BẬU QUA
Bậu
qua xế
bóng nẻo
lần
xơ-vơ xửng-vửng nét
chân phương nào
xuân thì xịch-đụi thấp
cao
giương-buồm sóng vỗ má
đào mặn môi.
giương-cung thấp thoáng
Thiên-Lôi
cắp lưỡi tầm sét dạo
đồi cười vang
không hư trụ giữa
địa-đàng
mắt
giương tìm
thuở hiên-ngang mỉm
cười.
giương mắt ngó, ngó mắt
đui
ai
xướng nghĩa, ai nỡ
vùi nghĩa-ân
trót sinh trót ẵm nợ-nần
chòi tranh lai vãng thiện
chân vẽ đầy.
giương-dù ngăn bão bấy
nay
lên cơn sặc-sụa đền
đài bong rêu
quay thời gian giỡn cánh
diều
tiếng cười Phù-Đổng
lêu-nghêu giữa đồng.
lồm-cồm
bờ ruộng bờ
sông
bãi-buôi
nước lớn, nước
ròng bịp than
xuồng xưa bến cũ lỡ-làng
lần theo nắng, bước
lang-thang vẽ giầm.
tàn cây khô giọt
tuyền-lâm
lơ-ngơ chồi nứt giọt
tầm-tã mơ
mây vui vẽ bóng hững-hờ
thú rừng khát nước
ngẩn-ngơ hỏi rừng.
đã là nhân đứng suy
hưng
nhân đi, nhân quả, quả
từng hiểu qua
hoạt-nhân sống để vui
là
cõi trần dự tiệc,
thiết-tha lẽ thường.
ngậm-ngùi thử giở mấy
chương
Bậu đi đi giữa phố
phường ngổn-ngang
hai
tay ôm gói
điêu-tàn
mộng khuya, khuya bỏ đêm
hoang trở mình.
nhớ rơm trâu dựa
thinh-thinh
cày ôm góc chái khoe hình
nhện giăng
lạ đâu mặt lũ ruồi
lằn
xúm
bâu cái xác khô cằn
biết đi.
Thần-Hoàng ghẻ lở
lầm-lỳ
long-lân-quy-phụng, biết
chi để rầu
trống
Đình
dùi gác bao
lâu
hỡi
người đuổi mộng công hầu biết
chăng.
hỡi người xác ấm mộ
lăng
ngủ ngọn chớ để hồn
trăn-trở hoài
tay thon sương-phụ
loay-hoay
bật
đèn soi tiếng thở dài thâu canh.
Phong-Châu
giấc ngủ chẳng lành
chẻ đêm đối mảnh
trăng thanh, nỗi nhà
an-bình mầm nẩy can qua
băng-tâm cố giữ san-hà
bỏ thây.
Bậu qua bóng xế bấy
chầy
theo mùa gió lộng vui ngày
tái xuân
rượu thơm nâng chén chúc
mừng
ruồi
lằn tỏm-ngỏm vô bưng, vô
biền.
Bậu qua thắp ngọn lửa
thiêng
đội
mồ các đấng tiên-hiền về chung
Khúc
lưu sơn hết lạnh lùng
Quảng
lăng khúc lạc tái rung cõi
lòng.
* Theo các bộ nhân (Hán Tự).
* Đất Phong nơi vua Văn Vương ở.
* Khúc Cao Sơn Lưu Thủy (Bá Nha Chung Tử Kỳ).
* Khúc Quảng Lăng Tán. (Một hôm Kê Khang tới chơi ở Lạc Tây, đêm xuống ngồi quán trọ gảy đàn. Có ông khách tự giới thiệu là người thời cổ rồi bàn âm luật. Ông khách lấy đàn khẩy rồi soạn Khúc Quảng Lăng Tán, tặng và dặn - không truyền cho người khác. Thời gian sau Kê Khang bị Tư Mã Chiêu giết chết. Khúc Quảng Lăng thất truyền.).
LỜI GIÓ MƯA:
Phép
ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng
chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ.
Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi
phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc
màu rách nát. (Trần Phước Hân).
Văn
sĩ người Nga - Aleksander Solzhenitsyn (1918 – 2008), tỵ nạn
chính trị ở Hoa Kỳ, nói: “Văn
thơ không phả hơi thở của xã hội đường thời, không
dám nói lên nỗi đau và sợ hãi của xã hội đó, không
cảnh tỉnh kịp thời những mối nguy hiểm đe dọa đạo
đức và xã hội - thứ văn chương đó không xứng đáng
với cái tên của văn chương; nó chỉ có cái mã ngoài.
Thứ văn chương đó đánh mất lòng tin của nhân dân, và
những tác phẩm của nó được phát hành bị dùng như
giấy lộn thay vì được đọc.”.
Văn
sĩ Aleksander Solzhenitsyn, nói đúng. Dưới thời cộng sản
Liên xô, Đông âu các tác giả dùng nội dung (văn, thơ)
là để tuyên truyền, xài thứ chữ mới, thứ chữ cách
mạng câu cú không dựa theo tự điển, cho dù sau khi sụp
đổ không bị (quăng vô lò lửa), các tác phẩm đó cũng
đã bị người dân vứt bỏ đi rồi. Chữ “giản thể”
(Hán Ngữ) cắt đầu, bỏ đuôi khô khan khó hiểu có
lẽ... giống như vậy. Chữ Việt viết loạn xạ ngữ
pháp, câu cú chắc chẳng hơn gì.
(Quy
ước ngôn ngữ vốn đã có từ lâu, phản đối, phản
kháng lại ngôn ngữ Hàn Lâm mà quần chúng đã công nhận
Quốc Ngữ, đó là một hành vi chính trị độc tài, sa
đọa, giả dối và áp đặt.).
Một
số tác giả ngày nay cố tình hay vô tình xài thứ chữ
Việt quái đản, dị hợm đã góp phần làm rối rắm,
dẫn tới - “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ”. Tựa bài
văn của Tác giả: (Trịnh Thanh Thủy).
“Hãy
tự đặt vấn đề, cớ gì để kẻ khác xỏ mũi dẫn đi
tới chân trời góc bể mà tưởng rằng chân lý”. (Trần
Phước Hân).
Trang Y Hạ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét