TIẾNG CƯỜI THÚY KIỀU
“Ai ơi chớ vội cười nhau,
Cười người hôm trước, hôm sau người cười.”
(Ca Dao).
Đã làm con người thì không thể thiếu tiếng cười trong cuộc sống hằng ngày... Tiếng cười thuộc về tâm sinh lý, thuộc nhận thức từ trực giác nội tâm và khách quan. Từ xưa cho tới nay người ta không ngừng tìm tòi nghiên cứu xem là đã có bao nhiêu tiếng cười cũng như hình thức trạng thái để cho ra tiếng cười. Nguyên nhân nào gây ra tiếng cười (cười thiệt hay cười giả tạo?).
Tiếng cười khá đa dạng: cười ý nhị, cười tinh tế, cười thâm trầm, cười nhạo, cười tình, cười mỉm, cười nụ, cười héo hắt, cười sảng khoái, cười ngạo nghễ, cười ra nước mắt, cười khinh mạn, cười đau khổ, cười cầu tài, cười cầu hòa, cười mỉa mai, cười đểu, cười nham nhở, cười đắc thắng, cười mím chi, cười vang, cười lăn lóc, cười ngả nghiêng, cười vô duyên
(có lẽ cười vô duyên là nụ cười không được mấy ai ưa nhứt?).
Tạm đúc kết là đã có hàng trăm loại tiếng cười khác nhau ở trong mọi hoàn cảnh ở trong cuộc sống hằng ngày.
Về mặt y học cho rằng tiếng cười đem lại sức khỏe. “Một trận cười mười thang thuốc bổ”. Về hội họa có Họa sĩ Leona da vinci với bức họa - nụ cười của nàng Mona Lisa, một họa phẩm có một không hai trong ngành hội họa thế giới từ cổ chi kim. Về mặt xã hội thì tiếng cười là nhịp nối thân thiện giữa người và người cho dù là quen biết hay không quen biết. Tiếng cười hiền hòa để lại trong lòng người đối diện tình cảm ấm áp, hơn nữa có thể nói là sẽ tạm thời xóa tan đi bực bội.
Thơ diễn tả nụ cười “nguy hiểm” tới nỗi nghiêng nước, nghiêng thành thì đã có: thi sĩ Lý Diên Niên, bên Trung Hoa. Ông có bài “Giai Nhân Ca” như sau:
“Giai Nhân Ca
Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập
Nhất cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Ninh bất tri, khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc.
Trang Y Hạ - (Tạm dịch):
(Bài Ca Người Đẹp
Phương bắc có người đẹp
Đẹp nhưng sống đơn độc
Ngoảnh lại một lần thì làm nghiêng thành
Ngoảnh lại hai lần thì làm đổ nước
Thà rằng không biết nghiêng thành hay nghiêng nước
Người đẹp đó chắc hẳn khó gặp được.
Thi sĩ Lý Bạch cũng có câu:
“ Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim”
Tạm dịch:
(Nụ cười của giai nhân đổi nghìn vàng).
Tiếng cười làm mất cả giang san Nhà Châu đó là tiếng cười của bà Hoàng Hậu Bao Tự, vợ của U Vương (781 – 770) trước Công nguyên. Nàng Bao Tự đẹp nhưng vẻ mặt rất lạnh lùng, lạnh lùng tới nỗi không một ai có thể làm cho Bao Tự cười dù là nhếch mép…! Ở trong cung điện có tổ chức nhiều cuộc vui, vậy mà Bao Tự cũng không lấy đó làm vui để cười. Nhà vua cho cung nữ xé hàng trăm xấp vải lụa mong Bao Tự cười nhưng nàng Bao Tự vẫn không chịu cười. Quách Thạch Phủ là vị quan có uy quyền ở trong triều mách nước với U Vương rằng:
“Bệ hạ cho xây nhiều “phong hỏa đài” thật cao để phòng khi có biến loạn thì bệ hạ cho đốt lửa phong hỏa đài, lửa cháy rực trời các nước chư hầu nhìn thấy tất nhiên sẽ kéo quân về bảo vệ kinh đô và kinh đô sẽ an bình. Phong hỏa đài được xây xong, Quách Thạch Phủ lại đề nghị rằng: muốn hoàng hậu cười vui thì bệ hạ cho đốt phong hỏa đài lên, Chư hầu thấy lửa cháy ắt sẽ kéo quân tới, họ kéo quân tới thấy bị bệ hạ lừa, họ chưng hửng rồi lục đục kéo về. Hoàng Hậu đứng trên lầu nhìn cảnh đó ắt sẽ cười”.
Quả đúng như vậy, Bao Tự đã mở miệng cười...! (Đó là nụ cười làm mất giang, tổ quốc và mang họa sát thân). Thời gian sau quân rợ Nhung rần rần kéo quân đánh kinh đô nhà Châu với khí thế rất mạnh. Vua cho đốt “phong hỏa đài” báo tin cầu viện nhưng quân chư hầu không tới vì cứ tưởng rằng họ nhà vua ( giỡn chơi) như lần trước. Họ đợi cho tới khi biết chắc chắn là có biến, quân chư hầu lúc bấy giờ mới tăng viện thì đã quá trễ. U Vương bỏ chạy và đã bị giết chết, quân Rợ Nhung sợ quân chư hầu nên rút quân. Nàng Bao Tự chạy theo vua không kịp đành phải tự tử.
Có
người nói rằng, “Người Việt Nam lúc nào cũng cười”.
Thử nghĩ lại thì một phần nào đó cũng đúng. [Buồn
cũng cười, vui cũng cười, không vui không buồn cũng
cười, sai hay đúng cũng cười!]. Nói chung là lúc nào
cũng “nhăn răng” ra cười; cười theo kiểu “dĩ
hòa vi quý” và
cũng có thể nói là cười theo kiểu ba phải cho qua
chuyện. Người xưa nói: “Nộ
giả thường tình, tiếu giả bất khả trắc”.
Nghĩa là: người nóng giận nói ra ào ào, rồi thôi. Họ
không để bụng. Còn loại người mà gặp chuyện gì cũng
nhếch mép cười mỉm, không tỏ rõ
thái
độ trên
khuôn mặt nên
không biết trong đầu họ nghĩ gì, rất khó đề phòng!
Đi
tìm sự vui trong nụ cười không phải cứ nhăn răng ra là
có nụ cười tươi như hoa, số đông người sẽ thích nụ
cười đó, có người mới mở miệng ra cười là đã
thấy thiên hạ không ưa mà còn bị mắng cho là cười sổ
sàng, cười vô duyên, cười không đúng chỗ. Các ông bà
diễn hài kịch, chuyên làm cho khán giả cười cũng không
phải dễ dàng. Cười không phải chỉ để cười mà cười
còn là một môn nghệ thuật và tâm lý (phải tập cười
mới cho ra nụ cười hợp tình, hợp cảnh). Tóm lại,
tiếng cười dù cười bất cứ kiểu gì thì tiếng cười
vẫn là tiếng nói không lời ở trên môi trên khuôn mặt,
người đối diện dễ dàng nhận ra “tín hiệu” - thân
thiện hay không thân thiện - vồn vã hay không vồn vã -
hiếu khách hay không hiếu khách.
Lịch
sử ghi lại khi danh tướng Trần Bình Trọng bị giặc Tàu
bắt. Ông không sợ sệt, xin tha mà ông hiên ngang ngửa
mặt lên trời cười vang chứ không chịu quy hàng. Tiếng
cười của một danh tướng đã làm cho quân giặc khiếp
sợ không dám giết.
Tuy
nhiên, để cho mọi người trong xã hội được vui cười,
thiết nghĩ người ở trong xã hội đó phải được no
ấm, an cư lạc nghiệp, được tự do về mọi mặt. Thúy
Kiều không may sinh ra đúng vào thời Nhà Minh suy vi, triều
đình bất chánh, quan lại tham nhũng, loạn lạc nổi lên
khắp nơi thì thử hỏi làm sao để có được tiếng cười
cho viên mãn?
Shakespeare,
nói:
“Một
người tươi cười không có nghĩa là họ không có nỗi
buốn. Điều đó có nghĩa là họ có khả năng đối phó
với nỗi buồn đó”.
Charlie
Chaplin, nói:
“Ngày
đau khổ nhứt trong cuộc đời là ngày chúng ta không
cười”.
Thử
Nghe Tiếng Cười Của Thúy Kiều:
Trong
các tác phẩm văn, thơ, kịch… tự cổ chí kim lúc nào
cũng không thiếu tiếng cười. Duy chỉ thơ là thiếu vắng
tiếng cười [trừ thơ trào phúng]. Trong truyện Kiều của
Nguyễn Du cũng không thoát ra khỏi ảnh hưởng đó. Ba
nghìn hai trăm năm mươi bốn câu thơ [3254] chỉ có hai
mươi sáu câu có tiếng “cười” [26]. Trong số hai mươi
sáu câu thơ có cười không chỉ thuần là do con người
cười, mà một số câu Nguyễn Du cho cười - qua gián tiếp
- cười qua chuyển tiếp - từ mọi hoàn cảnh khác nhau!
Thí dụ: khi vào truyện, Nguyễn Du tả sắc đẹp của
nàng Thúy Vân:
1
- Hoa
cười, ngọc thốt đoan trang.
Hoa
cười, ngọc nói là thi sĩ Nguyễn Du nhân
cách hóa tiếng cười bằng hoa rất thật, rất tự nhiên
trong sáng, xinh đẹp chứ không hề gượng ép. Đó là thi
pháp.
Theo
phong tục Trung Hoa thời (Nhà
Minh),
mỗi mùa xuân có Lễ Thanh Minh, Hội Đạp Thanh. Các chị
em Thúy Kiều đi du xuân ở Bắc Kinh. Trời đã xuống
chiều, đường
trở về nhà còn xa, ba
chị em Thúy Kiều hối hả lo về, bất chợt Thúy Kiều
nhìn bên đường có một ngôi mộ lẻ loi cỏ mọc đầy.
Vương Quan em trai Thúy Kiều cho biết đó là ngôi mộ của
nàng Đạm Tiên - một kỹ nữ tài sắc một thời. Kiều
cảm động than khóc cho phận hồng nhan bạc mệnh rồi
thắp nhang khấn vái khóc thương...! Thúy Vân dửng dưng
khi thấy hành động khác thường của bà
chị
của
mình,
nên cười:
2- Vân
rằng: “Chị cũng nực cười
Khéo
dư nước mắt khóc người đời xưa”.
Ngôi
mộ của nàng kỹ nữ Đạm Tiên là do một người đàn
ông chôn cất. Người đàn ông nầy nghe danh Đạm Tiên đã
lâu nên tìm tới để thỏa lòng... “Có
người khách ở viễn phương. Tai nghe cũng nức tiếng
nàng tìm chơi. Thuyền tình vừa ghé đến nơi. Thì đà
trâm gãy bình rơi bao giờ”. Hai
câu thơ sau Nguyễn Du lấy ý từ hai câu: “Nhất
phiến tình chu dĩ đáo ngạn. Bình trầm rơi chiết dĩ đa
thời”.
Gia
đình ông Vương Viên Ngoại bị “thằng bán tơ” lừa
bịp mà bị nhận cái án oan ức. Đám quan lại tham ô gặp
dịp đòi tiền... Quan đời nào mà chẳng tham… Trong chữ
quan có hai chữ “khẩu”. Một miệng thì nói ngang ngược,
nhũng nhiễu… Một miệng thì phàm ăn; ăn bất cứ thứ
gì ăn được là ăn cho bằng sạch. Do không có tiền nộp
cho quan nên Thúy Kiều phải bán mình lấy tiền chuộc
cha. Nàng nói thật chuyện có tình cảm của nàng với Kim
Trọng cho cha mẹ biết và nhờ Thúy Vân thay nàng đáp lại
ân nghĩa với chàng Kim. Dù sau nầy có chết đi thì cũng:
3- Ngậm
cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tiếng
cười quan trọng tới mức độ nàng Kiều cũng như thiên
hạ phải chuẩn bị “tiếng cười” cho mai hậu để
một khi có xuống suối vàng cũng khỏi bẽ bang với người
xưa.
Một
kẻ ăn chơi trác táng tới tan gia bại sản là Mã Giám
Sinh, quanh năm sống nhờ nơi chốn thanh lâu ở huyện Lâm
Truy, gã cùng với mụ tú bà quá lứa sống già nhân nghĩa
non vợ chồng. Lão ta mua Thúy Kiều với giá rẻ mạt “bốn
trăm năm mươi lạng vàng”.
[theo thanh tâm tài tử là bạc]. Lão cũng nhận ra tiếng
cười của Thúy Kiều có sức thu hút và chắc chắn khách
làng chơi bốn phương sẽ ào ào kéo tới.
4- “Một
cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa”.
Trong
kinh thánh công giáo có nói tới tên Giu-da bán Chúa chỉ
có ba mười đồng mà bị nguyền rủa… Tên Sở Khanh
cũng vì ba mươi lạng vàng của mụ tú già đất Lâm Truy
mà hại Thúy kiều te tua xơ mướp… Sở Khanh cũng bị
người đời nguyền rủa; chẳng những bị nguyền rủa
mà còn trở thành một “thành ngữ” chỉ về những anh
chàng nào thích “ăn bánh” mà không chịu trả tiền,
còn quốc ngựa truy phong.
5
- Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương.
Chê,
cười - nghĩ ra cũng còn nhẹ tội cho gã Sở Khanh.
Mụ
Tú
già ở đất Lâm Truy giận thằng chồng hờ họ Mã “hớt”
đời con gái của Thúy Kiều nên mụ ta giận cá chém thớt
hành hạ bằng đòn roi với Thúy Kiều. Bắt Thúy Kiều
phải học cách - lẳng lơ gợi mời khách làng chơi với
đủ các ngón ăn chơi trác táng. “Vành
ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” .
Tính ra tú bà, tú ông ngày xưa cũng cơ cực vì phải [dạy
nghề] cho các cô. Ngày nay – thời đại “computer” các
cô chỉ cần (nhích
chuột)
là có mấy trang web đen [...!] diễn trò đủ kiểu, không
cần phải dạy làm chi cho mất công. Các “tú...” chỉ
lo đếm tiền. Khỏe re! Ngày nay các cô gái thích theo cái
“nghề xưa như trái đất” đó thì hầu như là “tự
nguyện”, họa hoằn lắm mới lâm vô hoàn cảnh của
Thúy Kiều. Dù gì thì ngay nay phương tiện truyền thông,
báo chí, luật pháp, phương tiện đi lại nhanh chóng, có
chuyện gì trái ngang hay vu vạ cũng được luật lệ bảo
vệ.
6- Khi
ngâm-ngợi nguyệt, khi cười-cợt hoa.
Mụ
tù già sau khi “tân trang” thân thể nàng Kiều thành một
kỹ nữ... Mụ liền bỏ tiền ra quảng cáo rầm rộ “món
hàng chất và lượng cao”! Mụ
nhờ các ông thi sĩ, văn sĩ viết bài tả Thúy kiều với
những câu thơ tình lâm li sướt mướt, - từ nét đẹp
cho tới tài đánh đàn, làm thơ, nhất là nụ cười
khuynh quốc, khuynh thành. Khách thập phương toàn là danh
sĩ, hào phú vốn hảo ngọt đem tiền vàng đầy rương
tranh nhau tới thanh lâu để mong được diện kiến người
đẹp. Thanh lâu đất Lâm Truy đèn đuốc sáng trưng, vui
như ngày hội:
7- Cuộc
vui đầy tháng, trận cười thâu đêm.
Thời
nhà Minh bên Tàu chưa có “loa phường, loa ấp, loa xã”…
Nhưng tiếng tăm của nàng Kiều tài hoa vẫn vang đi rất
xa; xa tới nỗi anh chàng họ Thúc vốn con nhà giàu có, có
học thức, có vợ là nàng Hoạn Thư con gái ruột của
quan lại bộ thượng thư, quê ở Vô Tích cũng biết. Thúc
Sinh theo cha tới Lâm Truy buôn bán và “du học”. Vốn ưa
sắc, Thúc Sinh lén lấy tiền bạc của cha - ăn chơi, đồng
thời mua đứt tiếng cười của nàng Kiều làm của
riêng.
8
- Trăm
nghìn đổ
một trận cười như không.
Thúc
ông biết Thúc Sinh [con trai] mình lấy Kiều là gái thanh
lâu làm vợ - ông khuyên không được nên tố giác Thúc
Sinh ra quan. Quan xử Thúy Kiều - một là trở lại thanh
lâu - hai là đánh đòn… Thúc Sinh khóc nhận lỗi vì
không nghe lời Kiều mới ra nông nỗi. Thúc Sinh bẩm với
quan là Kiều có học vấn, có tài làm thơ. Quan cho ngưng
đánh - ra đề “Mộc Già” – Mộc Già có nghĩa là cái
gông. Nàng họa rồi trao cho quan như sau:
Phiên
Âm
Hoàng-Oanh-Nhi
Khúc
“Ngã
dữ mộc vi cừu
Hỉ
khuyên sáo trung đắc xuất đầu
Cảm
phương viên dà cái toàn thân xũ
Hà
tằng mi vũ tu
Tọa
tỉnh khả ưu
Khả
linh lệ ngấn lệ lưu bất đáo chẩn hòa tụ [trù]
Tạ
hiền hầu
Giao
nhân cường hang, tái bất hứa phóng ca” hầu.”
Dịch:
(Ta
với cây là thù
Trong
khuôn khổ mừng được ló đầu
Vuông
tròn che toàn thân cảm thấy xấu
Tai
mắt thẹn gì đâu
Đáy
giếng âu sầu
Đáng
thương áo xiêm chẳng thấm, giọt lệ cứ tuôn mau
Tạ
hiền hầu
Cổ
bị cứng, giọng hát nghẹn trong yết hầu.).
Vị
Quan xem, vị quan khen thơ nàng hay không thua gì thơ Lý
Bạch, Đỗ Phủ. [May mà gặp ông quan có khoa bảng chứ
gặp ông mấy quan mua bằng, mua chức dốt đặc cán mai
thì biết chi mà nghe thơ, cảm nhận thơ]. Quan còn khen cặp
(Thúc Sinh – Thúy Kiều) xứng đôi vừa lứa rồi ra lệnh
cho làm lễ cưới chính thức sống như vợ chồng. Quan
còn khuyên Thúc ông nên thức thời mà bỏ qua cho gia đạo
trong ấm ngoài êm. Cũng vì lý do nầy mà Hoạn Thư sau khi
biết chuyện đã không dám công khai ghen mà phải dung mưu
“bắt cóc” Thúy Kiều.
9
- Cười
rằng: “Đã thế thì nên!
Mộc-già
hãy thử một thiên, trình nghề”.
(Ông
quan nầy cũng có thể đã ăn vàng bạc đút lót của Thúc
Sinh nên mới mới cả gan [chuyển đen thành trắng] như
vậy cũng nên?).
Hoạn
Thư con nhà trâm anh - xinh đẹp lại có tài nghiên bút là
con gái của quan Thượng thư. Nàng thích kinh nhà Phật,
trong vườn, nàng lập Quan Âm Các để
gõ mõ tụng kinh mỗi đêm. Biết
chồng “lập phòng nhì”, nàng cũng không lạ chuyện năm
thê bảy thiếp đó. Nàng nghĩ, chẳng
thà nói với nàng một tiếng thì nàng cũng đâu nỡ hẹp
hòi gì cho cam. Đàng nầy cứ giấu! [Thật lòng thì Thúc
Sinh cũng không muốn giấu, Thúy kiều đã khuyên Sinh về
nhà trình bày mọi chuyện].
“Lại
còn bưng-bít giấu quanh,
10
- Làm chi những thói trẻ-ranh nực cười!”.
Nhằm
xóa đi bằng chứng: nội, ngoại phạm trong việc âm mưu
“bắt cóc” Thúy Kiều. Hoạn Thư đã vả mồm, bẻ răng
hai nô bộc đã mách cho nàng biết về sự ngoại tình của
chồng… Mục đích là bịt đầu mối để cho kế hoạch
được giữ kín. Hoạn Thư giả đò bình thản nói
cười như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Buồng
đào khuya sớm thảnh thơi
11- Ra
vào một mực, nói cười như không.
Ghen
tương bốc tận mây xanh, Hoạn Thư quyết không tha thứ.
Nàng cho giai nhân thân tín đi tắt bằng đường sông để
bắt Thúy Kiều. Trong khi đó Thúc Sinh đi đường bộ về
lại Lâm Truy lộ trình xa hơn. Thúc sinh về thăm nhà lần
nầy là nghe lời Thúy Kiều nói thật chuyện hai người,
với vợ đề nàng Kiều được yên
phận làm lẻ. Nhưng chàng Thúc đã mắc mưu Hoạn Thư.
12- Mấy
phen cười nói tỉnh say,
Tóc-tơ
bất động, mảy-may sự tình.
Thúc
Sinh trong lòng nôn nóng nói ra sự tình, mượn hơi rượu
để lấy tinh thần... Nhưng mỗi lần muốn đề cập là
Hoạn Thư biết ý nên đánh trống lãng, nói bâng quơ
chuyện không đâu vào đâu, nhắm đánh lạc hướng.
13
-Có khi vui miệng mua cười,
Tiểu-thư
lại giở những lời đâu đâu.
Hoạn
Thư thật đáo để, Nàng giả vờ rằng nàng luôn tin
tưởng sự chung tình của vợ chồng. Nàng không bao giờ
nghe những lời đồn đoán, đồn thổi ở bên ngoài mà
làm tan vỡ hạnh phúc. Thật ra là nàng
Hoạn Thư đã có kế hoạch để đối phó.
“Thiếp
dù vụng, chẳng hay suy,
14
- Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười”.
Vốn
đã đẹp người, Hoạn Thư lại trang điểm cho thêm đẹp.
Mặc cho trong lòng nàng đang sôi sục vì ghen.
15
- Những
là cười phấn, cợt son.
Do
mắc mưu đàn bà mà không hay biết, cho tới khi về lại
Lâm Truy, Thúc Sinh mới bàng hoàng! “Túp
lều lý tưởng” đã
trở thành tro bụi… Trở qua nhà cha già thì bài vị Thúy
Kiều đã đặt trịnh trọng ở trên bàn thờ, khói nhang
nghi ngút. Hơn một năm sống cô độc buồn phiền ở Lâm
Truy chàng khăn gói trở lại Vô Tích. Về tới nhà Thúc
Sinh bàng hoàng chứng kiến màn đánh ghen của vợ vô cùng
thâm hiểm! Được gặp lại người xưa trong thân phận
là một “Hoa Nô”. Gặp mặt nhau mà không dám nhìn dù
đã từng sống như vợ chồng hơn một năm. Hoạn Thư thì
cứ vui vẻ, ngọt ngào!
16- “Bề
ngoài thơn-thớt nói cười.
Mà
trong nham-hiểm giết người không dao”.
Đêm
càng về khuya, bữa tiệc đãi chồng sau một năm dài đăng
đẵng trở về càng thêm ảm đạm thê lương buồn tủi:
- nào là giả đối trong tiếng cười của Hoạn thư; nào
là sự hối hận của Thúc Sinh; nào là nỗi đau khổ của
Thúy Kiều; nào là không biết rồi đây số phận của
hai người sẽ ra sao…? Thúc Sinh hoàn toàn bị thúc thủ.
17
- Ngảnh
đi, chợt nói, chợt cười,
Cáo
say, chàng đã giạm bài lảng ra.
Sinh
càng thảm-thiết bồi-hồi,
18- Vội
vàng gượng nói, gượng cười cho qua.
Tình
thì có, gan lỳ thì không có
Bày
đặt làm “anh hùng cứu mỹ nhân”
Sợ
bà “cả” chân tay đầu luống cuống
Chẳng
một lần mà có tới mấy lần.
(Trích
đoạn thơ “Uống Rượu Với Cụ Sở Khanh” trong thi
phẩm “Sẽ Chở Bậu Đi”. Của Trang Y Hạ).
Cuộc
đánh ghen kể như quá hoàn hảo. Hoạn Thư ngồi ghế
“quan tòa”, nàng rung đùi nhìn hai bị cáo – cúi đầu
âm thầm chịu nhục, chịu đau khổ, chịu thua trận mà
không hề có một cử chỉ hay lời nói biện minh... Hoạn
Thư khoái chí rót rượu uống, tì... tì... – nàng ngắm
nhìn và nguyền rủa kẻ bội bạc; nguyền rủa kẻ giựt
chồng của nàng.
19- Tiểu-thư
cười nói tỉnh say,
Chửa
xong cuộc rượu, lại bày trò chơi.
Cũng
trong một tiếng tơ đồng
20- Người
ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!
Xét
về lý thì Hoạn Thư đã phạm nhiều tội “hình sự”
- Nào là đốt nhà; nào là bắt cóc người trái
luật, nào là
giam cầm hành hạ người
khác trong
một thời gian dài; nào là
dồn nạn nhân tới đường cùng phải “xin đi tu” để
hầu thoát cảnh làm tôi mọi, trong lúc tuổi đời của
ni-cô Trạc-Tuyền còn quá đẹp, quá trẻ … Xét về tình
nếu nghĩ sâu xa hơn thì chính Hoạn Thư mới chính là kẻ
phá nát gia can của mình chứ không phải
là
Thúc Sinh chồng của nàng (ngày
xưa chuyện đa thê, không có tội). Nàng
tưởng đánh ghen một cách “thâm hiểm - nham hiểm” là
giành lại chồng. Nàng Hoạn Thư đã lầm, chính nàng đã
làm cho nàng trở thành đao phủ, sống trong lo lắng, sợ
sệt, đồng thời đã đẩy chồng mình càng lún sâu vô
nỗi u uẩn, sự ăn năn, ray rức, dằn vật, nhớ nhung
thương cảm cho “Ni-cô Trạc-Tuyền” …! Nàng “bịt
miệng” không cho chồng và Ni cô Trạc Tuyền một lối
thoát danh dự mặc dù đã biết rất rõ từ lời “Thân
Cung” tức tự khai của con Hoa-nô viết ra...!
Lời
khai như sau:
Thân
Cung:
“Tỳ,
Hoa Nô cung vì đoạn trường sự: Tỳ sinh Bắc Kinh, phụ
tao oan nạn, trụy lạc xướng gia, tòng lương viễn giá
Lâm Truy, trị phu tha xuất, hãm nhập hầu môn, nô nhan tỳ
tất, du dương dịch trưởng kỷ xuân thu. Cấu diện bồng
đầu, kính hạp trần mai đa tuế nguyệt. Tăng linh bạc
mạnh, dục tương kim tiễn đoạn thanh ty. Lệ trích hồng
nhan, kỷ khâu ngân toa kim chúc lãnh. Tự hương lệ viễn,
canh canh điểm điểm toái sầu trường. Tự phụ mạc
dịch, nhật nhật thì thì đàn huyết lệ. Pháp ngoại thi
nhân, sử thiếp thân qui pháp qui kinh qui phật. Ngã trung
đới đức, chúc tiểu thư đa phúc đa thọ dĩ đa nam. Phi
can lịch huyết, sở cung thị thực.”
Dịch:
Tiện
tỳ tên là Hoa Nô, xin cung khai về việc đoạn trường
như sau:
(Nguyên
tôi sinh ra tại Bắc Kinh, vì cha già gặp sự oan khiên,
tôi phải truy lạc vào chốn nhà hát, theo chồng về đất
Lâm Truy, gặp khi chồng vắng lại bị lọt chốn hầu môn
[cửa quan], tấm thân luồn cúi, cành dương thay đổi trải
mấy xuân thu.
Lấm
mặt bù đầu, hộp kính chôn vui từng bao tuế nguyệt.
Lòng thương mệnh bạc, muốn đem dao cắt sợi tơ xanh. Lệ
ố má hồng, toan liều mạng với cành thoa
bạc. Cố hương xa thẳm, tiếng trống canh đập nát dạ
sầu, chồng cũ luống mong, chuỗi thời khắc tuôn khô lệ
máu.
Ví
được mở rộng lòng nhân, cho tiện thiếp thiếp qui pháp
qui kinh để qui Phật, thực là năm trong đội đức, chúc
tiểu thư nhiều phúc nhiều thọ đẻ nhiều trai. Mấy lời
tâm huyết giãi bày, khẩu cung toàn là sự thực.).
Thật
sự mà nói, Hoạn Thư cũng có phần vị nễ tài sắc Thúy
Kiều có khi xem như là tri kỷ nhưng phận số “hồng
nhan đa truân” đành phải chịu. Do bởi lòng ghen quá
nặng nên không thể mở lòng tha thứ. Hoạn Thư xây Quan
Âm Các trong vườn để tụng kinh Phật mà trong lòng nàng
thì chẳng hề có một mảy may tâm phật. Một bản án
kinh hoàng cho Hoa Nô còn hơn bọn đao phủ! Vậy mới biết
sự trả thù của tiểu thư danh gia vọng tộc, của kẻ
có học thức thật là thâm hiểm, khác xa với sự trả
thù của người bình thường.
Hoạn
thư còn quá quắc hơn, là giả đò về thăm mẹ rồi âm
thầm quay trở lui để thử xem chồng và “Ni cô
Trạc-Tuyền” có lén lút gặp nhau hay không? Đúng y
chang, Thúc Sinh và Ni cô Trạc Tuyền cùng nhau than thở…!
Thúy Kiều lần nữa lại khuyên Thúc Sinh dứt tình. Thúc
Sinh cũng khuyên Thúy Kiều đi trốn, hai bên còn đang
dùng-dằng thì Hoạn Thư ung dung bước vô Quan Âm Các.
21 - Cười
cười, nói nói ngọt-ngào.
Hoạn
Thư vui vẻ, bình thản cất tiếng chào Thúc Sinh [chồng]
như chẳng có chuyện gì xảy ra trước mắt. Nàng còn ân
cần, nhỏ nhẹ khen Ni cô Trạc Tuyền chép kinh chữ rất
đẹp và khuyên Ni cô Trạc Tuyền tiếp tục chép kinh…
Nàng ngồi xuống uống nước rồi ung dung nắm tay chồng
trở lại nhà. Ni cô Trạc Tuyền hỏi nhỏ người hầu
gái thì được người hầu cho hay bà chủ đã tới từ
lâu và nghe hết ngọn nguồn. Thúy Kiều chợt rùng mình
ớn lạnh nhớ lại những trận đòn đánh ghen và càng
run sợ hơn nữa khi nghe tiếng cười ngọt ngào mà bén
hơn cả dao.
Giận
dầu ra dạ thế thường
22-
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm-sâu”.
Để
giữ thân mình khỏi bị chôn vùi tuổi xuân nơi am nhỏ
vắng vẻ với biết bao tai họa chờ chực sẽ đổ ập
xuống đầu không biết giờ giấc nào. Do đó Ni cô Trạc
Tuyền quyết tâm bỏ trốn khỏi am đem theo chuông vàng,
khánh bạc để phòng khi hữu sự. May mắn là gặp được
sư Giác Duyên ở Chiêu Ẩn Am thương tình cho tá túc. Việc
chuông vàng, khánh bạc bị lộ, nên ni cô phải rời Chiêu
Ẩn Am. Không may cho Ni cô lại gặp bọn Bạc Hà, Bạc
Hạnh lừa đem bán nơi nhà chứa [lần hai] ở Châu Thai.
Hoạn
Thư tương kế tạo ra một lối thoát để đuổi Ni cô
Trạc Tuyền bỏ Chiêu-Am-Các ra đi để tránh hậu quả
cũng như phủi sạch hết mọi việc làm ác độc do mình
gây ra. Màn kịch chót của kế hoạch đánh ghen thật hoàn
hảo. Đúng là “đàn bà dễ có mấy tay”.
Từ
biên trấn xa sôi, Từ Hải nghe đồn về Thúy Kiều, chàng
vội vã kéo một số bộ hạ về Châu Thai mong gặp được
người tri âm, tri kỷ ở trong cảnh giang hồ gần bảy
năm sương gió…! Quả là anh hùng cứu mỹ nhân. Họ mới
gặp mặt nhau là đã đem lòng luyến ái không dứt. Họ
trở thành vợ chồng ngay từ giây phút đó!
23
- Cười
rằng: “Tri-kỷ trước sau mấy người?”
Trải
qua nửa năm hương lửa mặn mà, chàng Từ Hải lại phải
ra đi theo tiếng gọi “Gươm
đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Thúy Kiều ở lại canh cánh lo lắng ngày ngày ngóng trông
người ngoài ngàn dặm, để rồi ba năm sau Từ Hải mới
dẫn đại quân với hơn mười danh tướng uy nghi trở lại
đất Châu Thai nhằm đón “vợ” về lại nơi đại bản
doanh cử hành hôn lễ. Hôn lễ tưng bừng đèn hoa… Thúy
Kiều đẹp lộng lẫy không khác gì là một bà hoàng hậu,
rất xứng đáng ở ngôi “mẫu nghi thiên hạ”.
24
- Cười
rằng: “Cả nước duyên ưa!
Nhớ
lời nói những bao giờ hay không?”
Hơn
mười năm lưu thân viễn xứ, bây giờ nàng Kiều -lần
đầu tiên được hưởng vinh hoa phú quý. Nàng ngồi ghế
“quan tòa” trừng trị bọn gian ác trong đó có Hoạn
Thư. Quả là “Thiện ác đối đầu chung hữu báo”.
Hoạn Thư quỳ gối cúi đầu xin Thúy Kiều tha tội “Rằng
tôi là phận đàn bà…”. Ngày trước Thúy Kiều bị
Hoạn Thư đày đọa ra thân tàn ma dại nhưng Thúy Kiều
xem đó như một tai họa, chưa hề lạy lục xin tha. Thúy
Kiều tự hào trước ba quân, tướng lĩnh, cờ xí tung bay
rợp trời cùng vạn lời tung hô chúc tụng. Quả là “Qua
cơn bỉ cực đến hồi thới lai”.
25
- Cùng nhau trông mặt cả cười.
Liêu
Dương ngàn dặm xa xôi, Kim Trọng phải về thọ tang chú
nên không hay chuyện gia đình Thúy Kiều gặp tai ương…
Kim Trọng lo chuyện thọ tang xong trở lại Hiên-Lãm-Thúy
nơi hẹn hò thuở xưa mới chứng kiến cảnh tiêu điều
lạnh lẽo, cỏ mọc rêu phong phủ kín hết lối đi mà
người xưa thì đã trôi dạt về phương trời nào?!
26- Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông.
Câu
nầy Nguyễn Du cũng lấy ý từ bài “Đề thích sở kiến
xứ” có câu cuối “Đào hoa y cựu tiếu đông phong”
cùa (Thôi Hộ).
Nhìn
chung qua hai mười sáu câu thơ có chữ “cười” trong
Truyện Kiều thì phần nhiều là: cười buồn, cười đau
khổ, cười đắc thắng của nàng tiểu thư họ Hoạn.
Còn về phần cô Thúy Kiều thì tiếng cười không được
bao nhiêu. Tiếng cười mà cô mong ước được có nó đó
là tiếng cười hạnh ngộ đã đem lại hạnh phúc, mãn
nguyện khi làm vợ Từ Hải. Vậy mới biết đi tìm nụ
cười cho tình yêu, cho đoàn tụ quả thiệt là không dễ
dàng gì!
Sử
dòng dẫn bậu lao đao,
Mõ
khua Vô Tích thét gào gọi tên.
Ngước
mây đá dựng chênh vênh,
Cúi
đầu một lũ kền kền vây quanh.
(Trích
thơ “Uống Rượu Với Thúy Kiều” của Trang Y Hạ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét