm nguy mà
thờ ơ
coi
như không có chuyện gì đó mới chính
là
lạ!
Harold
Blom, Học giả và phê bình gia người Hoa Kỳ đã quan niệm
rằng:
“Thơ
chỉ là những ứng đối lập luận của các nhà thơ với
nhau, của người làm thơ thời sau trả lời với với
người làm thơ thời trước có thơ hay và nổi tiếng
hơn”.
Vậy
thì các người làm thơ thời sau phải hết sức thận
thận, tôn trọng khi bàn luận diễn dịch thơ để trả
lời với người làm thơ thuở trước mà không làm mất
đi ý nghĩa câu thơ, ý
nghĩa bài
thơ của người trước đã nổi tiếng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét