Thư viện

6/8/25

UỐNG RƯỢU VỚI HẰNG NGA

 



UỐNG RƯỢU VỚI HẰNG NGA


     “Ngã kim nhật tại tọa chi địa
      Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi” [1]
                                     (Vương Thực Phủ)

Nhá-nhem vọng trăng non nhô đầu núi
lạch lao-xao, chó sũa thủy-triều dâng
lòng-tong cá nhiễm dòng chờ chết đuối
cầu bê-ton bến cũ níu nợ-nần.

Nghe đồn-đoán bậu bơi qua biển lạ
gặp cứu-tinh, định-vị khoản vọng-sinh
mừng cho bậu, trèo lên cân (phúc, họa)
gói tâm thành hạ-sự chẳng vô tình.

Nghiền-ngẫm nghĩ, đoạn “lễ môn nghĩa lộ” [2]
nghiền-ngẫm suy, khúc “sát phí kinh doanh” [3]
gánh trần-ai biết ai trì độ độ
sữa mẹ khô, đất nẻ biệt không đành.

Con trâu yếu, sờ máy cày thêm thích
tầm cây đa, cây đa trụi thân trơ
chú cuội lái xe hơi vòng du-lịch
mặc vet-ton, quên ngủ bụi ngủ bờ.

Con nhái gọi bạn tình khô cứng họng
đêm sương vo giọt mặn hóa ra châu
hương bồ-kết ghì cọng rơm lạc-lõng
người đi xa còn giữ thuở dãi dầu.

Đèn cạn đáy, hiên lá rơi da-diết
gió mệt dìu hồn Lý-Bạch liêu-xiêu
cô thơ đợi, mắt mờ không giấy viết
đành trân mình chịu xỉ-vả đủ điều.

Đồng lên phố, đời lúa than-thở phận
cụ Thần-Nông, thắc-thỏm mắt trõm-lơ
bụng trộn-trạo, nào có ai phát-chẩn
ai thi-ân, mặc bão tố xô bờ.

Trụ đèn tắt, lò-dò tìm trăng mỏng
Nguyệt Nga ngồi, thấp-thỏm gặp Vân-Tiên
chim đớp muỗi, liệng ngang không để giọng
mơ đêm thanh, xóa bớt nỗi ưu-phiền.

Mở điện-thoại (gọi, nhắn) ngày tháng cũ
cầu ao sen bóng bậu có nôn-nao
thanh-bình buổi cớ chi thân di-trú
chưa xả ao, xã-tắc lạc phương nào.

Đất trời đổi, thân đơn Dạ-Lữ-Viện
ly-bôi khan, ngẩng mặt tiễn Hằng-Nga
trăng vành vạnh, giờ chẳng qua làm kiểng
thương rằm xưa nguyệt tỏ vẫn chưa nhòa.

Trang Y Hạ
Ngày hè, ghé Long Beach, California - 2025.

Cước Chú:
1- (Chỗ đang ngồi ngày hôm nay,
Người xưa cũng đã từng ngồi).
2- Nghĩa là: - con người mới sinh ra là đã có “thiện lương”! Và “lễ, nghĩa” cũng có từ sơ nhi. Vậy lễ là cửa, nghĩa là đường - để đi vào cuộc sống tiếp theo.
3- Nghĩa là: - việc lao động cầu sinh để tồn tại rất khó khăn.

Lời Gió Mưa:

    Từ lâu: “Phép ẩn dụ luôn luôn được thêu dệt và lồng ghép chằng chịt ở trong tấm thảm nhung tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Do đó, mà nếu không có phép ẩn dụ thì văn chương thi phú chẳng qua cũng chỉ là một miếng vải thô kệch, bạc màu rách nát.”. (Trần Phước Hân).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét