NGÀN NĂM THĂNG LONG
Thơ:
Vyvy Lan. Tặng: Trang Y Hạ
Thăng
Long hỡi tôi mơ hồi trống trận,
Phá
xâm lăng cường bạo báo hồng ân.
Nhớ
thành xưa của những Lý-Lê-Trần
Cờ
phất phới tiễn đoàn quân chiến đấu.
Tôi
mơ lắm tự thuở còn thơ ấu
Chuyện
Rồng bay huyền thoại đã truyền rao.
Mơ
Quân Vương trao kiếm báu năm nào,
Sau
trận mạc hoàng bào vương máu giặc.
Mơ
sống lại trái tim Bà Trưng Trắc,
Phận
nữ nhi cũng lược giắt trâm cài.
Hán
Quân kia từng khiếp đảm thần oai,
Dòng
sông Hát, tuyền đài soi bóng ngọc.
Ngàn
năm trước Thăng Long còn trong trí...
Tiếng
quân reo ngựa hí đuổi quân thù.
Cổ
thành xưa nền cũ bóng tàn thu
Mà
chẳng thấy đoàn sĩ phu đất Bắc.
Thần
Kim Quy thanh kiếm vàng đã cất,
Biết
trao ai dũng khí đất Thái Hà?
Năm
cửa ô nay chờ đón Phục Ba!
Còn
ai nhớ trận Đống Đa, Kỷ Dậu?
Giờ
Thăng Long đỏ tươi tanh cờ máu.
Quỷ
Vương sao cũng biết khoác Long bào?
Chểm
chệ ngồi trên chín bệ ngôi cao,
Mặc
lê thứ kêu gào trong khổ ải...
Ngàn
năm sau Thăng Long buồn tê tái,
Rứt
thịt da...chia biệt Ải Nam Quan!
Biết
khi nào lấy lại đảo Hoàng-Trường,
Trang
Sử Việt lật những chương buồn bã...!
Quốc
Tử Giám sầu thương từng bia đá,
Nơi
Ba Đình vất vưởng những hồn ma
Nước
không thông dòng không chảy, Nhị Hà
Như
cũng muốn cùng dân hòa máu lệ.
Đã
giết chết bao đời trai thế hệ,
Đã
vùi chôn bao phận gái ê chề
Cả
em thơ cũng sống cảnh bùn nhơ.
Còn
kiêu hãnh Thăng Long Ngàn Năm Thế!
Lời Gió Mưa:
Lý Thái Tổ (974 – 1028). Ông đã thành lập triều đại Nhà Lý (hậu lý). Tiền Lý là Lý Nam Đế. Ông dời đô từ Hoa Lư về Đại La năm 1010 về sau đổi tên thành Thăng Long. (Tức Hà Nội ngày nay). Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên, rồng bay lên là điềm lành đem lại sự bằng an và cuộc sống sẽ vươn lên như rồng. Vậy mà mấy ngàn năn qua dân Việt không thể bay lên nổi nên cứ mãi nghèo đói triền miên... Và, theo truyền thuyết thì dân tộc Việt sinh ra bởi mẹ Âu Cơ và cha là Lạc Long Quân. Mẹ Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng trong một bọc, do đó mới gọi là “Đồng Bào”. Ngày xưa đẻ như vậy là linh thiêng, còn ngày nay y học cho đó là “quái thai”. Bởi do Cha rồng, Mẹ Tiên nên sinh ra xung khắc đành phải “ly hôn”. Mẹ Âu Cơ dẫn năm mươi đứa con đi lên rừng. Cha Lạc Long Quân dẫn năm mươi con xuống biển. Con Tiên, Con Rồng đâu có biết nghề ngỗng gì quanh năm chỉ biết phá rừng để sống, bắt cá để ăn. Do đó, cây rừng mọc không kịp, cá cũng lớn không nổi.
Bầy con quái thai lớn lên lại tranh giành lãnh địa. Từ dưới biển kéo nhau lên rừng; từ trên rừng kéo nhau xuống biển, hai bên “xáp-lá-cà” - gà nhà bôi mặt đá nhau - tới u đầu sứt trán triền miên... Tệ hơn nữa lại còn chia lãnh địa ra làm mấy khúc. Cuối cùng con bên mẹ Âu Cơ chiến thắng, đuổi con cha Lạc Long Quân chạy xuống biển đành phải đi tỵ nạn khắp bốn phương trời.
Trót mang họ “Lạc”, nên con cháu mấy ngàn năm nay cứ mãi ly hương.
***
Tôi nhận được bài thơ của thi sĩ Vyvy Lan gửi tặng. Đó là: “Ngàn Năm Thăng Long”. Nội dung trong bài thơ, thì ý thơ đã trình bày quá đủ sự kiện, địa danh rồi chẳng cần phải bàn luận gì thêm. Bài thơ tác giả viết bằng cả tấm lòng cho quê hương tổ quốc:
“Ngàn năm sau Thăng Long buồn tê tái,
Rứt thịt da, chia biệt Ải Nam Quan!
Biết khi nào lấy lại đảo Hoàng-Trường,
Trang Sử Việt lật những chương buồn bã...!”. (Vyvy Lan).
Trước đây, tôi có đọc bài thơ “Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh”
"Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi
mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn
còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không
biết kêu đòi…”. Tác giả: (Cô giáo Trần Thị Lam).
Bài
thơ của cô giáo Lam như những lời hiệu triệu kêu gọi
lương tri của hàng ngàn Việt khắp nơi.
Thi
sĩ Trần Tử Ngang (661 – 702) thời Nhà Đường nói “Làm
thơ là để gửi tấm lòng vô thiên cổ, chứ không phải
lưu danh nhất thời”. Gửi vô thiên cổ đó chính là gửi
vô lịch sử. Thơ văn tức là viết giùm cho từng giai
đoạn lịch sử, cho những chuyện bất công áp bức, cho
sự nghèo đói, cho sự chia ly; cho yêu thương giữa con
người với con người chứ không hẳn chỉ có tình yêu
trai gái, hay “than thân trách phận, hờn giận cuộc đời”.
Trong
"The of Reason" của Triết gia Tây Ban Nha (George
Santanaya) cuối thế kỷ 19, có nói: - "Những kẻ nào
không nhớ đến những chuyện xảy ra trong quá khứ thì
thế nào cũng bị rơi vào hoàn cảnh tái diễn lịch sử".
Ở trong Tiếng Việt, chữ nói về “Tương Lai” có năm
chữ [5]. Chữ nói về “Hiện Tại” có bảy chữ [7].
Chữ nói về “Quá Khứ” có mười tám chữ [18]. Như
vậy, quá khứ định hình cho tương lai. Chúng ta luôn nhìn
về quá khứ để đi đúng hướng.
“Quốc
kêu tê tái san hà,
Ta
kêu dĩ vãng thức ra nhớ nguồn” (Trích thơ: Trang Y Hạ)
Cảm
ơn thi sĩ Vyvy Lan. Chúc thi sĩ luôn an vui, sức khỏe!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét