Thư viện

5/6/25

MƯA SAN FRANCISCO (Thơ Phổ Nhạc).

 




HÀNG CÂY GIÀ

 



HÀNG CÂY GIÀ


     “Đài các hữu nhân nho tịch noãn,
        Biên thùy vô sự liễu doanh nhàn”. (Nguyễn Trãi).

Hàng cây, đứng bên đàng
chào nhau, chào buổi sáng
dốc phố quen, rủ rê về chạng vạng
hỏi vì sao, quá khứ mãi tươi xanh.

Sương vẽ màu, vẽ rong rêu rực rỡ nắng hanh
cành cây ướt
con chim già, ho húng hắng
văng vẳng nghe
tiếng gót giày thầm lặng
gót của nàng, hay là gót chân ai.

Gió, mở lòng thổi hơi gió tê tay
mùi áo trận thoang thoảng hương trinh nữ
ôm dây rốn, biết chốn đời lữ thứ
mẹ cưu mang chưa cho chọn phương nào.

Hàng cây đứng bên đàng
sức lực tiêu hao
không thể nắm, tay nàng quay trở về đoạn cuối
để cùng ngồi, gom dương liễu vào thơ
bên kia bờ đại dương lầm lũi ngày mơ
trang lưu bút, nhen lên từng nét ấm.

Từ khi biết tên người
đã biết yêu, từ non cao núi thẳm
bông ái tình, mỗi ngày mỗi hoa râm
đã để mất, câu thề dưới trăng rằm
con chim mộng tha phương, mong hội ngộ
rừng luyến rừng, kỷ niệm luyến nơi đâu.

Mưa mùa trước phủ mờ, mất hút bóng hải âu
áo Hoàng Sa, đẹp dung nhan vàng hoa cúc
tuyết mấy mùa, có ghé hỏi thăm
khúc ngũ liên sóng vỗ bờ thôi thúc
từng đoàn quân, hăng hái bước xuống thuyền.

Đôi tay từng cầm lái giữ bình yên
con quốc kêu, mặc kệ đêm sương mọng
chân lặc lè, trái tim đương nóng
chiến trường xưa, còn giữ lửa chưa tan.

Hàng cây đứng bên đàng
trông theo bờ dĩ vãng
yêu quê hương, chưa khi nào hữu hạn
thương hàng cây bên đàng dáng cao hơn.

Trang Y Hạ
San Francisco, 2010.




HÒN NON BỘ (Thơ: Phổ Nhạc).


 



27/5/25

ĐẤT NGHẸN

 



ĐẤT NGHẸN


      “Cử đầu vọng minh nguyệt, 
       Đê đầu tư cố hương.”,
                       (Lý Bạch).

Không phải tới giờ mới thấy thương quê
đã biết yêu quê từ thuở vừa sang sáu
tuổi thơ ngây, tập-tễnh tập mặc quần dài
thử đón tết, thử ngửi mùi nhang ăn bánh ú.


Mỗi ngày đoán giờ, qua bóng cây cau cây đu đủ
sáng gầy lờ, chiều tối cha ở ruộng về đan [1]
đan cho đặng sớm mai mẹ đem ra chợ
mới sáu tuổi đầu, biết chia khổ với mẹ cha.

Dựa gối gầy lờ, bụng ỏng trông đám ruộng xa
bóng mẹ tỏ mờ, giống bà tiên hiều hậu
bánh đúc xẻ hình thang, chấm mắm cái mẹ mua
ăn ngấu-nghiến, còn hơn nem công chả phụng.

Đói phân, cây sắn gắng gượng cao ngang bụng
con bò, con trâu không dám gặm trụi cỏ đồng
mùa lúa chín, rơm rạ theo người về nhà sum-họp
thằng bù nhìn buồn xo, xuôi tay ngó bầy chim.

Tháng chạp, đám mía khoe cờ lau đứng lặng im
vắt vẻo lưng còng chuyển về lò ép lấy nước
đường bát đối mặt, quấn rơm khô nằm thúng
gánh đi bỏ mối lấy tiền sắm tết, đón giao thừa.

Sông Rù-Rì, mùa cạn ngong ngóng cơn mưa [2]
tự biết bơi, lặn lần theo từng con cá bé
trong veo nước, hột phù-sa trôi về phương nào
bóng mây trắng lộn nhào theo cát trắng.

Mẹ mỗi ngày ngồi dệt, mẹ thèm hơi nắng
khung cửi ôm chân hòa nhịp tiếng thoi đưa
mẹ dệt thuê lấy gạo, khắp cả nhà người
vải đẹp cho đời, tấm áo mẹ vá tả tơi.

Cha vật lộn mảnh đất nhỏ “hương-hỏa”, xói đời
đất nghẹn không thể nào cho chi thêm nữa
cơm nồi đất, tụ hội bạn bè vui sắn khoai
khoai sắn, cũng cân đo đong đếm chi li.

Ngồi đánh vần mơ ước mệt mỏi ngủ li bì
trong mộng-mị, bảng ghi danh đỗ trạng-nguyên
thức giấc, mẹ cầm tay đồ theo từng nét chữ
chữ nho, cha dạy rúi nùi như đan như lát.

Cha mẹ, lìa quê lên miền cao-nguyên lưu lạc [3]
bỏ gầy lờ, gầy tương lai da đỏ sậm ba-dan
đất lạ đãi người mới, ruộng vườn xanh mướt
chuông nhà thờ dội tan sương báo tin mừng.

Ánh sáng chính là thuốc khử trùng trên từng
bông mai vàng nở lại, rõ “phúc họa tương tinh”
cuộc đời có vết nứt, ánh sáng mới lọt qua
móng nhà đổ nát phải chăng chỉ vì con kiến.

Mưa nắng hai mùa, cha mẹ dành vốn liếng
gió núi khói sương lạnh cóng, chẳng nề hà
đôi chân, chân cứng đá mềm chưa than-thở
hy-vọng hai thân dồn hết về những đứa con.

Bầy em sinh sau, chịu cảnh tản-cư mỏi mòn
trở lại thăm lại, nơi sinh ra cùng hơi núi
cao-nguyên giữ nguyên trạng, cho người về nhớ
mùi nắng, mùi mưa, mùi hy-vọng, mùi chia ly.

Cuộc đời ai cũng có nhiều tiếc nuối
thôi đành ôm nuối tiếc bước theo thủy-triều.

Chạy được hòa thượng, không chạy khỏi miếu
đám thảo-khấu ùa về cướp hết cả công-lao
đất nghẹn nhìn người bỏ quê, đi lánh nạn
cha mẹ ly-hương lây qua đời con tha-phương.

Ngụ ở bên này bờ đại-dương,
sóng vỗ lòng đau, tơ tưởng đoạn đường làng
mẹ dẫn đi chúc tết bà con trong xóm
cha dẫn đi chạp mả, trời đông gió bấc mưa phùn
dạy con, lòng ngay không sợ bóng nghiêng.

công lao cha mẹ, nối tiếp các bậc tiên-hiền
ngậm ngùi lìa quê, còng lưng khai-cơ lập-nghiệp
để lại cho con, - xin lỗi chúng con đành để mất
đất nghẹn, tới khi nào hết nghẹn cho đây.

Trang Y Hạ
San Francisco, 2008

Cước chú:
1- Lờ là một dụng cụ bắt cá đồng.
2- Sông Rù-Rì ở Xã Sơn-Xuân, Quế-Sơn, Quảng-Nam. Sông còn có tên Ly-Ly.
3- KonTum, 1957.


San Francisco (Hoa Kỳ)

20/5/25

CHỮ PHƯỜNG TRONG ĐỜI SỐNG

 



CHỮ PHƯỜNG TRONG ĐỜI SỐNG

Tác giả: Trang Y Hạ

     Trong cuộc sống hằng ngày, từ (cổ tới kim) - hễ nói địa danh thì địa danh gần gũi nhất đó là “phường”. Phường ở đây, nói về hành chánh là một đơn vị thấp nhất ở trong xã hội không chỉ ở Việt Nam mà ở cả bên Tàu. Phường đã có lịch sử, lịch sử văn thơ từ rất lâu đời. Ngoài phường thì còn có: Thôn, Ấp.

     Vậy tóm tắc chữ Phường như sau:

     Chữ “Phường” nguyên gốc là Hán Việt & Hán Nôm, thuộc Hán Cổ, Việt Cổ, có nhiều nghĩa cả chữ viết cũng có số nét khác, (Hán Nôm có tới Ba Chữ Phường có nét khác nhau). Trong bài nầy, chỉ đề cập tới hai bộ chữ Hán có dính líu tới chữ Phường, đó là: “Bộ Thổ & Bộ Ngư”.

Bộ Thổ: Phường, một âm khác là (Phòng).

     Phường chỉ về đơn vị hành chánh. Theo tài liệu xa xưa, thì phường chỉ áp dụng trong kinh đô, trong thành quách, trong châu huyện. Bên ngoài thì gọi là thôn, ấp... Ví dụ như: Kinh thành Thăng Long cũ gồm có ba mươi sáu [36] phường. “Khán khán ai bộ thậm khẩn, các xứ thôn phường giảng động liễu”. Tạm hiểu (Tình hình bắt bớ gấp gáp, xóm phường đều bàn tán xôn xao). Trích: Thủy Hử.

     Phường là một tổ chức, thời “phong kiến” gồm những người có đầu óc kinh doanh buôn bán hay cùng một nghề nghiệp thủ công nhưng không thể tự đứng ra hành nghề đơn độc. Do đó họ phải liên kết lại gọi là Phường dựa nhau làm ăn mà không sợ kẻ khác ức hiếp. Ví dụ: (Phường chèo, Phường hát, Phường vải, Phường nón, Phường thợ săn…).

     Ông bà ngày xưa có câu: “Buôn có bạn, bán có phường”. Tục ngữ đã nhắc nhở khi làm ăn, buôn bán - phải biết hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển, nếu mạnh ai nấy làm vì cái lợi nhỏ – sớm muộn sẽ nhận lấy hậu quả thua lỗ. Trong lãnh vực buôn bán vẫn có nghệ thuật có cộng hưởng, nhân ái chứ không thể đứng một mình mà thành đạt. “Buôn có bạn, bán có phường, Làm ăn có xóm, có làng mới vui”. (Ca Dao).

     Phường là: Cao ốc, biệt thự, dinh thự, đình miếu xây dựng để ghi ơn công lao của các bậc hiền tài ở làng mạc. Đó là “Trung Hiếu Phường” và “Tiết Nghĩa Phường”.

Phường là: Trường, sở, nhà dành riêng cho các chương trình hoạt động nào đó, gọi là: “Tác Phường”, có thể xem đó như một xưởng chế tạo, chế tác...

     Phường, một âm khác là “phòng”, như đê điều phòng lũ lụt. Trong “Chiến Quốc Sách” (Tần Sách), có câu: “Trường thành cự phường, túc dĩ vi tái”. Tạm hiểu: (Trường thành và đê lũy lớn, đủ làm quan tái), hoặc: “Dĩ phòng chỉ thủy, dĩ câu đảng thủy”. (Lấy đê ngăn nước, lấy ngòi dẫn nước). Mục đích chung là phòng vệ, cố thủ phòng vệ biên giới, phòng trộm cướp, phòng hoạn nạn. “Thiện phòng giả thủy dâm chi”. (Giỏi đắp đê ngăn nước ngập lụt). Đỗ Phủ, có câu: “Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà, Tiện chí tứ thập tây doanh điền”. (Có kẻ năm mười lăm tuổi đi ra bắc phòng giữ đê sông Hoàng Hà, Đến năm bốn mươi tuổi đi khẩn ruộng ở phía tây). Chữ Lũy có một âm là: “Quấn quýt”.

     Phường, chỉ về một nhóm người có hành vi lưu manh, bất hảo, du thủ du thực chuyên đi quấy rối trật tự trị an thậm chí ăn cắp, ăn cướp hiếp đáp người dân lành rất đáng khinh bỉ và nguyền rủa, như: “Phường thảo khấu, Phường đá cá lăn dưa…”. Trong truyện Kiều có câu: “Con này chẳng phải thiện nhân. Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng. ”. Hoặc: “Tình cờ chẳng hẹn mà nên, mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”, và hoặc: “Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Chữ phường nầy cũng đồng nghĩa với “Lũ, Bọn, Tuồng, Hội”.

Tuy nhiên, không hẳn chữ “phường” hoàn toàn xấu mà còn có ý hay - dùng để nói lên tính cách phô diễn, so sánh. Chẳng hạn như câu Kiều: “Nàng rằng: Trộm liếc dung quang, Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.”.

     Phường là cửa tiệm, như: Trà Phường, (Tiệm Trà). Phường Tứ” (Hiệu Buôn).

     Phường: (Động Từ): Trở Ngại, Ngăn trở, Nguy hiểm. Còn có âm khác là “Phướng”.

Bộ Ngư:

      Chữ Phường trong Bộ Ngư “Phồn Thể”, là: Con cá. Trong chữ “Giản Thể” là: Con cá mè, Con cá Phường. Từ đó mới có câu: “Thế hào ngư nhục hương lý”. Tạm hiểu: (Kẻ cường hào thường hay hà hiếp dân lành).

     Như đã nói, – phường là đơn vị hành chánh cuối cùng trong hệ thống hành chánh, (dù mang tên hay mang số) dù không ảnh hưởng nhiều hay sâu đậm về mặt lịch sử, địa dư. Biết vậy nhưng vẫn có các tên phường đã có từ hàng thế kỷ, trải qua nhiều biến thiên thay ngôi đổi chủ tên tuổi vẫn còn giữ; (còn giữ trong lòng người). Ví dụ: Phường Bến Nghé, Phường Da-Kao… (Số tên phường đó đã có từ thời Triều Nguyễn).

     Từ cổ tới kim mỗi khi có một triều đại mới nổi lên là có thay đổi địa danh, địa dư (chia ra, hợp lại). Chia ra, nhập lại vì lý do lưu thông, kinh tế, quân sự mà vẫn giữ tên gốc thì không cần phải bàn. Xóa bỏ địa danh lịch sử vì lý do “Chính Trị”, nhằm mục địch “Trả Thù” triều đại cũ, chế độ cũ không cùng chí hướng, không cùng chủ thuyết “ngoại lai” thì thật là tệ lậu và đáng tiếc.

     Xóa bỏ địa danh hành chánh lâu đời không hẳn là chỉ mất địa danh mà còn mất đi “giọng nói” – dù giọng nói còn đang nói và sẽ còn nói... - nhưng các thế hệ mai sau không biết giọng nói của mình ở vùng nào (trên giấy tờ). Ví dụ: Mất Tỉnh Quảng Nam, Mất Tỉnh Quảng Bình, Mất Tỉnh Thừa Thiên, Mất Tỉnh Phú Yên, mất Tỉnh Kon Tum… Đó là chưa kể tới Ca dao, Tục Ngữ, Văn, Thơ, Vè, Phú cũng như thổ sản ở mỗi nơi.

     Thời đại Computer, người ta quản lý nhân sự, quân sự, kinh tế, khoa học kỹ nghệ, giáo dục, y tế...- bằng kỹ thuật số rất nhanh gọn chính xác không cần xử dụng một số lượng lớn công chức hành chánh quá đông, ban bệ công sở vật chất tốn kém nặng nề từ trung ương cho tới địa phương làm hao tốn ngân sách. Vậy nói, xóa bớt Tỉnh, xóa bớt Huyện, xóa bớt xã, phường - nhằm giảm nhẹ bộ máy hành chánh là không thuyết phục.

     Ở Việt Nam lâu nay luôn tồn tại hai guồng máy “đảng và nhà nước”, song song với hàng với chục triệu công chức ăn lương. Mỗi guồng máy đều có ban bệ văn phòng dinh thự rất cồng kềnh và tốn kém.

     HÃY XÓA BỚT CÔNG CHỨC, ĐỪNG XÓA BỎ ĐỊA DANH LỊCH SỬ ĐÃ TỒN TẠI TỪ LÂU ĐỜI.

     Phường hay thôn, ấp là nơi chứng nhận “Hộ-Tịch” trên tờ giấy khai sanh khi chào đời, giấy khai tử khi lìa cõi đời. (Cả hai loại giấy đó không tự bản thân làm được). Phường, thôn, ấp là địa chỉ cuối cùng để “Đi và Về”. Chính nơi đó hiện hữu tổ tiên ông bà cha mẹ anh chị em cô bác dì chú, mồ mả, bạn hữu - tình làng nghĩa xóm - cũng như kỷ niệm học trò và tình yêu trai gái hẹn hò khi bước vào tuổi mộng mơ.


Trang Y Hạ

LỜI GIÓ MƯA:

Đọc Báo Đảng:

Sau ngày đổi tiền ở miền Nam,

     Tờ - Sài Gòn Giải Phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã viết như sau: 

     “Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ. Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi… Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”.

     Thế nhưng đồng tiền VN hiện giờ so với tiền CamPot và Lào thì thấp hơn.

Trang Y Hạ

(Sưu Tầm).




13/5/25

Thơ phổ nhạc: EM SẼ HÁT

 


Sóng cuộn Kỳ-La, đau hồn nước

Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà.

(Trang Y Hạ)




11/5/25

UỐNG RƯỢU VỚI CỤ HỒ-NGUYÊN-TRỪNG

 



UỐNG RƯỢU VỚI CỤ HỒ-NGUYÊN-TRỪNG

        Sóng cuộn Kỳ-La, đau hồn nước
        Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà. [1]

Đêm chờ sáng quá-khứ sờ loạn nhịp
đầu chưa nguôi, dĩ-vãng nhắc Đại-Ngu
giọt sương nện ngụm ngụm trà lạc nhách
gió trời nam gió xoáy thổi vù vù.

Giờ thất trận nuốt giọt mưa cửa ải
ngước mặt lên đỉnh núi rớt màu tang
bầy em gái, tuổi cập kê cúi mặt
nụ hôn chưa duyên phận hối lỡ-làng.

Bóng mẹ đứng, xế tà ôm con nhỏ
dáng cha ngồi, quân giặc trói hai tay
đám ưng khuyển, tha hồ vơ-vét của
hàng binh đi, đi vào kiếp lưu-đày.

Kiến địa hiểm, hiểm nguy đành cố bước
ải khói mờ, ngoảnh mặt tạ quê hương
trời sẫm tối đường lưu-vong dịu vợi
thân thân trai ngả ngã ngựa chiến-trường.

Đất địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc
thấm lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô
nhập thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ
hậu nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ.

Đêm chờ sáng, du hồn lần cố-quận
cô nguyệt huyền, lọn sóng giục Lương-Giang [2]
quan gá-nghĩa, không khỏa đi nỗi nhục
công hầu dâng, chẳng lấp phận quy hàng.

Thiên-Nam-Mộng mơ màng cô Thái Diễm [3]
đất Hung-Nô, nữ sĩ gặp vận may
đất Hung-Nô, Tô-Vũ nhờ cánh nhạn
rơi cung thương, gánh một gánh lưu-đày.

Ngụ đất giặc, chẻ đầu chế ra súng [4]
quân thù vui, tự giết giết lẫn nhau
cơm từng hột, nhai như nhai sỏi đá
nước nuốt vô trong bụng nước đục ngầu.

Đa-Bang trận, quân Minh sợ tái mặt [5]
lực bất tòng, văng vẳng thần Kim-Quy
thiên-thời tận thiên-tài đành bó gối
chiến-trường tan vung vãi xác quân-kỳ.

Kẻ hậu bối, bước trùng vùng thất trận
theo tiền-nhân, vẽ bức họa lưu-vong
vẽ tội đồ, tội đồ làm mất nước
xin lỗi quê một cổ gánh đôi tròng.

Túc-Tâm-Đạo, ôm vòng xoay khắc-nghiệt [6]
gươm giáo tan, ôn cố thuở lương-thời
buổi ly-loạn trút tang thương thiếu-phụ
hóa lưu-ly, ngàn giọt giọt lệ rơi.

Nơi đất giặc, tri-kỷ đâu thù-tạc
hũ rượu hâm, bỉnh-bút giữ hồn thơ
loài cỏ dại, được mùa mau tươi tốt
vòng tuần quay, hạn hán đón bơ-phờ.

Nơi đất khách, giả đui tìm sinh-lộ [7]
biết: “đạo bất đồng, bất tương vi mưu”
rượu cạn đáy rót chén tràn tâm-tưởng
người xưa sau chung cuộc một cựu thù.

Chén rượu ấm tiêu sầu, sầu sầu miết
mảnh trăng soi soi bến vắng Kỳ-La
chiếc lá rơi rơi núi khuya Cao-Vọng
hơi men tan, bóng mờ bóng trăng tà.

Trang Y Hạ
Cước chú:
1- Cụ Hồ Nguyên Trừng bị giặc Minh bắt tại núi Cao Vọng (Hà Tĩnh) cùng với hàng chục ngàn dân Đại Ngu có tài, đưa về Tàu.
2- “Cô nguyệt huyền trung”. Nghĩa là: Trăng cô độc giữa trời). Lương-Giang tức tên cũ của sông Nhị-Hà thuở rất xa xưa.
3- “Nam Ông Mộng Lục”, viết về quá khứ hoàng kim của quê hương xứ Việt, nội dung ảnh hưởng “Trang Châu Mộng Hồ Điệp”. Nam Ông Mộng Lục, xuất bản tại Kim-Lăng bên Tàu.
4- Cụ Hồ Nguyên Trừng có tài đúc súng đạn.
5- Thành Đa-Bang là nơi chiến tích hiển hách đánh quân Minh thua tan tác của ông Hồ Nguyên Trừng.
6- “Túc Tâm Đạo” là sách thuốc của Hoa Đà thời Tam quốc. Trong sách có câu: “Thụ khô căn tiên kiệt, nhân lão cước tiên suy”. Nghĩa là: (Cây khô thì rễ khô trước, người già đôi chân suy yếu trước).
7- Phải luôn cảnh giác khi làm bạn với người Tàu - người hàng xóm to con nhưng bất lương. Không thể nhận họ là “anh em đồng chí”.

Trang Y Hạ




Thơ phổ nhạc: GIÓ CHUYỂN TỪ THÁNG TƯ

 



"Đất địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc

  thấm lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô

  nhập thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ

  hậu nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ."


Trang Y Hạ


6/5/25

Thơ phổ nhạc: "THĂM LẠI CHIẾN TRƯỜNG XƯA".

 


                      "Em có bao giờ thầm nghĩ, 
          chiến tranh qua để lại vết thương đau".

2/5/25

ĐẠI LỘ CHI LĂNG

 


ĐẠI-LỘ CHI-LĂNG

     “Từ ngày ăn phải miếng trầu,
       Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.”. (Ca dao).

Về qua đại-lộ Chi-Lăng [1]
hồn Bà-Chiểu gọi, dùng-dằng ngó quanh
bước lên xe kiếng dạ-hành [2]
ngựa vui ôn-cố, bóng thành hỏi han.

Đường cây giục gió nắng vàng
nhớ người khai cuộc, thuở tang tang điền
ẩn-thần đất tụ cơ-duyên [3]
dấu chân khai thổ tưởng tiền-hiền xưa.

Bến sông sóng dựa thân dừa
lạch sình khởi-lập hai mùa sậm da
trên cơm dưới cá, hiền hòa
công-lao khởi tạo kể là công-lao.

Tuổi tên giờ đã đi vào
lãng quên tựa ngọn ba-đào thiếu hơi
sử bia một góc lưu lời
phập-phòm nghe tiếng lá rơi chẳng hề.

Lộ-trình nhầu-nhĩ tỉ-tê
tiếng rao đêm vọng gom về cõi xa
sinh-cơ-tử-tán, quả là
mở mồ ngóc ngó san-hà lạnh tanh.

Phất-trần ai phất dỗ-dành
di-cư chia sớt trăng thanh với đồng
đước, bần, vẹt, sú... mênh mông
rễ sanh cắm rễ tâm lòng bấy nay.

Đất trời thay đổi mặt mày
nhân-sinh-kỷ-kiến, men cay ấm đời
trở mình trở-giấc sầu vơi
ba-trăm-năm, vẳng mấy lời: tử, sinh.

Nhân-gian hát-tửu xập-xình
bát khai vân vụ, hiển-linh tỏ mờ
thiết-tha đồng vọng thiên-cơ
tầm-vu sóng vỗ, vỗ bờ thiện chân.

Tiền nhân bảo-chứng ân-cần
huyền-quang, huyền-học, bao lần đề thi
tự bày tai họa ích gì
sát-na phong tận từ-bi cũng thừa.

Về qua đại-lộ thôi mưa
Chi-Lăng cửa ải sương vừa tan sương
khí thiêng quyện giữ nẻo đường
giương cung thầm giở một chương sử rằng.

Bước trên đại-lộ Chi-Lăng
hồn non nước, ngự thuyền trăng luận bàn [4]
nóng từ phương Bắc nóng ran
bắc-môn- tỏa-thược, chưa tan cuộc cờ. [5]

Băng tâm nhất phiến tiêu-sơ
pháo xe ngựa tốt, đang chờ nước đi
tiếng đàn chim việt thầm-thì
truy-nguyên mở cõi khắc ghi sử nguồn.

Trang Y Hạ

Cước chú:
1- Đại lộ Chi-Lăng, thuộc tỉnh Gia Định (Sai-Gòn).

2- Xe Kiếng, kiểu như xe Thổ mộ.
Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng,
Cỏ xanh chưa mọc trong lòng thọ thai”. (Ca Dao).

3- Linh là thần linh, chỉ sự thần kỳ, thiêng liêng. Ngoài ra còn có: “Diệu linh” chỉ mặt trời, dùng trong văn thơ. Khuất Nguyên (Nước Sở) trong bài Thiên-Vấn, viết:
Giác túc vị đán,
Diệu linh an tàng?
Tạm dịch:
Phương đông sao Giác còn,
Giấu đâu thái dương hử? Và: "lưỡng diệu" chỉ chung mặt trời và mặt trăng.

4- Bài: Để Trường Sa Vãn Bạc, của Phan Huy Chú có câu:
Tương Thủy huân phong cổn lãng hoa,
Phiến phàm chuyển miện đáo Trường Sa”.
Nghĩa là:
(Sông Tương gió mát, sóng tựa hoa,
Thuyền trôi chớp mắt, tới Trường Sa.)

5- Trong đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở Nam Định có ghi câu “Bắc Môn Tỏa Thược”. Nghĩa là (Phong tỏa cửa bắc).

Trang Y Hạ






11/3/25

NGHE LỜI BẬU

 



NGHE LỜI BẬU

      Nửa thế kỷ, bởi vì nhau mà kiếm
      Từ trong tâm, bòn mót được bao nhiêu.
                 (30.4.1975 – 30.4-2025)

Rừng hoa đót, ẩn trong đầu nở miết
tầm chim quyên cánh mỏng lạc phương nào
cành đợi gió nội tâm ran-rát bỏng
chân trời khoe mây trắng đuổi xôn-xao.

Mở điện-thoại, tìm vì sao bắc đẩu
vọng cõi nam, nhạn mệt lộn tầng không
hướng đông ngóng, bình-minh an giấc điệp
quy trời tây, vệt nắng dát tủi lòng.

Nghe lời bậu, thôi đừng về Dak-Pek
nắng mưa chừ không nhận diện nữa là
người lạ hoắc xua lớp người cố cựu
đường thay tên, nẻo cũ bới đâu ra.

Dak-Seang lượm, dấu tích lưu trong gió [1]
cánh dù bay tiếp-viện đẹp núi đồi
bầy trẻ nhỏ chia nhau bịch gạo sấy
người lính ngồi, phành thư đọc cho vơi.

Đêm Dak-Sút hứa bừa em gái thượng
sẽ trở về theo vô núi hái măng
áo jacket cởi ra choàng vai nhỏ
đôi mắt nai ngân-ngấn, mặt vùng-vằng.

Ngồi xe mở ba lô tìm cơm nguội
xôi nếp than đã giấu tự lúc nào
quay mặt lại nghe con tim thổn-thức
tấm chân tình cô gái nhỏ miền cao.

Cơn gió nóng pha lạnh tràn ký-ức
Tou-Mơ-Rông mây vẽ khói sương mờ
dòng sông đẹp, Pơ-Ko phơi cát đá
chú bướm vàng, suối cạn mắt lơ-ngơ.

Tou-rông mất, trong lòng đau quá thể
đầu nguồn sông Dak-Bla nước ngừng trôi
rừng trùng điệp không thể nào cố thủ
núi nhấp nhô, hẹn tái chiếm đỉnh đồi.

Gió Măng-Buk, Măng-đen từ thủa nọ
thổi lính lên, lủng-lẳng đỉnh mò trăng
phi-đạo vắng, ngóng thư từ hậu-cứ
thèm cá tươi, cả tháng mới họa hoằn.

Lô-cốt gác, nghe thú nằm than-thở
pháo ho khan, chuột trốn đám cỏ hôi
chiếc nón sắt, ôm lá khuya tri-kỷ
rủ hai mùa, mưa nắng tẩm da ngồi.

Dak-To ghé, hồn bạn vây thăm hỏi
áo nhà binh mùi phảng-phất đâu đây
khều mặt đất giấu giày sô lưu dấu
rượu uống khan, phơi tâm sự: tao, mầy.

Thằng bạn gặp, gậy lò-dò nhăn nhúm
bưng ly bia, sóng rung đổ đầy bàn
ôn chuyện lính, câu sau quên câu trước
vỗ vai nhau khơi kỷ-niệm miên-man.

Nghe lời bậu, thôi đừng về Tân-Cảnh
Lại-Văn-Chu giọng đọc lẫn trong mây [2]
Hí-Viện hát, ngưng cười nhìn Thánh-Giá [3]
tháp Trung-Đoàn tan-nát biệt dấu giày. [4]

Tân-Cảnh chợ, chênh-vênh lưng chừng dốc
xe lam thồ xuống rau trái bên đường
người mua sắm, nhận ra toàn vợ lính
buổi đông vui, ngày đầu mới lãnh lương.

Thương vợ lính, khu-gia-binh mất điện
sợi hỏa châu, le-lói ngỡ chồng về
bầy pháo địch, hòa pháo mừng nguyên-đán
Mậu-Thân loang, máu lửa nhuộm sơn khê.

Sư-đoàn lính hoa-kỳ về trấn giữ
đoàn công-voa dằng-dặc ghé Phượng-Hoàng
đêm mất ngủ bầy phi-cơ gầm rú
rác mỹ đầy khoe dưới nắng chang chang.

Người dân xúm chạy đi moi rác mỹ
lắm người thầu ôm rác để làm giàu
mở “dịch-vụ” bu bám theo căn-cứ
chiến tranh dài, mới tỏ rõ vàng thau.

Mùa đỏ lửa, Phượng-Hoàng bay tản-mác [5]
áng mây chiều ảm-đạm phủ chia-ly
làng Tri-Lễ, bụi tung trùm Dak-Mot
Ngọc-Rinh-Rua, hỏa-lực hết gầm-ghì.

Bậu hẹn chỗ cầu treo đeo sương nặng
nụ hôn lưu tình sử có nào vơi
em gái nhỏ Bồng-Sơn bay lên núi
ân tình trao, ngồi chưa ấm chỗ ngồi.

Pháo bầy thét, Bạch-Hổ gầm Ben-Hét [6]
trấn ngã ba biên giới Việt-Miên-Lào
tin vui nhận, rằng cuối năm đám cưới
cô dâu chờ, đôi mắt trõm chao-vao.

Dak-Rao vọng nhịp chày rơi sương muối
sơn nữ ngồi vuốt từng khúc măng le
váy hoa hở ngực đầy hơi bếp ấm
đành bỏ làng vì quân giặc hằm hè.

Nghe lời bậu, thôi đừng về đó nữa
dòng Dak-Psi, xếp cất tuổi thơ ngây
Diên-Bình xã dinh-điền tìm đất mới
ở nơi đâu, dấu bom đạn đủ đầy.

Diên-Bình xã, chưa quên cô gái nhỏ
mới biết yêu, hôn nháp nụ hôn đầu
cây cầu sắt rung-rinh theo nhịp thở
vì sao vui, quên bẵng cả đêm thâu.

Giặc đánh rát, Kon-Hơ-Ring no lửa
ngút khung trời vỏ đạn cháy ra than
bệnh-viện đón người bị thương chật chỗ
đang yên vui thoáng chốc hóa cơ-hàn.

Ngô-Trang ruộng, đón lính về phòng thủ
bữa cơm thơm hơi thở đãi người xa
cá đồng nhỏ, kho tiêu nhìn rau dớn
có khóc đâu, đôi mắt lại muốn nhòa.

Anh lính trẻ ngồi ôm đờn dạo khúc
mắt ngây thơ, dõi từng nốt giáng thăng
bàn tay ngọc, mím môi mời ly nước
đôi mắt to chứa đựng một cung hằng.

Tri-Đạo ngắm, cô em khều vú sữa
trái oằn cây mời ăn, mủ dính môi
tháng ba lửa nung Charlie sùng sục
mê gái xinh, lẩn quẩn lựa chỗ ngồi.

Cầu Tri-Đạo, lữ-đoàn dù pháo ngự
cây mùa xuân, dân chia ngọt xẻ bùi
dân chạy giặc từ DakTo tràn xuống
điểm cuối cùng trấn giữ phải rút lui.

Chuông Võ-Định, gọi người năng đi lễ
áo trắng bay chưa vấy đất đỏ chân
hồn xác thức, vội vàng làm dấu thánh
mơ ước theo mơ ước biết bao lần.

Tin chiến-sự, dập-dồn đơn-vị chuyển
nồi khoai lang, bậu nấu chẳng kịp đem
vành trăng nhú dặm đường thêm nặng bước
âm thầm đi, đụng cành lá ướt mèm.

Vô Trung-Nghĩa, đôi giày chưa kịp tháo
rẫy xanh tươi, căng mắt chẳng thấy tiên
phi-tuần dội, rung giường em gái ngủ
di-tản vào thị-trấn gói ưu-phiền.

Về Trung-Tín, vội-vã đào công-sự
xe nhà binh hối hả chở bụi bay
điếu thuốc gắn, trệ môi chưa kịp hút
bê-năm-hai,[B-52] bom trút tối mặt mày.

Nằm tử thủ, KonTum ròng rã ruột
phố vắng teo, gom từng sợi tóc mai
bậu di-tản, trôi phương nào vậy hử
túi ny-lon, ướp xác lính sương dày.

Xe tăng giặc, nửa đêm xâm nội thị
thành Dak-Pha trực-xạ, xích đứt đôi
con, “sinh-bắc-tử-nam” lòng mẹ (quặn)
khói thuốc cay (thắt) ruột dáng cha ngồi.

Sân-Vận-Động, dân dồn chờ di-tản
ôm con thơ, người vợ mặt thất thần
chồng ở lại ôm chiến-hào tử-thủ
biết có còn gặp lại nối nghĩa-ân.

Vùng chiến-địa tử thương, ai vuốt mặt
giọt lệ nào đưa tiễn, phút xuôi tay
anh lính sữa chưa một lần dám nắm
tay người yêu chừ xác lạnh nơi này.

Đêm tử thủ, nghe nhịp chân thiếu-nữ
bước nhẹ-nhàng tựa chiếc lá thu rơi
giọng khẩn-thiết từ xa xa vọng lại
giữ KonTum, đã hứa nhớ giữ lời.

Trường Hoàng-Đạo, Teresa duyên-dáng
Lê-Hữu-Từ thăm hỏi Kim-La-San [7]
hoa phượng nhớ áo dài Phan-Thanh-Giản [8]
người ra đi gói hình bóng mơ-màng.

Hàng-Keo rót, rót ly bia tràn phố
Lê-Thánh-Tôn, Trịnh-Minh-Thế, Thanh-Bình [9]
Minh-Quang tiệm, mua tặng nàng cuốn sách
làm món quà sinh-nhật, đứng lặng thinh.

Lá keo lượn, vô ly sâm-bổ-lượng
các cô nhìn, quên cặp sách rơi chân
sữa chua hũ, thấm qua tà áo trắng
hương trinh nguyên, sỏi đá cũng bần-thần.

Dãy kiosques, Chợ-Lồng cô mắt biếc
RubiQeen, Cotab, với Bastos...
lương nửa tháng, sạch trơn xin ký sổ
nịnh vài câu, “thế-chấp” dị thấy mồ.

Ngang “for-get” ngắm cô nàng “me-not” [10]
quanh một vòng sạp chợ, nàng dẫn đi
năm mười phút, gấp gáp về lại quán
chỉ quen thôi, nào biết có duyên gì.

Câu-Lạc-Bộ-Thanh-Niên, ngồi hóng gió
Dak-Bla dòng nhiễm bệnh đục hơn trong
Phương-Nghĩa-Bốn, giếng khô, rau: cay, đắng
Phương-Quý, Phương-Hòa, lúa bắp (nẩy) trong lòng.

Phương-Nghĩa-Bốn, phi-trường rền pháo địch
đêm chuyển dân, chạy giặc hỏa châu soi
cô mắt ướt, ngoái nhìn anh lính trẻ
sẽ gặp nhau, xin đừng có u-hoài.

Nghe lời bậu, đừng có về thăm thú
Bê-Mười-Lăm, lớp lớp cỏ trông mây [11]
cô bán bánh trước đồn lên bà nội
lính tù-đày, đắp đổi sống qua ngày.

Tân-Phú rẫy, cho trái cây tươi tốt
trại tạm cư, đặt tên Ma-Ri-Lou
mái tôn sáng, cuộc đời chưa thấy sáng
bữa thăm nhau, hai đứa tắm sương mù.

Tân-Phú thủa, lâu rồi rẫy tìm rẫy
đất mỡ gà, nào có thấy gà đâu
chòi xiêu-vẹo, đôi tâm tình mê mải
cây chuối con nhớ mẹ, lá úa nhàu.

Mờ mờ sáng tháng tư sương bao phủ
bỏ Dak-Bla, thầm xin lỗi Làng-Hồ
kể từ đó chân trượt dài vô tận
chứa trong lòng từng đợt sóng nhấp-nhô.

Nửa thế-kỷ cảnh cũ còn đâu nữa
Đồi-Sao-Mai, vách đá nhọn đâm mây [12]
nhớ chân núi dựng căn lều ở tạm
nằm gác tay, mong sẽ được sum-vầy.

Nửa thế-kỷ chôn rồi mà chưa chết
yêu tự-do, yêu tân-nhạc, thị-trường [13]
chuyện thua thắng, đem so bì sao đặng
bởi hiềm vì “hữu xạ tự nhiên hương”.

KonTum đất, ắt lưu danh quân-sử
cảm người trai, tứ xứ đãi máu xương
rừng huyền-bí đã mấy mùa thay lá
bao công-lao, lấy chi để đo lường.

Vòng sử-lịch xoay ngang, không than vãn
chỉ mong rằng màu lá mới tươi xanh
xót chim-việt-cành-nam, tan-tác xứ
thương non sông, dò-dẫm bước dạ-hành.

Hoa dại hãy vì nhân-sinh mà nở
đẹp con đường mơ ước tới tương-lai
hận thù bỏ nằm phơi mưa phơi nắng
chẳng vì ai, buộc bông nở mỗi ngày.

Mở điện-thoại, gọi thăm vùng dĩ-vãng
bấm số nào, chỉ cảm nhận trong tâm
màu vàng hãnh, rủi thay ra hoàng-lạc
ngước mặt lên, rà soát bộn lỗi-lầm.

Trang Y Hạ (Trần-Phước-Hân).
KBC: 6235.

Lời Gió Mưa:

Dẫu cho tráo trở thiện chân,
Di-ngôn hoán-địa vẫn cần phương-viên.

“Những bài thơ viết trong chiến tranh & đang viết về chiến tranh - đừng bao giờ nghĩ rằng bài thơ đó sẽ tàn lụi theo năm tháng. Bài thơ viết đã hơn nửa thế kỷ hay đang viết - dù thời gian có trôi qua chưa hẳn là đã chấm dứt chiến tranh - cũng đừng cho rằng chiến tranh chỉ có súng đạn mới xảy ra chiến tranh. Chính chủ thuyết và hận thù là mầm mống của chiến tranh ngay cả trong thời [tạm] cho là hòa bình.”. (Trần Phước Hân).

Cước Chú:

1 – Đại tường Hoa Kỳ Westmoreland, có tới thăm Dak Seang.
2 - Trường tiểu học Lại Văn Chu, ông là Trung tá Trung đoàn 42 đầu tiên.
3 - Ngã ba Thánh Giá, Tân cảnh.
4 – Đồn Ben-Hét, có tên khác là đồn Bạch-Hổ.
5 - Trung đoàn biệt lập 42, có tháp canh rất cao.
thuộc sư-đoàn 22. Huy hiệu là: (Hắc Tam Sơn, Bạch Nhị Hà).
6 - Phi-trường Phương Hoàng, DakTo 2. Mùa hè đỏ lửa 1972.
7 - Các trường trung học (công lập & công giáo).
8 - Đường Phan Thanh Giản, có (trường nữ sinh theresa) hai bên đường trồng nhiều cây phượng rậm rạp.
9 - Cinema Thanh Bình của ông Lê Văn Can.
10 – “For get me not” - tên của quán sinh tố, trên đại lộ Trình Minh Thế (Sân Vận Động, xây mặt ra chợ Lồng KonTum).
121- B-15, trại lính biệt kích, lôi hổ (ngã ba phương hòa).
12 - Từ Pleiku lên KonTum, qua khỏi Đồi Chư-Pao là thấy Đồi Sao Mai - địa giới phân ranh giữa Pleiku - KonTum, đó là nơi định cư cho người dân từ Tân Cảnh, DakTo chạy giặc về ở.
13– Miền Nam (VNCH) theo tư-bản tự do. Ngày nay csVN cũng theo tư bản “WTO”, kinh tế thị trường do Hoa Kỳ khởi xướng.

Trang Y Hạ (San Francisco).



1/3/25

CÂY VIẾT

 



CÂY VIẾT

     “Chẳng yêu nhau, chớ dể nhau,
      Những loài yến tước biết đâu chí hồng.”
                     (Trích truyện thơ Nôm: Phan Trần).

Thời tiết đoán, mưa nguồn thôi hồi đất
nhớ nàng tiên starbucks đẹp ngoan hiền
giai-nhân vẽ chẳng khúc nào miễn-phí
dung-nhan treo đền tháp hóa linh-thiêng.

Bụi cỏ mục sinh lân tinh trực chỉ
lục châu thân, thân bươn bả mấn-tồi *
danh vay mượn, hãnh-tiến quy thanh-trủng *
hoạch định bày ngắm lá tắm mưa rơi.

Đôi tai lãng, lắng oan hồn nửa kỷ
hoa mai phai, sặc sỡ nở trong tâm
thân “việt điểu, nam chi” nào bôi xấu
hoạt-tử-nhân chòi cỏ chẳng hề lầm.

Ông cà-tửng thích ra đường huých gió
bà lơ-ngơ khoái ca cẩm ngã-tư
người không chỗ nằm vắt chân chữ ngũ
nắng gió mây, chui qua háng mệt nhừ.

Chị bàn cận, thỏ-thẻ vay cây viết
ngẫm tiền-đồn đón thư ấm hậu phương
hơi nhạc rock, rộn-rã mùa lúa chín
quê in hình nặng não lấy chi lường.

Hờn tấm bảng chỉ đường, chỉ trật phía
chạy rộp chân, kịp diện kiến Cúc-Hoa *
thiên-lý dặm nợ ân tình tiêu trỗi
đồng mênh-mông hoàng hôn vọng tù và.

Cô gái trẻ lai tây, đẹp y tượng
quên mất tiêu, khuôn mặt An-Dương-Vương
đọc tin-nhắn, bàn tay tiên thoăn-thoắt
ẵm cà-phê, hớn-hở vọt ra đường.

Đã thẩm-thấu, mã pháo xe đương nước
dạo bờ sông con tốt rộn lai quê
vô-ngôn-dực-nhi-trường-phi, cô lẽ *
bậu cõi riêng thổn-thức bậu chẳng hề.

Chị mượn viết giả quên, cười ra cửa
ghế ngẩn-ngơ, hơi ấm níu người đi
trịnh-trọng vuốt, vuốt lưng nàng starbucks
nắng chói chang, tê cẳng muốn ngồi lỳ.

Trang Y Hạ

Cước Chú:

* - Mấn-tồi = Suy nghĩ rụng hết tóc.
* - Thanh-trủng = Ngôi mộ của những kẻ quyền quý, giàu sang.
* - Truyện thơ Nôm Phạm Công - Cúc Hoa gồm: 4,600 câu thơ.
* - Vô-ngôn-dực-nhi-trường-phi = Lời nói dù không cánh nhưng bay đi rất xa.

Lời Gió Mưa:

     “Tôi sẽ cho Mỹ rút khỏi tất cả các tổ chức mà người Mỹ đã bỏ hàng tỷ dollars để tài trợ, đặc biệt là các quốc gia tuyên truyền chống phá Mỹ. Các bạn có thấy vô lý khi chính chúng ta lại tài trợ cho những quốc gia treo các biểu ngữ chống Mỹ. Các quốc gia đó nên chọn rõ lập trường, nếu chống Mỹ thì đừng làm ăn với Mỹ.”. (Tổng thống Donal Trump).





21/2/25

HOÁN VỊ

 



HOÁN VỊ

     “Học hành ba chữ lem nhem
    Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua”. (Ca Dao).

Kiếp sau tu thành con gái
họa hình tung khắp thế-gian
thi-bá, thi-hào mê mải
thơ tình vung-vãi đầy đàng.

Kiếp sau tu thành con gái
chảnh-chó với đám con trai
dù phải lừng danh, “quỷ-cái”
còn hơn ngồi sụ mặt mày.

Kiếp sau tu làm con gái
du-hành khắp bốn phương xa
kinh-doanh ôm nhiều lời lãi
cớ chi quanh quẩn trong nhà.

Kiếp sau tu thành con gái
mang gươm đi chém bà chằn
phang luôn mấy ông thích dại
ăn phở quên món ăn-năn.

Kiếp sau tu thành con gái
cầm roi đét “đ.í.t” Sở-Khanh
đánh mụ tú bà tung váy
tú ông sống chẳng an lành.

Kiếp sau tu thành con gái
dẫn quân giết giặc ngoại xâm
cho dù cung thương có gãy
sướng chi ôm chiếu giường nằm.

Kiếp sau tu thành con gái
không sinh trăm trứng như bà [...]
Thủy-Tinh, Sơn-Tinh hối cải
thôi gây lắm chuyện can qua.

Kiếp sau tu thành con gái
nõ thần giấu kỹ trong rương
Trọng-Thủy gạ tình muốn lấy
lấy thứ đồ giả trên tường.

Kiếp nầy con trai thất bại
hân-hoan hoán-vị giao cương
tung chén lên trời cảm-khái
thắng thua kim cổ sự thường.

Trang Y Hạ
     Ngồi uống cà phê Starbucks với lão tù già lọm khọm Trần Phước Hân và mần thơ cho dzui.

Lời Gió Mưa:

     Mỵ Châu - người con gái của Thục phán An Dương Vương. Cô công chúa quá thật thà đã trao nỏ thần cho “người yêu” Trọng Thủy - con trai Triệu Đà. Triệu Đà vốn đã có ý đồ chiếm lấy Âu Lạc. Nay được nỏ thần, Triệu Đà xua quân vây thành Cổ Loa và thành Cổ Loa thất thủ.
Biết trúng mưu hèn kế bẩn của giặc. Thục phán An 

     Dương Vương vội vã nhảy lên ngựa, đem theo công chúa Mỵ Châu chạy ra ra biển trốn.
Về phía Mỵ Châu, cô vẫn còn hy vọng Trọng Thủy sẽ chung tình và đi tìm nên cô lấy lông ngỗng giấu từ trong túi áo rải dọc đường làm mật hiệu. An Dương Vương chạy đến bờ biển, đức vua quỳ xuống khẩn cầu sự giúp đỡ của thần Kim Quy. Thần Kim Quy hiện lên, phán rằng: "Người ngồi ở sau lưng ngài chính là giặc đó".

     Có thể nói Trong Thủy chính là “gián điệp” do Triệu Đà cài đặt. Vua An Dương Vương mất cảnh giác. Vậy, (giặc ngoại xâm không đáng sợ bằng giặc nội xâm). Từ bài học lịch sử đau thương của Vua Thục Phán An Dương Vương mà hơn bốn ngàn năm qua các triều đại Đại Việt vẫn luôn luôn đề phòng phương Bắc. Trong đền thờ vua Lý ở Nam Định có đề bốn chữ “BẮC MÔN TỎA THƯỢC”.

     Lịch sử “khẳng định”, kẻ thù truyền kiếp ngàn đời của Việt Nam chính là phương Bắc. Họ chẳng phải là “Anh em , đồng chí”.

Trang Y Hạ.



19/2/25

PHONG HỎA ĐÀI

 



PHONG HỎA ĐÀI

Chào-mào mời nắng sưởi thân
nắng phân-vân nắng tần-ngần nắng đi
mắt đua gái gọi xuân thì
buồng tâm nhóm lửa Tây-Thi hoàn hồn.

Thèm tình, nổi máu du-côn
nhắn-tin tới tấp, đêm bồn-chồn ai
điện-thoại rung, - tiếng thở dài
E-va, di-tản đầu thai đâu rồi.

Nắng thêu tranh nắng một thôi
thoảng phơn-phớt mặt đượm mùi hương nhu
chờ thiên-đình, tặng cánh dù
hẹn về chỗ hẹn gom thu dỗ dành.

Vườn hoang, rủ phủ rêu xanh
cổ thụ, kỷ-niệm trĩu cành khoe bông
ao trong, chuồn bướm tồng-ngồng
nắng xiên nghịch-ngợm con công ngẩng đầu.

Phong-Hỏa-Đài, trụi từ lâu
tiếng cười khuynh quốc, lụa nhàu uổng thay
tiếc chưa, diện-kiến giải bày
hồng-nhan-họa-thủy, tai bay cũng đành. *

Nóng gay-gắt bốc thơ nhanh
nhắn tin, điện thoại thêm hành hạ nhau
thơ tình ế-ẩm phai màu
nhi-bất-ngữ, giấu vết đau không lời. *

Điêu-Thuyền gãy gánh đôi nơi
suy vi nhà Hán, ông trời hết thương
phương-thiên-họa-kích, cùng đường
tam phân xé-xác vẽ chương sử sầu.

Chiêu-Quân (lạc nhạn) khác đâu *
nửa đêm len lén lên lầu ngóng quê
cố hương mây chắn lối về
oán thanh tái đạo, vọng tê tái lòng. *

Một ngồi với ngọn né-on
tường đen hắc bóng thân mòng biển trơ *
gió nôn nao sóng tìm bờ
gửi đôi xuân thiếp đơn sơ tặng người. *

Trang Y Hạ

Cước chú:
* “Hồng Nan Họa Thủy” là câu thành ngữ chỉ về người đẹp làm nghiêng nước, nghiêng thành, gồm: (Muội-Hỉ. – Đát-Kỷ. – Bao-Tự. - Ly-Cơ).
* - “Nhi bất ngữ” (Im lặng không nói).
* -Tứ Đại Mỹ Nhân 四大美人 là bốn người đẹp nổi tiếng Trung Quốc, gồm: Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi. Sắc đẹp được mô tả: - Trầm ngư. - 沉鱼 = cá chìm sâu dưới nước. - Lạc nhạn; 落雁 = chim nhạn sa xuống đất. - Bế nguyệt; 閉月 = mặt trăng phải giấu mình. - Tu hoa; 羞花 = khiến hoa phải xấu hổ.
* - “Oán thanh tái đạo” – (tiếng oán than đầy đường).
* - Mòng biển là loài chim hải âu. Nữ văn sĩ Quỳnh-Dao có tác phẩm “Hải Âu Phi Xứ”, chuyển thành phim – do hai Minh tinh trẻ đẹp Chân Trân & Đặng Quang Vinh đóng.
* - Xuân thiếp = là câu đối.