Thư viện

10/10/25

UỐNG RƯỢU VỚI CỤ LÝ CÔNG UẨN

 



UỐNG RƯỢU VỚI CỤ LÝ CÔNG UẨN


        “Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
       Năng ức thiên nhai vạn lý nhân”.
                                 Thơ: (Âu Dương Tu).

Đêm chẻ nhỏ, bỏ tĩn vò lưng-lửng
rộn đầu đau thủa kỵ-mã chiến-binh
buổi tiên tổ, rần rần cơn địa-chấn
vận thái xưa chừ chỉ sót dáng hình.

Sương len lén vin cành lo lá thức
phủ xuống dòng suy ngẫm một vĩ nhân
chân đau quất, cong queo nào dám duỗi
e sợ rằng, xã-tắc sẽ xoay vần.

Hồi chuông dẫn Lăng-Nghiêm-Kinh bừng sáng
lá bồ-đề chở nặng giọt nhẹ tênh
không lộ vẽ hồng trần qua đất hẹp
mộng quân vương ẩn giấu một góc đền.

Hoa-Lư ẩn, thân rồng nằm đợi đợi
vọng Tiêu-Sơn, rêu đọng bóng hoàng-hôn
tri mỗ số hẹn hội mùa khai-trí
đêm lắng nghe lòng sóng vỗ dập-dồn.

Đại-La mộng Thuận-Thiên linh khí hiển
dấu trăm năm cố trụ một cơ-ngơi
Chiêu-Hoàng-Lý, thương chồng nhường ngôi báu
chánh-sử lưu thời sử nhớ nhớ đời.

Kẻ hậu bối, chưa thăng trầm đã định
quăng súng gươm đứng ngẫm nỗi can qua
thân tù tội, sờ chiến-thân đau thắt
buổi lưu-vong ngóng tổ-quốc, ngóng nhà.

Kẻ hậu bối, đà xé thân hãn cách
đáo cuộc đành ngậm bệnh bước đi hoang
nơi biên-tái, chốn trận tiền dũng mãnh
vũ-khí cầm ngửng mặt cúi tan hàng.

Ruộng còn đó, hương đồng lưu tán mỏng
người còn đây, người đã khác người xưa
đất còn đó, đất sang tay kẻ lạ
địa danh in tủy não kể như thừa.

Hơi tửu thấm trắng đen len sợi tóc
ngọn đông phong chuyển hướng én về chưa
lòng rộn-rã hoan-ca hồn non nước
chuỗi xuân-thâm nối tiếp khúc giao mùa.

Chuông Cổ-Pháp thinh không sầu vọng lại
lớp lá sau sân chùa biết có hay
tiếng chổi dội rơi sương chiều không nữa
người xưa ơi, xin thấu hiểu lòng này.

Trang Y Hạ

Cước Chú:
Bài: Xuân Nhật Tây Hồ Ký (Âu Dương Tu).
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
Năng ức thiên nhai vạn lý nhân”.
Dịch thơ:
(Gặp bạn hiểu nhau ngàn chén ít
Chuyện trò không hợp nửa câu dư
Mới biết trên hồ cầm chén rượu
Nhớ người vạn dặm buổi tạ từ.).

LỜI GIÓ MƯA:
Theo sách: “Mộng Kê Bút Đàm” của Thẩm-Hoạt đời Tống thì Lý-Công-Uẩn vốn gốc là người Mân (Phúc-Kiến). Tiến sĩ Từ-Bá-Tường, người Quảng-Tây, nhà Tống. Nội dung trong thư gửi cho Công Uẩn cũng nói: “Tiên thế đại vương vốn là người đất Mân. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng có nhiều người đất Mân.” .

Trần Phước Hân (Sưu Tầm).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét