SỨ
THẦN ĐẠI VIỆT - GIANG VĂN MINH
Tác
giả: Trang Y Hạ
Việt
sử phải học thuộc làu
là
niềm hãnh diện ngàn sau vẫn còn
Sứ
thần Giang Văn Minh vì “Thể
Diện Quốc Gia Nước Đại Việt”,
mà đã bị vua Tàu [Sùng Trinh], giết chết bằng cực hình
dã man…! Sau đây, xin tóm lược bối cảnh lịch sử và
nhiệm vụ khó khăn của các Đoàn
Sứ Thần Đại Việt,
từ thời trước.
Nước
Đại Việt xưa, có tên là Giao
Chỉ.
Sở dĩ, có tên Giao Chỉ là bởi tương truyền rằng:
Người Việt cổ nơi hai bàn chân, ngón chân cái cong
ra bên ngoài, khi đứng hai ngón[giao nhau], nên mới gọi là
giao chỉ. Từ năm 679, nhà Đường bên Tàu, kéo quân qua
xâm chiếm Đại Việt và đổi tên Giao Chỉ, thành - An
Nam Đô Hộ Phủ.
Nước
Đại Việt, luôn bị giặc Tàu xâm chiếm trong hơn một
ngàn năm, cho tới thế kỷ thứ mười, Đại Việt mới
lấy lại quyền tự chủ và kéo dài tới thế kỷ thứ
mười tám. Trong khoảng thời gian đó, giặc Tàu luôn xua
quân tràn qua Ải Nam Quan xâm chiếm Đại Việt, nhưng lần
nào cũng bị Đại Việt đánh bại, phải cuốn gói chạy
về nước. Tàu là nước lớn, chung đường biên giới -
nhất là nguồn nước, từ các con sông bên đất Tàu chảy
qua... Bởi lý do đó, dù có thắng trận, các triều vua
chúa Đại Việt ngày xưa phải uyển chuyển để giao
hòa... "Tránh
voi chẳng hổ mặt nào",
nên sai sứ thần qua Tàu triều kiến, xin phong vương, nộp
cống phẩm, nhằm mua sự bằng an cho có lệ... Nhưng lần
nào cũng ở thế thượng phong và giữ quốc thể.
Một
lý do khác nữa, đó là: bên Tàu bất cứ triều đại nào
hễ mới lên nắm quyền, thì buổi ban đầu họ đều có
ý định xua quân qua đánh nước Đại Việt. Trước tiên,
họ hăm dọa, sau đòi vua chúa Đại Việt phải phục tùng
và tiếp tục nộp “cống
phẩm”
cho triều đại mới.
Và,
một lý do khác nữa [thuộc về địa lý]. Đó là BIỂN.
Chiếm Biển Đại Việt để có muối; có cá cho dân Tàu
tiêu thụ.
Trong
thời gian mấy trăm năm [tạm giao hảo], hai bên đã cử
sứ thần qua lại... Theo sử của hai bên: “Phía
Tàu, đã cử hơn một trăm phái đoàn đi sứ sang Đại
Việt - nhiệm vụ chủ yếu của sứ thần bên Tàu: - Họ
đốc thúc phía triều đình Đại Việt giao nộp cống
phẩm… Phía triều đình Đại Việt, cũng đã cứ hơn
hai trăm đoàn sứ thần sang Tàu - nhiệm vụ: Xin cầu hòa,
xin phong vương…!”.
Nước
Đại Việt vốn nhỏ bé, lúc nào cũng đề phòng người
Tàu gây hấn..., kéo quân sang xâm chiếm, hoặc dùng tiền
bạc mua chuộc bọn “Việt gian”, gây chia rẻ; hoặc
dùng gián điệp gây rối… Do đó, ông bà ta mới có câu
“Bắc
Môn Tỏa Thược” ghi
trong đền thờ ở Nam Định. Nghĩa
là: Không
mở cửa cho người phương Bắc.
Di
chúc, vua Trần Nhân Tông sau:
"Các
người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều
bậy bạ, trái đạo” Vì rằng họ cho mình cái quyền
nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ lâu đời
của ta là hoạ nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn
vặt nảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ
tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng
biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ
để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm
ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến
giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim
chích. Vậy nên, các người phải nhớ lời ta dặn: "Một
tấc đất của Tiền nhân để lại, cũng không được để
lọt vào tay kẻ khác ". Ta cũng để lời nhắn nhủ
đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".
Dù
nước Đại Việt nhỏ, dân số ít, nhưng dân tộc Đại
Việt quyết không nhu nhược, quỳ lụy hay sợ sệt người
Tàu. Lòng yêu nước nồng nàn qua “Hội
Nghị Diên Hồng”
đã nói lên điều đó.
Nhiệm
Vụ của Sứ Thần:
Nhiệm
vụ chính của các sứ thần là ngoại giao… Sứ Thần
phải giữ thể diện, danh dự của Tổ Quốc, của Quốc
Gia. Tổ Quốc là Trên Hết ! Chẳng những sứ thần mà
mỗi người công dân buộc phải giữ, như:
-
Không
ăn trộm, ăn cắp, khi đi tới một quốc gia khác...
Không
phát ngôn bừa bãi, hay có hành vi thiếu văn hóa trước
mặt người ngoại quốc… Sứ thần đại diện cho Nhà
Vua, do đó sứ thần phải là người đỗ đầu: Trạng
Nguyên [tiến sĩ], có chức tước trong Triều Đình...
Thông thạo ngoại ngữ, văn thơ, đối đáp lanh lợi… để
đấu trí, đấu lực khi đi sứ. Trung
Hoa là một quốc gia có truyền thống - xướng họa,
thơ... đã có từ rất lâu đời, các nho sinh, tầng lớp
trí thức, mỗi khi sum họp, thường hay đưa ra các vế
đối, xướng họa thơ, bàn luận thơ… Do ảnh hưởng từ
chữ Hán cổ, sĩ phu nước Đại Việt cũng đã gầy dựng
được một truyền thống sáng tác văn học cho riêng
mình.
Trên
đường đi sứ sang Tàu, đường xa vạn dặm, sơn lam
chướng khí… Tới nơi còn phải chầu chực nơi nhà
"công quán" chờ dịp để được gặp vua Tàu; có
khi chờ hằng vài ba tháng tới nửa năm mới được gặp…!
Trong
thời gian đó, sứ thần phải ghi lại tất cả sự kiện
trên đường đi sứ như: phong tục tập quán, lễ nghi,
thổ nhưỡng, con người, địa lý…, để khi về nước
trình lên cho Nhà Vua. Quan trọng nhất là - chương trình
nghị sự, đề bạt lên vua Tàu. Trên đường đi sứ, các
sứ thần thường hay làm thơ gọi là: “Sứ
Hoa Tập – Sứ Giao tập – An Nam Ký Sự - Hoa Trình Vân
Tập – Hoàng Hoa Thi Tập…”.
Tất
cả viết bằng chữ Hán cổ, sau nầy các sứ thần Đại
Việt viết bằng chữ nôm.
Trong
thời gian đi sứ, có khi kéo dài tới vài ba năm..., hoặc
có khi bị giữ lại làm con tin, hay nước chủ nhà giết
sứ thần như: trường hợp sứ thần Tô Vũ đời Hán Vũ
Đế là một bằng chứng:
Tô
Vũ, tên thật Tô Tử Khanh, quê Đỗ Lăng. Nhà Hán bị
giặc Hung Nô quấy nhiễu... Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi
sứ. Tô Vũ làm phật ý vua Hung Nô, nên bị phạt bỏ đói
ba ngày. Tô Vũ uống sương đọng trên ngù cờ mà
sống. Chúa Hung Nô kinh sợ - cho Tô Vũ là thần, bèn đày
đến đất Bắc hoang lạnh, chăn dê, kỳ hạn tới
khi nào dê đực đẻ dê con mới tha... Tô Vũ ban ngày chăn
dê, ban đêm ngủ trong hang đá, thiếu thốn và tuyệt
vọng. Tô Vũ viết thư nhờ chim nhạn mang về quê nhà…
Hán Vũ Đế tình cờ nhặt được thư, mới biết Tô Vũ
đang chăn dê ở phương Bắc. Hán Vũ Đế can thiệp... Tô
Vũ mới được trở về Hán sau mười chín năm lưu đày
nơi xứ người.
Sứ
Thần Giang Văn Minh !
Trong
lịch sử Đại Việt, từ trước tới nay, lịch sử luôn
ghi nhận công lao của các Sứ Thần được vua cử đi
sang Tàu điều đình công việc ngoại giao... Trong đó có
- sứ thần Giang Văn Minh.
Tóm
tắt tiểu sử của sứ thần Giang Văn Minh như sau:
Giang
Văn Minh sinh năm 1573 ,tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ,
Tổng Cam Giá, Huyện Phú Thọ, Tỉnh Sơn Tây. Ông thi đỗ
Đình Nguyên thám hoa [khoa nầy không ai đỗ Trạng nguyên
hay Bãng nhãn]. Triều đình bổ ông vào chức vụ: “Bình
Khoa Đô Cấp Sự Trung” [1630]. “Thái Bộ Tự Khanh”
[1631].
Ngày
30.12. 1637. Sứ thần Giang Văn Minh cùng các ông: Nguyễn
Bình, Thân Khuê, Nguyễn Duy Hiệu, Trần Nghị - chia làm
hai sứ bộ, đi sang Tàu cầu phong và nộp cống phẩm. Ông
tới Yên Kinh năm 1638. Việc cầu phong không thành vì vua
nhà Minh chơi trò "Bắt
cá hai tay"
nhằm chia rẻ nội bộ Đại Việt - Lý do: Nhà Mạc đã
bỏ chạy lên Cao Bằng và lập kinh đô ở đó…!
Sứ
thần Giang Văn Minh sau khi chết được truy tặng chức
“Công
Bộ Tả Thị Lang” tước “Vĩnh Quận Công”!
Theo
sách: "Các
Sứ Thần Đại Việt".
Đúng ngày mừng thọ vua Minh (Sùng Trinh), sứ giả các
nước đã tề tựu mà sứ thần Đại Việt vắng mặt.
Vua Minh cho thị vệ đến công quán hỏi. Khi đến nơi,
đám lính thấy sứ thần Giang Văn Minh nằm trên giường
ôm mặt khóc. Chúng buộc ông phải vào triều. Vua Tàu hỏi
vì sao vắng mặt? Giang Văn Minh nghẹn ngào nói:
"Thần
tự biết vắng mặt hôm nay là phạm vào trọng tội, xin
hoàng đế lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay đúng
vào ngày giỗ tổ của thần. Thần đi sứ xa quê, ngày
giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm
thì thấy xót xa trong dạ!".
Nói
xong, ông lại ôm mặt khóc ầm lên. Hoàng đế nhà Minh
cười nói:
"Tưởng
sao chứ như thế thì việc gì ngươi phải khóc ! Khá
khen cho nhà ngươi, biết giữ hiếu kính với tổ tiên.
Nhưng
nếu là giỗ cha mẹ thì còn được, chứ ông tổ đã xa
đến mấy đời thì cũng có thể miễn nghị”.
Giang
Văn Minh ngừng khóc, rồi đứng dậy lau nước mắt, ngẩng
đầu lên nói rằng:
"Muôn
tâu, lời dạy của Hoàng Đế thật quý báu. Chính thần
cũng đã nghĩ như vậy mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn
thấy trong đời có lắm chuyện xa xôi mà vẫn không được
miễn nghị. Chẳng hạn, Thiên triều bắt nước Đại
Việt phải cống người vàng, để trả nợ Liễu Thăng
cách đây đã 200 năm. Nay được lời Hoàng đế ban dạy,
thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với
ngày khánh tiết này. Cúi xin Hoàng đế từ đây miễn
nghị cho cái nợ Liễu Thăng, để tình giao hảo hai nước
khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu".
Nghe
xong, Hoàng đế nhà Minh biết mình đã mắc lừa sứ thần
nước Đại Việt, nhưng lời đã nói ra cũng đành “ngậm
bồ hòn làm ngọt” mà gật đầu, ra lệnh cho bãi bỏ lệ
cống người vàng.
Chuyện
cũng kể rằng: Trong buổi thiết triều, vua Tàu lấy lý
do: "Vì lệ cũ không quy định cho việc sắc phong,
phải chờ ban sắc thư tưởng lệ". Ý đồ của vua
Tàu là nhằm ngăn trở việc công nhận sự chính thống
của nhà Hậu Lê. Đồng thời, vua Minh còn ra cho sứ bộ
Đại Việt một vế đối rất ngạo mạn, như sau:
"Đồng
trụ chí kim đài dĩ lục".
Tạm
dịch: [Đồng
trụ đến giờ rêu vẫn mọc].
Câu
này Vua Tàu có hàm ý nhắc việc Mã Viện đã từng đàn
áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một
chiếc cột đồng với lời nguyền:
"Đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt".
Tạm
dịch:
[Cột
đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong].
Trước
sự ngạo mạn đó, sứ thần Giang Văn Minh đã hiên ngang
đối lại bằng câu:
"Đằng
Giang tự cổ huyết do hồng".
Tạm
dịch:
[Bạch
Đằng thuở trước máu còn loang].
Vế
đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người
Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc
trên sông Bạch Đằng.
Câu
đối xem như là cái tát vào mặt Hoàng đế nhà Minh trước
đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ
các nước... Phần
vì tức giận chuyện mắc mưu xóa bỏ lệ cống phẩm
"Người Vàng Liễu Thăng", phần vì lo sợ trước
tài năng của sứ thần Giang Văn Minh, vua Minh đã bất
chấp thể diện một nước lớn, bất chấp luật lệ
bang giao, trả thù hèn hạ bằng cách: Bôi đường vô mắt,
vô họng, cắt lưỡi, cắt cổ sứ thần Giang Văn Minh.
Giang Văn Minh mất ngày mồng 2.6 năm Kỷ Mão (1638), khi mới
65 tuổi.
Dù
nghĩa vụ đi sứ dở dang, nhưng đoàn sứ bộ do Sứ thần
Giang Văn Minh dẫn đầu đã tỏ rõ khí phách hiên ngang
của nước Đại Việt, không khuất phục trước triều
đình phương Bắc.
Thương
tiếc, cảm phục một sứ thần tài trí, dũng cảm bảo
vệ Danh Dự Tổ Quốc, vua Lê Thần Tông đã đến bái
kiến trước linh cữu, đồng thời ban tặng đôi câu đối:
"Sứ
bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng"
Tạm
dịch: [Sứ
thần không làm nhục mệnh vua, xứng danh anh hùng thiên
cổ].
Vua
Tàu [Sùng Trinh] sau khi giết chết sứ thần Giang Văn Minh
liền cảm thấy ân hận lẫn tiếc thương cho một nhân
tài. Hơn nữa là: Vua Tàu lo sợ bị dân Đại Việt trả
thù, nên ra lệnh tẩm liệm thi hài sứ thần Giang Văn
Minh và đặt vô hòm rất chu đáo, theo đúng nghi lễ Ngoại
giao… Sau đó, cho chuyển về nước Đại Việt.
Nhìn
lại lịch sử xưa nay của đôi bên. Người Tàu và người
Việt luôn luôn đối địch ! Dù là dưới chế độ Vua
Chúa, nhưng Triều đình và người dân Đại Việt - Không
hèn, không run sợ, không cúi đầu, không khúm núm trước
vua quan Tàu. Không vâng lệnh dâng tổ quốc cho ngoại bang
phương Bắc ./-
Trang
Y Hạ – San Francisco.
Có thể nói thái độ ngạo mạn, ỷ mạnh hiếp yếu của Minh Sùng Trinh chỉ là tiếp nối thói hà hiếp, bắt nạt các nuớc nhỏ và tham vọng bá quyền của các đời vua Trung Hoa từ Hán, Đưòng, Tống, Nguyên, Minh,Thanh cho đến ngày nay đối với Việt Nam...Ngày nay, tình hình bang giao lại càng khó khăn hơn bởi chủ trương thôn tính đất nước ta của Trung Quốc ngày càng bộc lộ rõ ràng và diễn biến vô cùng phức tạp, được che đậy dưới cái vỏ bọc anh- em tốt đẹp, miệng thì nhơn nhơn buôn chuyện hữu hảo, xây dựng quan hệ láng giềng tốt đẹp, nhưng dã tâm thì chỉ muốn chiếm đoạt nước ta từ đất đai, tài nguyên, khoáng sản với thái đô ngang ngược, xấc láo trong cách hành xử của một nước lớn . Trước tình hình đáng lo ngại của đất nước hiện tại, đòi hỏi các nhà ngoại giao (những sứ thần đương đại) phải nhận rõ trọng trách mà dân tộc đã giao phó cho họ. Nếu còn nặng lòng với non sông , hãy sống và noi theo tiền nhân: thể hiện sự tài ba lổi lạc và lòng tự tôn dân tộc với khí phách hiên ngang . Đối ngoại với thái độ mềm dẽo, kiên nhẫn nhưng cũng kiên quyết không nhúng nhường, không thuần phục, nói “không” với những yêu sách, những đòi hỏi rất vô lý của Trung Quốc
Trả lờiXóaXin mượn câu đối của dân gian viếng ông: “Thục bất hữu sinh, sinh như công dã, kỳ sinh như vinh. Thục bất hữu tử, tử như công giả, kỳ tử do sinh (tạm dịch: Ai cũng có cuộc sống, nhưng sống như ông, mới thật đáng sống. Ai mà chẳng phải chết, nhưng chết như ông, chết còn như sống). Hãy để sử sách hậu thế ghi tạc, vinh danh các vị cho con cháu đời đời còn ghi nhớ và tôn vinh, đừng vì tham vọng cá nhân mà trở thành tội nhân thiên cổ, có khi phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, và có khi phải chịu trách nhiệm trước lương tâm - làm người. Hãy nhớ lấy!
Cảm ơn cô giáo Thu Hương cho nhận xét. Chúc cô Vui Khỏe!
Trả lờiXóa