.jpg)
NGHĨ VỀ CHỮ KIỀU.
HOA
KIỀU:
Ngày
xưa vùng “Gia Định - Chợ Lớn - Sài Gòn” vốn gần
như là “thuộc địa” hay “tô giới” của người
Tàu. Người Tàu du nhập vô Việt Nam bằng nhiều hướng:
Từ sông Dương Tử, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc
Kiến, Hồng Kong, Đài Loan - bằng nhiều lý do từ: chính
trị, thiên tai, kinh tế và lý do duy nhất (sau nầy) là
trốn tránh sự đàn áp. Đàn áp do sự thay đổi triều
đại từ khi triều đình Mãn Thanh thống nhất Trung Hoa.
Một số nhân sĩ tinh hoa người Hán quyết tâm khởi nghĩa
“Phản Thanh Phục Minh”, nhưng thất bại phải chạy qua
Việt Nam tỵ nạn.
Tử
khi Pháp chiếm Đông Dương, với chính sách “chia để
trị”, đã nhận thấy hiện trạng như vậy và tiếp tục
công nhận đồng thời dung túng (một số đặc quyền)
cho người Tàu sinh hoạt buôn bán tự do theo cách riêng
của người Tàu. Nhưng có thể khẳng định ý đồ là
Pháp dựa vô thực lực và đầu óc kinh doanh mại bản
thiên bẩm của người Tàu để khống chế giới điền
chủ, giới tư sản của người Việt vốn ít ỏi để
thao túng buộc người Việt phải theo ý người Pháp.
Người Tàu Chợ
Lớn cần cù làm ăn, nên có câu:
“Quảng
Đông ăn cá bỏ đầu,
Phúc Kiến
lượn lấy đem về kho tiêu”.
Từ chỗ nghèo đói
trở thành - có thế, có quyền, có tiền của khắp cả
một vùng và rồi lại tỏ ra khinh thường người Việt.
Họ (người Tàu), chiếm hữu tất cả ngành nghề của
người Việt, mà ngành nghề đó người Việt vốn đã
tồn tại từ lâu đời: Thợ rèn, thợ hồ, thợ mộc,
thợ may, thợ tiện, thợ máy, thợ nhuộm, thợ đúc đồ
đồng… Người Việt lúc bấy giờ chỉ còn làm những
công việc nặng nhọc, như: Làm công nhân khuân vác, bốc
vác nơi các bến cảng, bến tàu (sông, biển), làm công
nhân hãng xưởng, kéo xe... Tất cả đều chịu sự điều
khiển sai khiến của các xì thẩu, cai thầu người Tàu.
Hơn nữa người Tàu làm ăn theo phương thức (phường,
hội), Ngũ Bang (Tiều (Tiều Châu), Hải Nam, Quảng Đông,
Hẹ, Phúc Kiến) nhằm để giúp đỡ lẫn nhau, họ thường
chúc nhau “Thượng Lộ Bình An”, cho nên người Việt
một phần thiếu “gắn kết”, vả lại cón thiếu vốn
liếng không thể tranh đua với họ được.
Từ khi Pháp rút
ra khỏi Đông Dương, các Bang Hội người Tàu và các
Trường Học của người Tàu từ từ bị giải tán hết.
Năm 1954, chính quyền ông Ngô Đình Diệm, chấp chánh đã
hiểu rõ người Tàu nắm tất cả huyết mạch kinh tế,
thương mại của miền Nam kể cả xuất nhập cảng lúa
gạo... Người Tàu từ bao đời nay họ cư ngụ chỉ là
Tàu Kiều, nói chính xác là “HOA KIỀU” Chợ Lớn (nạn
Hoa Kiều). Hoa Kiều tức là những người Tàu cư ngụ
trên đất nước Việt Nam chứ họ không phải Công Dân
Việt Nam. Do đó, chính phủ của ông Ngô Đình Diệm đã
nhanh chóng đưa ra “Bộ Luật Quốc Tịch Việt Nam”
vào cuối năm 1955.
Trong điều thứ mười
hai (12) ghi rõ: “Nếu là con chính thức, mà
có mẹ là người Việt Nam, và có cha là người Tàu
(Trung Hoa), nếu sinh đẻ ở tại Việt Nam thì đứa trẻ
đó là người Việt Nam”. Và, vài tháng sau, thì
“Bộ luật Quốc Tịch” lại quy định thêm: “Hoa Kiều
sinh tại Việt Nam sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải
khai nhận Quốc Tịch Việt Nam và làm Căn Cước, nếu
không tuân thủ theo luật định thì có thể xin hồi hương
về lại Trung Hoa trước ngày 31/8/1957”.
Bộ Luật Quốc
Tịch Việt Nam ra đời, được xem như một cuộc cách
mạng làm thay đổi vấn đề “HOA KIỀU đã sống tầm
gửi từ lâu trên đất Việt mà không chịu sự quản lý
về di trú tư pháp. Đó là các Dụ số 52 được ban hành
ngày 29-8-1956, dụ số 53 ngày 6-9-1956. Cả hai sẽ chính
thức áp dụng ngày 25-10-1956.
Dụ
số 52 quy định rằng người Tàu “Hoa Kiều” định cư
tại miền Nam (Gia Định – Sai Gon) bắt buộc phải nhập
Quốc Tịch Việt Nam. Khi nhập quốc tịch, thì sẽ được
bảo đảm tự do giao dịch, buôn bán, đi lại. Người Tàu
phải dùng chữ Việt đặt tên họ như: (Quách, Mạch,
Lâm, Trịnh, Tô, Trần, Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa,
Mã, Lý, Trương, Ngô, Hồ...), và cũng không được dùng
tên ngoại quốc hay tên gọi riêng như: A, Chú, Chế…, kể
cả bí danh trong các văn kiện hành chánh, khai sanh, hôn
thú... Tên trên bảng hiệu thương mại, tiệm chạp phô
kể cả văn chương thi phú cũng phải viết bằng Chữ
Việt.
Dụ
số 53 cấm người ngoại quốc không được kinh doanh mười
một (11) ngành nghề, như: 1- Buôn bán cá thịt, 2- Chạp
phô, 3- Than củi, 4- Nhiên liệu xăng dầu, 5- Tơ sợi, 6-
Trung gian mua bán, 7- Kim loại, 8- Lương thực xuất nhập,
9- Chuyên chở thủy bộ, 10- Xay gạo, 11- Dịch vụ.
Đạo
dụ chỉ áp dụng cho thành phần (chủ nhân, thương nhân,
thương lái) người Tàu và các ngành nghề thuộc về kỹ
nghệ và hành nghề tự do. Người Tàu lai Việt, có vợ
người Việt thì không ảnh hưởng quy chế chế tài, vẫn
được phép kinh doanh dưới tên người thân, nhưng người
thân (vợ, chồng) phải là người Việt Nam có quốc tịch
Việt Nam, hộ tịch khai sanh chính thức bằng bản văn tư
pháp của chánh quyền Việt Nam.
Chính
phủ ông Ngô Đình Diệm dứt khoát về vấn đề quốc
tịch để cho người Tàu “Hoa Kiều” được sống hợp
pháp trên đất Việt Nam. Một khi đã là công dân Việt
Nam thì họ sẽ được hưởng quy chế ưu đãi không khác
gì người Việt một cách công bằng và có nghĩa vụ quân
sự; có nghĩa vụ đóng thuế góp phần cho đất nước
cũng như chấp hành các nghĩa vụ công dân khác.
Tuy nhiên, không
phải mọi chuyện đều suôn sẻ. Ngay từ đầu khi các dụ
luật ra đời thì người Tàu Chợ Lớn phản ứng kịch
liệt, dữ dội... – nhất là một số thương lái, thương
nhân Tàu giàu có gọi là “đầu nậu” của một số
ngành kinh doanh cỡ lớn không chịu khuất phục tuân thủ
luật nhập quốc tịch Việt Nam. Họ đã tìm đủ mọi
cách chống trả, họ lại liên hiệp với các nhà “tài
phiệt” thế giới như: Hong Kong, Trung Hoa, Đài Loan... để
làm áp lực với chính phủ Ngô Đình Diệm. Và cuối cùng
họ nhận ra là không thể thắng, cho nên có (một số) ít
trong số họ chọn cách rút lui về cố hương, hay còn gọi
là hồi hương.
Chính phủ ông Ngô
Đình Diệm không hề có chủ trương bài xích người Tàu
hay có thành kiến đối xử không tốt đối với người
Tàu. Chuyện yêu cầu người Tàu “Hoa Kiều” sống lâu
đời phải vô quốc tịch Việt Nam là điều kiện hợp
tình, hợp lý, hợp pháp, hợp hiến ở trong một quốc
gia tự do dân chủ và cần phải nêu rõ quan điểm Chủ
Quyền Quốc Gia để ổn định xã hội. Không chỉ
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà các quốc gia khác trên
thế giới cũng đã có luật tương tự nhằm bảo đảm
an ninh quốc phòng, bảo đảm trật tự xã hội, bảo đảm
an ninh kinh tế tài chánh.
Công bằng mà nói
thì người Tàu “Hoa Kiều” họ cũng đã có một số
công trạng nhất định đóng góp cho vùng đất (Gia Định
– Sai Gon) về văn chương thi phú cũng như theo phò triều
đình Nhà Nguyễn khai hoang mở cõi một số địa danh Nam
Kỳ, như các vị: Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Dương Ngạn
Địch, Trịnh Hoài Đức, Trần Thượng Xuyên, Phan Thanh
Giản...
VIỆT
KIỀU:
Ngày
ba mươi tháng tư năm một chín bảy mươi lăm (30.4.1975),
Cộng quân xâm chiếm miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa). Từ
đó, họ gấp rút “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên xã hội chủ nghĩa” bằng các giai đoạn:
Đưa dân đi kinh tế mới nơi rừng sâu nước độc, mà
người dân miền Nam gọi là “đem con bỏ chợ”. Đổi
tiền ba lần gần như xóa sạch giá trị đồng tiền miền
Nam, người dân mất tiền kể cả tiền để dành. Đánh
tư sản mại bản công thương nghiệp các đợt, hãng
xưởng, hãng buôn mất sạch. Dồn người nông dân vô các
Tập đoàn sản xuất, Hợp tác xã. Thật ra các hình thức
đó chẳng qua là vơ vét tài sản, tiền của, đất ruộng
nhà cửa của người dân miền Nam hầu xóa bỏ “Tàn dư
tiểu tư sản”. Quân đội, công chức miền Nam “đầu
hàng” thì bị tập trung cho vô các trại “cải tạo”
tù đày nhiều năm, phải đi lao động để nuôi thân,
thiếu ăn, bệnh tật phải bỏ xác nơi chốn rừng thiêng
nước độc.
Xã
hội chủ nghĩa sung sướng chưa thấy đâu, nhưng trước
mắt đã thấy đói khổ triền miên trong nhiều năm, phải
ăn củ mì, củ sắn, bo bo... Di chuyển bị “ngăn sông
cấm chợ” lại không có xăng dầu, xe cộ phải dùng
nhiên liệu bằng than củi. Năm 1994 chính phủ Mỹ bỏ
“Cấm Vận” sau hai mươi năm bị cô lập. Từ đó, Hoa
Kỳ cho Việt Nam gia nhập “WTO” (World Trade Organization).
Tạm hiểu là kinh thế thị trường tự do tư bản, thì
kinh tế Việt Nam mới khởi sắc và giàu lên nhanh chóng
như hiện nay.
Người
xưa nói “Cọp beo không đáng sợ, cái đáng sợ là
quan lại độc ác tham ô”. Bị cướp đoạt hết
nhà cửa đất ruộng tài sản, người dân miền Nam, (kể
cả những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản) xúm
nhau nhào ra biển để đi tìm tự do ở các quốc gia tư
bản, bất kể sóng to gió lớn; bất kể hải tặc Thái
Lan... Năm 1979, chiến tranh sáu tỉnh biên giới phía Bắc,
do “Trung Cộng Anh Em” dạy cho cộng sản Việt Nam một
bài học thì người dân miền Bắc cũng ồ ạt tháo chạy
qua Hong Kong xin tỵ nạn.
Từ
đó, hai chữ “Việt Kiều”
ra đời.
Thử
tìm hiểu chữ Kiều, theo (Hán Tự- Hán Việt). Chữ Kiều
có nghĩa như sau: Kiều (Bộ Nữ) là: - Giai nhân đẹp,
người phụ nữ đẹp. Chữ Kiều (bộ mộc) là: - Cây
cầu, dùng chung cho các cây cầu. Chữ Kiều (Bộ cư, Bộ
nhân) là Người ăn nhờ, ở đậu, ở nhờ vùng khác,
làng khác hay nước khác gọi họ là kiều cư, kiều dân.
Theo (Bộ khẩu). Kiều là cây cao. Trong Hán Tự, không có
chữ “Kiều Bào”. Chữ Bào (Pào). Hán Tự có hai nghĩa:
Một: – Cái áo khoác bên ngoài. Chiến bào.
“Áo
bào thay chiếu anh về đất,
Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”, Thơ: Quang Dũng. Hai: –
Cái bị, cái bì, cái bao, cái bào thai… Chẳng có chữ
nào gọi là “Kiều Bào” ở trong Tự-Điển Hán Việt.
Ngoài
ra, “Kiều” cũng không phải Kiều của Nguyễn Du.
“Kiều
còn sắc sảo mặn mà,
So
bề tài sắc lựa là phần hơn”.
Chữ
Kiều trong “Việt Kiều” là chữ Kiều 僑
nầy và
còn có nhiều nghĩa nữa, tùy theo ý nghĩa của mỗi bộ
chữ Hán và cách xử dụng trong mỗi câu văn, câu thơ và
hoàn cảnh tương ứng. Chữ Kiều, nếu là Động Từ, thì
Kiều là chỗ ăn nhờ ở đậu. Ví dụ: “Kiều Cư”.
Nếu là Danh Từ, thì Kiều chỉ là người sống nhờ. Ví
dụ: “Hoa kiều” là người có quốc tịch Tàu, sống ở
nước ngoài. Còn nếu là “Trợ Từ”, thì có nghĩa là
tạm thời. Ví dụ: “Kiều Trí” là mượn tên một đất
vùng này đặt tạm cho một vùng đất khác. Chữ “KIỀU”,
cho dù thuộc chữ nào, tình huống nào thì chữ “Kiều”
cũng hàm ý chỉ là tạm bợ, tạm thời; là trôi nổi; là
linh đinh chứ chẳng “cắm dùi” ổn định lâu dài.
Từ lâu nay người ta vẫn dùng hai chữ “Việt Kiều”
để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất
nước, cách gọi này rõ ràng là quá hàm hồ, không thể
gọi theo kiểu cá mè một lứa như vậy được. “Việt
kiều”! Hiểu cho đúng nghĩa thì đó là những người
đang còn mang Quốc Tịch Việt Nam nhưng sống ở nước
khác. Ví dụ: Người làm trong bộ ngoại giao; Người đi
làm thuê, làm mướn, ở các nước khác; là du học sinh
tới các nước khác học và nghiên cứu…
Từ lâu nay người ta vẫn dùng hai chữ “Việt Kiều”
để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất
nước, cách gọi này rõ ràng là quá hàm hồ, không thể
gọi theo kiểu cá mè một lứa như vậy được. “Việt
kiều”! Hiểu cho đúng nghĩa thì đó là những người
đang còn mang Quốc Tịch Việt Nam nhưng sống ở nước
khác. Ví dụ: Người làm trong bộ ngoại giao; Người đi
làm thuê, làm mướn, ở các nước khác; là du học sinh
tới các nước khác học và nghiên cứu…
Người
Việt vượt biên tìm tự do, Người Việt tỵ nạn cộng
sản hoặc bất cứ hình thức nào mà đã đã được các
quốc gia tư bản cho tỵ nạn lâu dài, đã thi đậu quốc
tịch nơi đang định cư, sau khi tuyên thệ trở thành
“công dân” của họ thì hoàn toàn không còn là “Việt
Kiều” nữa, mà gọi là, Ví dụ: “Người Mỹ gốc
Việt; Người Pháp gốc Việt; Người Anh gốc Việt…!
Nhưng khi tới đời con, đời cháu sinh ra sau này (nơi cha
mẹ đang sống) thì không còn là gốc Việt. Tuy nhiên,
(trên danh nghĩa ngôn ngữ, xã hội - thông thường chỉ
gọi chung chung là thuộc các nhóm “Asian”; nhóm La Tinh;
nhóm Africa…).
Cộng
sản Việt Nam lâu nay gọi xô bồ người Việt định cư,
người Việt tỵ nạn ở nước ngoài là “Việt kiều
yêu nước, Khúc ruột ngàn dăm”. Khúc ruột nào mà
dài tới cả ngàn dặm vậy…? Đáng trách, đáng buồn,
một câu nói sai nghĩa nhưng nói hoài, nói nhiều lần mà
không ai chỉnh sửa thì để lâu ngày ắt sẽ trở thành
đúng. Chữ Việt hiện nay cũng vậy. Ví dụ: Đánh người
tới hộc máu thì nói “Tác động vật lý”. Tiệm tạp
hóa thì nói “Cửa hàng vật lý”. Chữ nghĩa, nét chữ
thì nói “Con chữ”. Chữ mà có con được sao? Học
sinh, học trò thì nói “Con học sinh”. Học sinh mà có
con được sao?
Bởi
vậy, lâu nay người Việt định cư ở các quốc gia khác
nhưng do quen miệng cũng tự nhận là Việt Kiều. Văn sĩ,
Thi sĩ, Ký giả... mỗi khi viết văn cũng “nhân danh”
Việt Kiều! Mong rằng các vị người Việt có quốc tịch,
hay là công dân ở các quốc gia tự do tư bản thì đừng
có mà “hãnh diện” nhận lấy hai chữ Việt Kiều nữa!
Trang
Y Hạ
San
Francisco, 2009.