Thư viện

6/5/22

GỬI NGƯỜI NĂM CŨ

 



GỬI NGƯỜI NĂM CŨ


Thơ: Trang Y Hạ


Đường mười bốn đá dăm lởm chởm
rừng nhào ra mép lộ đứng rù rì
mây mưa kéo lạnh về vây tứ chi
mùa nắng gió tung xà-rông sơn nữ

ngày tao lên DakTo giống y chang người lữ thứ
đậu bên dòng sông vui: Dakpsi – Poko
ngày nghe con chim mỏ kiến gõ thân cây tre lồ ồ
sáng nghe con công kêu tố-hộ ngỡ là dàn hợp xướng

bầy quạ điên kéo mây đen trùm bốn hướng
xối xuống rừng ngập ngụa máu xương phơi
tao vào trận giành giật từng ngọn đồi
ngọn đồi cao: một nghìn hai mươi, một nghìn lẻ một

Charlie, DakTo, Toumorong, Ben Hét… phơi xương cốt
đôi tà áo em bay viền trắng mái đầu
hoa đót rựng nở trắng đồi tựa ngọn cờ lau
chưa kịp tập trận đã nhào ra vùng chiến tuyến

thân cây cắn răng chịu hàng nghìn đạn miểng
mủ trong thân chảy tràn ướt khung trời
đường mười bốn độc đạo quanh co núi ngàn khơi
đã dìu tao đi suốt một quãng thời trai trẻ

rượu cần với người bên bếp lửa cạn khô mấy ché
ngây ngất mùi rừng pha khét nắng quyện trong tim
người năm cũ bây chừ theo cánh chim
hồn vất vưởng lượn quanh vùng chiến địa

hồn lính trận: đứng nằm ngồi trông ra bốn phía
bóng quân thù đang lảng vảng khắp núi đồi
chiến tích xưa thoáng chốc hóa ra vôi
công trạng biến tội đồ thân đày đọa

nốc cạn ly ngửa mặt lên trời – cười ha hả
lịch sử khùng – chép trật lất tới mấy nghìn trang
cấp số đạn chưa vơi tao đâu dễ đầu hàng
giận khứa lão dương văn minh quá đỗi.

Trang Y Hạ – KBC: 6235

Lá Thư Viết Trong Đêm

Tao đã mấy lần…
ngồi xem phim: “Cầu Sông Kwai”
của một thời thế giới chiến tranh
thương cảnh “tù binh” quân Anh
vắt kiệt sức người, làm ra – cây cầu bằng gỗ

sương lam chướng khí, thật là gian khổ
sông mùa khô
lộ bãi cát trắng tưng
nắng như thiêu như đốt cánh rừng
trên từng khuôn mặt da trắng
đêm lạnh thấu xương – thiếu chiếu, thiếu chăn
tù binh quân Anh cúi đầu thầm lặng
làm cây cầu cho quân đội Nhật

người thiếu tá chỉ huy tù binh quân Anh
vị sĩ quan khôn ngoan và kiên cường – thật
giữ phong cách quân đội hoàng gia
người đại úy coi tù người Nhật
không bằng lòng – nhịp độ làm việc
kỷ luật vị thiếu tá, không tha

vị thiếu tá quân Anh ung dung, thật thà
đi vào “chuồng cọp”
tù binh quân Anh như rắn mất đầu
ngồi lặng lẽ giữa đêm thâu
họ đồng lòng: lơ là công việc
huynh đệ chi binh – quả là thắm thiết
người đại úy quân Nhật – dù tàn ác, khắc khe
cũng còn chút lương tri và hiểu biết
vị thiếu tá được thả ra, tiếp tục chỉ huy công việc
hoàn thành cây cầu
mồ hôi, máu, nước mắt, thấm mãi đến nghìn sau

những đau thương, và khổ nhục nát nhàu
không thể nào so với người tù “cải tạo”!
ngày “giải phóng miền Nam” – như cơn bão
người Nhật, người Anh
dù sao – da họ – cũng khác màu
đối xử như thế có thể gọi là: có tình có lý
hai miền Nam Bắc – đồng bào ruột thịt
trả thù: “bọn đầu hàng” như người mất trí
thu đất, thu nhà, ép vợ, đuổi con
dồn “bọn ngụy bán nước” đi vào ngõ bí
– “lao động là vinh quang”
chửi bới, đánh đập, chết đói, khát khô
đồi thấp, đồi cao, xác vùi lấp – hoang mồ


cầu sông Kwai – cây cầu gỗ
dù cho gãy đổ
cũng là “chiến công”!
Kwai, dòng sông
đi vào lịch sử
tao chưa một lần đến đó nhìn thử
ngày nay là: cây cầu sắt – Địa Danh
từng nhốt tù binh Anh, một thời thế chiến

tao hẹn một ngày, đến đó – thăm viếng
tao hẹn một ngày đẹp trời sẽ đến Thái Lan
trước: một chín bảy lăm – vẫn còn nghèo nàn
nghèo hơn miền Nam cùng thời gian đó
họ đã vượt qua gian khó
hóa rồng, hóa hổ – tiến bước
đất nước “anh hùng” – vì sao mãi trượt

mầy mới thật là: có phước
đứng thẳng lưng – suy tư trên cầu
mầy có nghe: núi cao tịch mịch
vọng đau thương chảy trong hồn người lính
bánh sắt nghiến đường ray đoàn tàu đi qua
mầy có nghe tiếng nấc của hồn ma
chết oan trong cuộc chiến
khúc quân hành và nỗi nhớ quê biền biệt

tao cảm ơn mầy
đã ngồi xuống, bên vệ đường mà viết
viết dùm tao, mấy vần thơ: xót người đồng cảnh
những người lính năm xưa – mồ hoang mả lạnh
những người lính bất hạnh – mãi nhớ quê nhà

tao nhìn lại tao, lính già quả thật xót xa
viết lá thư cho mầy – từ phương trời lạ hoắc!

Trang Y Hạ

Đứng Trên Đỉnh Đồi


Khói núi xây thành lòng gợi nhớ
đôi mắt trầm trầm thuở ra đi
sững sờ ngồi ngắm hoa tròn nụ
từ tâm mưa bão nói năng chi

bồ đào mỹ tửu – xưa cũng nhạt
thơ thần, thơ quỷ gói tình ai
quan hoài gót ngọc trường đơn chiếc
níu khói hoàng hôn lơ lửng ngày

thiên thần áo mỏng vương gió bụi
vẹt gót giày saut đuổi tháng năm
nàng đến, nàng đi dầu có biết
chinh chiến thân trai biệt mù tăm

rừng khuya gió lạnh chùng khói thuốc
hò hẹn lâu rồi biết phôi phai
trên đỉnh non cao chân còn vững
gió thổi bạt chiều sợi tơ bay

nhét hết tình thơ vô họng súng
tọa độ nào để bắn cho đây
hoảng hồn trố mắt nhìn thung lũng
mây trắng mỉm cười thật đắm say.

Trang Y Hạ

Cuối Năm Về Gặp Bạn


Tao với mầy hai hột gạo trên sàng
thiên lôi nện bảy búa chẳng bao giờ chết
Khe Sanh – Làng Vây – Lao Bảo – đà đi hết
KonTum – Tân Cảnh từng bước chân qua

tao với mầy là những thằng lính già
một thời trưởng thành trong lửa khói
cầm súng bao năm chưa một lần tự hỏi
khi nào chiến thắng - khi nào đầu hàng

đêm trường sơn lạnh buốt nhớ miên man
một bóng hình ai dịu dàng tha thướt
ước mơ tự nhiên chưa bao giờ có được
tiếng súng vỗ về an ủi giữa đêm đen

đâu biết có ngày tao mầy trở thành “hèn”
bơ vơ hoảng hốt giữa bầy lang sói
đưa tay níu mặt trời thử hỏi
có còn ánh sáng nữa hay không

tao về thăm mầy ngồi trên bờ sông
dòng sông ngăn chặn thành đập nước
con chim bói cá miệt mài chưa bắt được
ngơ ngác nhìn nhau nghĩ mà buồn

quán nhậu quanh bờ, sương chiều đã buông
trên mặt bàn những chai bia kêu khát
dưa chua, củ kiệu nằm im nghe nhạc
đôi chân dài, quần ngắn – đứng xơ rơ

bia lạnh cụng nhau sóng vỗ bờ
nhớ một thời dầm dề rượu đế
rượu cây lý, rượu ngô, rượu mì bất kể
cơm độn không đủ ăn vẫn “xỉn” như thường

quăng súng đầu hàng trở về làm vườn
quăng súng đầu hàng trở thành tội phạm
gặp lại nhau đây vẫn còn chưa dám
nói ra sự thật và những ước mơ

những đứa con chúng ta không còn trẻ thơ
tóc bọn chúng bắt đầu lâm râm bạc
uống rượu với cháu con ân tình chưa nhạt
cảm ơn đất trời sông núi mãi tươi xanh

gặp lại nhau đâu nhắc chuyện quân hành
trong ly rượu sóng kình giông gió bão
giữa yên bình mà tâm hồn lơ láo
chiến trường xưa ẩn nấp dưới thời gian

gặp lại nhau chúng ta không thở than
không oán hận, van xin hay kể lể
bước chân đi giữa muôn vàn dâu bể
lòng vẫn vui xen lẫn chút tự hào

ai công hầu, ai khanh tướng – chẳng sao
miễn giữ được mảnh giang san gấm vóc
miễn giữ được khí anh hùng dân tộc
bốn ngàn năm dựng nước của cha ông

tình bạn hữu còn thấm mãi trong lòng
ai nói ngược, ai nói xuôi – mặc kệ
dù tuổi đời chúng ta đà bóng xế
có chết đi, không có nghĩa là quên

chết nghĩa là: sống mãi với tuổi tên
sống trong lòng những lớp người đang sống
dù bức tử giữa trời cao đất rộng
bản án nào cũng đích đáng cho kẻ gian tham

sống bất cứ nơi đâu cũng phải làm
xa quê hương là điều không ai muốn
hơi thở ra còn vương mùi phèn ruộng
gió còn chướng lên rát mặt tha nhân

xin cảm ơn đã tiếp đãi ân cần
ly rượu trắng hay ly bia nồng ấm
không đắng ngét nơi phương trời xa thẳm
uống một mình nhỏ lệ nhớ anh em.

Trang Y Hạ

Vơi Đầy Với Tiếng Thơ

Cầm cái phôn: bấm bấm số này
đêm hôm khuya khoắc bạn đến ngay
vài chai bia nhỏ như đồ bỏ
đôi cánh chim rừng thoải cánh bay

hai thằng bạn tù vừa mới gặp
mà lòng đã chín tự bao giờ
chẳng có con đường nào thẳng tắp
tâm sự vơi đầy với tiếng thơ

gặp bạn một lần đã ngàn năm
cho dù viễn xứ có xa xăm
trong ngoài mặc kệ – luôn kề cận
cuộc sống hơn nhau ở tấm lòng

ngày đi bận rộn chẳng một lời
Mẹ già chín chục rồi bạn ơi
nhói lòng nước mắt thi nhau rớt
từng bước tang thương tím ngất trời

thời gian gấp gáp – xin đừng giận
quên gọi – chưa hẳn là đã quên
tằm thơ một kiếp sao lận đận
gió cuốn – triền đời đứng chênh vênh.

Trang Y Hạ


Vẫn Còn Chút Quà Xuân

Trời đã cạn năm, hoa mở ngõ
nặng nề từng khắc – chuyến xe qua
hồn quê một thuở còn nguyên đó
dù muốn dù không cũng ruột rà
*
ngày nao ôm súng – đi gìn giữ
lội khắp trận tiền lửa đạn bay
mịt trời khói súng trùm công sự
ngữa cổ uống tràn bình rượu cay

nón lá nghiêng – chao đời nón sắt
giày saut, thép súng chợt mềm lòng
đọng buổi tiễn đưa trời rây rắc
giọt nước nguồn rơi – rơi nhớ mong

đàn khảy đêm xuân xua tiếng pháo
rừng lau im lặng nghe tình ca
chẳng sóng mà sao dông gió bão
chiến chinh hề – xa vẫn còn xa

cuối năm trời đất rùng mình chuyển
xuân nhớ nhân gian lững thững về
ghìm súng một thời nơi chiến tuyến
say nằm trận địa có ai chê

say đâu cớ chi không cầm súng
bỏ mặc non sông với gió mây
không khóc mà tận lòng ướt sũng
ngàn năm ôm hận nỗi sầu lây
*
hồn quê một thuở còn nguyên đó
Lây lất – lính già xót núi sông
đôi nạng mặt đường khuya khoắc gõ
âm thanh khô khốc tủi trong lòng

tao biết mầy mò về chiến địa
tìm thằng nằm xuống tận năm xưa
gom lại – nén nhang – tình với nghĩa
đồng đội nhớ nhau đâu có thừa

lính trận – thương những thằng lính trận
ai bỏ chạy đi – mặc chạy đi
chuyện đời đen trắng hơi đâu giận
chinh chiến – thân trai phải biết lỳ

năm mới trở về thăm chốn cũ
chút quà xuân mọn – tấm lòng tao
nỗi nhớ bạn xưa còn ấp ủ
nắng xuân hy vọng mãi tươi màu

sóng vỗ rượu tràn – lên vết sẹo
đã lành, cốt tủy vẫn còn đau
tuổi nhiều lọm khọm – gân còn dẻo
đủ sức nâng ly chúc: “ khỏe giàu”

mấy chục năm qua đời mỗi ngả
dặm ngàn quan ải bỏ sau lưng
những thằng vất vưởng không mồ mả
người lính hy sinh khổ quá chừng

ôn lại tháng ngày chinh chiến cũ
non xanh nước biếc vẫn còn đây
mẹ già suốt một đời lam lũ
xấu hổ thân trai một kiếp này

trời đã cạn năm hoa mở ngõ
nặng nề xe chở vạn niềm thương
bồn chồn con én nương theo gió
cuồn cuộn theo sau đám bụi đường.

Trang Y Hạ

Gửi Thằng Ngồi Trên Lô Cốt

 
Cái lô cốt một thời lửa khói
Lỗ châu mai xả đạn vào nhau
Nhắm mắt; nhắm mũi bắn rào rào
Tan khói súng – còn lại nỗi đau
Mầy bỏ mười năm
Gánh đời trai đi cải tạo
Tao cũng như mầy
Bảy năm thèm: Hạt-gạo-đứt-hơi

Mầy bẻ viết quẳng lên trời
Vác cuốc – mò cơm
Vắt mồ hôi bón lúa
Tao có hơn gì đâu – Khiết ơi
Cũng lang thang đầu đường – chợ búa:
Vá xe, đạp xích lô…
Tao thương mầy về ngồi trên lô cốt
Chắc mầy cũng như tao
Chợt nhớ thuở sông hồ
Thuở “Hồ trường” tung hê ngang dọc
Những lúc buồn độc ẩm – Tao cười khì
Mà sao nghe như là tiếng khóc
Mầy có nhớ không
Tao nhớ lắm – đồng đội một thời lăn lóc
Nhớ nước ngọt dòng sông
Tưới vườn thơ ấu
Từng lớp phù sa ướp lớn thành người
Mầy về ngồi trên lô cốt
Sao mầy không chịu mở miệng ra cười
Tại sao vậy hử
Hàng cây xanh um mọc trên quá khứ
Tao biết mầy buồn
Thằng nằm vất vưởng đâu đây
Thằng, theo gió mây nguồn
Thằng “lang bạc kỳ hồ”
Nằm chèo queo nơi xứ lạ
Giọt nắng chiều rơi qua kẽ lá
Tao thấy mầy xót đau
Tao ngồi đây
Nhớ da diết hàng cau
Hoa cau trắng – như đôi bàn tay trắng
Dáng mẹ lom khom
Trên bến sông vắng lặng
Đưa con đi – chẳng thấy quay về
Thư cho mầy, thằng đệ Khiết
Trong lòng tao hả hê
Bởi mầy về ngồi trên lô cốt
Cái lô cốt “nhốt” tuổi đời bồng bột
Viết thư tình trên lưng chiếc ba lô.

Trang Y Hạ

Đêm Nghe Thằng Bạn
Tù ngâm T


Đ
êm yên lặng, ngoài trời sương rất lạnh
thân ly hương dây rún cắt thuở nào
mở cửa sổ nhìn ra ngoài  ảo não
chờ bao lâu mới thấy ánh trăng sao

cho thằng nằm lại đây trên núi cao
thơ mầy viết mười năm tù rên siết
cái U sắt cùm người trai đất Việt
đày mười năm không biết tội tình chi

tao cũng như mầy từ năm ấy ra đi
mà đâu biết tra chân vào lao lý
cuộc chiến đấu qua phần tư thế kỷ
để bây giờ –  vứt tuổi trẻ lên non

giọng mầy ngâm mà lòng tao héo hon
ngâm như khóc đoạn đời tù cay đắng
ngâm cho tan những  ước mơ thầm lặng
ngâm cho thằng  nằm hận giữa “Trường Sơn”

đêm yên lặng tao càng đau đớn hơn
bão quá khứ dội về cay đôi mắt
giọng Miền Nam, mầy ngâm nghe khàn đặc
mà sao hay đến đứt ruột, đứt gan

tao cũng như mầy ôm nỗi sầu chứa chan
ly rượu đắng không xóa đi tủi nhục
nghe mầy ngâm mà lòng tao thôi thúc
gặp anh em – sờ… lại vết thương đau

giọng mầy ngâm thấm ngọn tóc ngả màu
gió Trường Sơn – hồn ai về thưởng thức
điếu thuốc lào rít thắt đau lồng ngực
nhả oan hờn cuồn cuộn giữa non xanh.

Trang Y Hạ
Tặng thi sĩ Nguyễn Thanh Khiết



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét