Thư viện

1/12/25

CHẠY

 



CHẠY

     “Tẩu biến thiên nhai tầm tri kỷ,
    Vị tri nhược cá thị tri âm”. (Hư Vân).

Vô rừng dạo, vướng bụi cây
ghét người ong dữ một bầy túa ra
không lý-lẽ, chẳng giải-hòa
rựa, dao phang tới chạy ba đỗi đường.

Thoát thai dòng dõi thiện lương
không thèm chấp-nhất một phương lưu-manh
quạ trơ mắt ngó chẳng hành
sóc chu mỏ gặm tập tành du-côn.

Ngũ-liên sóng hối dập-dồn
đày chàng linh-thú dại khôn lưng còng
quê nhà còn có chi mong
tiếc cho thủa bé thong-dong ra đồng.

Biết rằng kẻ nhớ người trông
biết rằng con cá lòng tong lạc loài
biết rằng vằng-vặc trăng soi
biết rằng nói cuội cũng coi như huề.

Hồn quyên ký-ngữ tỉ-tê
vô-tàm, giải-đãi khen chê mặc tình
sinh chưa buông-thả, thấm kinh
dật-dừ, chẳng nhớ nỗi mình ra chi.

Lắng trong phương-vị thầm thì
là nam, là nữ cố-tri đâu tầm
hỡi người chung đụng một mâm
gỗ trôi ai vớt, lỡ lầm ai tha.

Ngồi nhà mà ngỡ xuất-gia
song-le, việc ấy kể là sa-di
hỡi người thuở trước cầm kỳ
bách-niên tao-ngộ, bỏ đi mô rồi.

Thức nằm, mím chặt đôi môi
thúc dòng ký-ức nổi trôi về nguồn
đành mần khất-sĩ chân suôn
không tu, an tụ tròn vuông kiếp người.

Vô rừng vọc kiến nghĩ vui
ba tâm, ý ngụ đã khươi nhịp đều
đêm trì lắng giọng cú kêu
lầu son gác tía, túp lều khác đâu.

Chạy từ bắc tận nam cầu
may rồi lại chạy biển sâu đứt nguồn
bình tâm văng vẳng tiếng chuông
từ trong sương tuyết gió luồng hỏi thăm.

Trang Y Hạ

LỜI GIÓ MƯA:

KỆ.

Dĩ sanh vô hữu sanh
Vị sanh diệt vô sanh
Ly dĩ sanh vị sanh
Sanh thời tức vô sanh. (Bồ Tát Long Thọ)


KỆ.
Sanh đã có đâu phải cần sanh nữa,
Nếu chưa sanh kể ra cũng không sanh
Sự sanh cách cớ chi mong sanh lại
Khi đang sanh chưa chắc đã sanh thành.

Trang Y Hạ
(Chuyển Qua Thơ).




30/11/25

NGHĨ VỀ CHỮ KIỀU

 



NGHĨ VỀ CHỮ KIỀU.

      HOA KIỀU:
      Ngày xưa vùng “Gia Định - Chợ Lớn - Sài Gòn” vốn gần như là “thuộc địa” hay “tô giới” của người Tàu. Người Tàu du nhập vô Việt Nam bằng nhiều hướng: Từ sông Dương Tử, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến, Hồng Kong, Đài Loan - bằng nhiều lý do từ: chính trị, thiên tai, kinh tế và lý do duy nhất (sau nầy) là trốn tránh sự đàn áp. Đàn áp do sự thay đổi triều đại từ khi triều đình Mãn Thanh thống nhất Trung Hoa. Một số nhân sĩ tinh hoa người Hán quyết tâm khởi nghĩa “Phản Thanh Phục Minh”, nhưng thất bại phải chạy qua Việt Nam tỵ nạn.

     Tử khi Pháp chiếm Đông Dương, với chính sách “chia để trị”, đã nhận thấy hiện trạng như vậy và tiếp tục công nhận đồng thời dung túng (một số đặc quyền) cho người Tàu sinh hoạt buôn bán tự do theo cách riêng của người Tàu. Nhưng có thể khẳng định ý đồ là Pháp dựa vô thực lực và đầu óc kinh doanh mại bản thiên bẩm của người Tàu để khống chế giới điền chủ, giới tư sản của người Việt vốn ít ỏi để thao túng buộc người Việt phải theo ý người Pháp.

     Người Tàu Chợ Lớn cần cù làm ăn, nên có câu:
                 “Quảng Đông ăn cá bỏ đầu,
           Phúc Kiến lượn lấy đem về kho tiêu”.

     Từ chỗ nghèo đói trở thành - có thế, có quyền, có tiền của khắp cả một vùng và rồi lại tỏ ra khinh thường người Việt. Họ (người Tàu), chiếm hữu tất cả ngành nghề của người Việt, mà ngành nghề đó người Việt vốn đã tồn tại từ lâu đời: Thợ rèn, thợ hồ, thợ mộc, thợ may, thợ tiện, thợ máy, thợ nhuộm, thợ đúc đồ đồng… Người Việt lúc bấy giờ chỉ còn làm những công việc nặng nhọc, như: Làm công nhân khuân vác, bốc vác nơi các bến cảng, bến tàu (sông, biển), làm công nhân hãng xưởng, kéo xe... Tất cả đều chịu sự điều khiển sai khiến của các xì thẩu, cai thầu người Tàu. Hơn nữa người Tàu làm ăn theo phương thức (phường, hội), Ngũ Bang (Tiều (Tiều Châu), Hải Nam, Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến) nhằm để giúp đỡ lẫn nhau, họ thường chúc nhau “Thượng Lộ Bình An”, cho nên người Việt một phần thiếu “gắn kết”, vả lại cón thiếu vốn liếng không thể tranh đua với họ được.

     Từ khi Pháp rút ra khỏi Đông Dương, các Bang Hội người Tàu và các Trường Học của người Tàu từ từ bị giải tán hết. Năm 1954, chính quyền ông Ngô Đình Diệm, chấp chánh đã hiểu rõ người Tàu nắm tất cả huyết mạch kinh tế, thương mại của miền Nam kể cả xuất nhập cảng lúa gạo... Người Tàu từ bao đời nay họ cư ngụ chỉ là Tàu Kiều, nói chính xác là “HOA KIỀU” Chợ Lớn (nạn Hoa Kiều). Hoa Kiều tức là những người Tàu cư ngụ trên đất nước Việt Nam chứ họ không phải Công Dân Việt Nam. Do đó, chính phủ của ông Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng đưa ra “Bộ Luật Quốc Tịch Việt Nam” vào cuối năm 1955. Trong điều thứ mười hai (12) ghi rõ: “Nếu là con chính thức, mà có mẹ là người Việt Nam, và có cha là người Tàu (Trung Hoa), nếu sinh đẻ ở tại Việt Nam thì đứa trẻ đó là người Việt Nam”. Và, vài tháng sau, thì “Bộ luật Quốc Tịch” lại quy định thêm: “Hoa Kiều sinh tại Việt Nam sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải khai nhận Quốc Tịch Việt Nam và làm Căn Cước, nếu không tuân thủ theo luật định thì có thể xin hồi hương về lại Trung Hoa trước ngày 31/8/1957”.

     Bộ Luật Quốc Tịch Việt Nam ra đời, được xem như một cuộc cách mạng làm thay đổi vấn đề “HOA KIỀU đã sống tầm gửi từ lâu trên đất Việt mà không chịu sự quản lý về di trú tư pháp. Đó là các Dụ số 52 được ban hành ngày 29-8-1956, dụ số 53 ngày 6-9-1956. Cả hai sẽ chính thức áp dụng ngày 25-10-1956.

     Dụ số 52 quy định rằng người Tàu “Hoa Kiều” định cư tại miền Nam (Gia Định – Sai Gon) bắt buộc phải nhập Quốc Tịch Việt Nam. Khi nhập quốc tịch, thì sẽ được bảo đảm tự do giao dịch, buôn bán, đi lại. Người Tàu phải dùng chữ Việt đặt tên họ như: (Quách, Mạch, Lâm, Trịnh, Tô, Trần, Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trương, Ngô, Hồ...), và cũng không được dùng tên ngoại quốc hay tên gọi riêng như: A, Chú, Chế…, kể cả bí danh trong các văn kiện hành chánh, khai sanh, hôn thú... Tên trên bảng hiệu thương mại, tiệm chạp phô kể cả văn chương thi phú cũng phải viết bằng Chữ Việt.

     Dụ số 53 cấm người ngoại quốc không được kinh doanh mười một (11) ngành nghề, như: 1- Buôn bán cá thịt, 2- Chạp phô, 3- Than củi, 4- Nhiên liệu xăng dầu, 5- Tơ sợi, 6- Trung gian mua bán, 7- Kim loại, 8- Lương thực xuất nhập, 9- Chuyên chở thủy bộ, 10- Xay gạo, 11- Dịch vụ.
Đạo dụ chỉ áp dụng cho thành phần (chủ nhân, thương nhân, thương lái) người Tàu và các ngành nghề thuộc về kỹ nghệ và hành nghề tự do. Người Tàu lai Việt, có vợ người Việt thì không ảnh hưởng quy chế chế tài, vẫn được phép kinh doanh dưới tên người thân, nhưng người thân (vợ, chồng) phải là người Việt Nam có quốc tịch Việt Nam, hộ tịch khai sanh chính thức bằng bản văn tư pháp của chánh quyền Việt Nam.

     Chính phủ ông Ngô Đình Diệm dứt khoát về vấn đề quốc tịch để cho người Tàu “Hoa Kiều” được sống hợp pháp trên đất Việt Nam. Một khi đã là công dân Việt Nam thì họ sẽ được hưởng quy chế ưu đãi không khác gì người Việt một cách công bằng và có nghĩa vụ quân sự; có nghĩa vụ đóng thuế góp phần cho đất nước cũng như chấp hành các nghĩa vụ công dân khác.

     Tuy nhiên, không phải mọi chuyện đều suôn sẻ. Ngay từ đầu khi các dụ luật ra đời thì người Tàu Chợ Lớn phản ứng kịch liệt, dữ dội... – nhất là một số thương lái, thương nhân Tàu giàu có gọi là “đầu nậu” của một số ngành kinh doanh cỡ lớn không chịu khuất phục tuân thủ luật nhập quốc tịch Việt Nam. Họ đã tìm đủ mọi cách chống trả, họ lại liên hiệp với các nhà “tài phiệt” thế giới như: Hong Kong, Trung Hoa, Đài Loan... để làm áp lực với chính phủ Ngô Đình Diệm. Và cuối cùng họ nhận ra là không thể thắng, cho nên có (một số) ít trong số họ chọn cách rút lui về cố hương, hay còn gọi là hồi hương.

     Chính phủ ông Ngô Đình Diệm không hề có chủ trương bài xích người Tàu hay có thành kiến đối xử không tốt đối với người Tàu. Chuyện yêu cầu người Tàu “Hoa Kiều” sống lâu đời phải vô quốc tịch Việt Nam là điều kiện hợp tình, hợp lý, hợp pháp, hợp hiến ở trong một quốc gia tự do dân chủ và cần phải nêu rõ quan điểm Chủ Quyền Quốc Gia để ổn định xã hội. Không chỉ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà các quốc gia khác trên thế giới cũng đã có luật tương tự nhằm bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo đảm trật tự xã hội, bảo đảm an ninh kinh tế tài chánh.

     Công bằng mà nói thì người Tàu “Hoa Kiều” họ cũng đã có một số công trạng nhất định đóng góp cho vùng đất (Gia Định – Sai Gon) về văn chương thi phú cũng như theo phò triều đình Nhà Nguyễn khai hoang mở cõi một số địa danh Nam Kỳ, như các vị: Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Dương Ngạn Địch, Trịnh Hoài Đức, Trần Thượng Xuyên, Phan Thanh Giản...

     VIỆT KIỀU:
     Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy mươi lăm (30.4.1975), Cộng quân xâm chiếm miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa). Từ đó, họ gấp rút “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” bằng các giai đoạn: Đưa dân đi kinh tế mới nơi rừng sâu nước độc, mà người dân miền Nam gọi là “đem con bỏ chợ”. Đổi tiền ba lần gần như xóa sạch giá trị đồng tiền miền Nam, người dân mất tiền kể cả tiền để dành. Đánh tư sản mại bản công thương nghiệp các đợt, hãng xưởng, hãng buôn mất sạch. Dồn người nông dân vô các Tập đoàn sản xuất, Hợp tác xã. Thật ra các hình thức đó chẳng qua là vơ vét tài sản, tiền của, đất ruộng nhà cửa của người dân miền Nam hầu xóa bỏ “Tàn dư tiểu tư sản”. Quân đội, công chức miền Nam “đầu hàng” thì bị tập trung cho vô các trại “cải tạo” tù đày nhiều năm, phải đi lao động để nuôi thân, thiếu ăn, bệnh tật phải bỏ xác nơi chốn rừng thiêng nước độc.

     Xã hội chủ nghĩa sung sướng chưa thấy đâu, nhưng trước mắt đã thấy đói khổ triền miên trong nhiều năm, phải ăn củ mì, củ sắn, bo bo... Di chuyển bị “ngăn sông cấm chợ” lại không có xăng dầu, xe cộ phải dùng nhiên liệu bằng than củi. Năm 1994 chính phủ Mỹ bỏ “Cấm Vận” sau hai mươi năm bị cô lập. Từ đó, Hoa Kỳ cho Việt Nam gia nhập “WTO” (World Trade Organization). Tạm hiểu là kinh thế thị trường tự do tư bản, thì kinh tế Việt Nam mới khởi sắc và giàu lên nhanh chóng như hiện nay.

     Người xưa nói “Cọp beo không đáng sợ, cái đáng sợ là quan lại độc ác tham ô”. Bị cướp đoạt hết nhà cửa đất ruộng tài sản, người dân miền Nam, (kể cả những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản) xúm nhau nhào ra biển để đi tìm tự do ở các quốc gia tư bản, bất kể sóng to gió lớn; bất kể hải tặc Thái Lan... Năm 1979, chiến tranh sáu tỉnh biên giới phía Bắc, do “Trung Cộng Anh Em” dạy cho cộng sản Việt Nam một bài học thì người dân miền Bắc cũng ồ ạt tháo chạy qua Hong Kong xin tỵ nạn.

     Từ đó, hai chữ “Việt Kiều ra đời.

     Thử tìm hiểu chữ Kiều, theo (Hán Tự- Hán Việt). Chữ Kiều có nghĩa như sau: Kiều (Bộ Nữ) là: - Giai nhân đẹp, người phụ nữ đẹp. Chữ Kiều (bộ mộc) là: - Cây cầu, dùng chung cho các cây cầu. Chữ Kiều (Bộ cư, Bộ nhân) là Người ăn nhờ, ở đậu, ở nhờ vùng khác, làng khác hay nước khác gọi họ là kiều cư, kiều dân. Theo (Bộ khẩu). Kiều là cây cao. Trong Hán Tự, không có chữ “Kiều Bào”. Chữ Bào (Pào). Hán Tự có hai nghĩa: Một: – Cái áo khoác bên ngoài. Chiến bào.
                      “Áo bào thay chiếu anh về đất,
               Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, Thơ: Quang Dũng. Hai: – Cái bị, cái bì, cái bao, cái bào thai… Chẳng có chữ nào gọi là “Kiều Bào” ở trong Tự-Điển Hán Việt.

     Ngoài ra, “Kiều” cũng không phải Kiều của Nguyễn Du.
                      “Kiều còn sắc sảo mặn mà,
              So bề tài sắc lựa là phần hơn”.
     Chữ Kiều trong “Việt Kiều” là chữ Kiều nầy và còn có nhiều nghĩa nữa, tùy theo ý nghĩa của mỗi bộ chữ Hán và cách xử dụng trong mỗi câu văn, câu thơ và hoàn cảnh tương ứng. Chữ Kiều, nếu là Động Từ, thì Kiều là chỗ ăn nhờ ở đậu. Ví dụ: “Kiều Cư”. Nếu là Danh Từ, thì Kiều chỉ là người sống nhờ. Ví dụ: “Hoa kiều” là người có quốc tịch Tàu, sống ở nước ngoài. Còn nếu là “Trợ Từ”, thì có nghĩa là tạm thời. Ví dụ: “Kiều Trí” là mượn tên một đất vùng này đặt tạm cho một vùng đất khác. Chữ “KIỀU”, cho dù thuộc chữ nào, tình huống nào thì chữ “Kiều” cũng hàm ý chỉ là tạm bợ, tạm thời; là trôi nổi; là linh đinh chứ chẳng “cắm dùi” ổn định lâu dài.

     Từ lâu nay người ta vẫn dùng hai chữ “Việt Kiều” để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất nước, cách gọi này rõ ràng là quá hàm hồ, không thể gọi theo kiểu cá mè một lứa như vậy được. “Việt kiều”! Hiểu cho đúng nghĩa thì đó là những người đang còn mang Quốc Tịch Việt Nam nhưng sống ở nước khác. Ví dụ: Người làm trong bộ ngoại giao; Người đi làm thuê, làm mướn, ở các nước khác; là du học sinh tới các nước khác học và nghiên cứu…

     Từ lâu nay người ta vẫn dùng hai chữ “Việt Kiều” để gọi chung những người Việt Nam sống ngoài đất nước, cách gọi này rõ ràng là quá hàm hồ, không thể gọi theo kiểu cá mè một lứa như vậy được. “Việt kiều”! Hiểu cho đúng nghĩa thì đó là những người đang còn mang Quốc Tịch Việt Nam nhưng sống ở nước khác. Ví dụ: Người làm trong bộ ngoại giao; Người đi làm thuê, làm mướn, ở các nước khác; là du học sinh tới các nước khác học và nghiên cứu…

     Người Việt vượt biên tìm tự do, Người Việt tỵ nạn cộng sản hoặc bất cứ hình thức nào mà đã đã được các quốc gia tư bản cho tỵ nạn lâu dài, đã thi đậu quốc tịch nơi đang định cư, sau khi tuyên thệ trở thành “công dân” của họ thì hoàn toàn không còn là “Việt Kiều” nữa, mà gọi là, Ví dụ: “Người Mỹ gốc Việt; Người Pháp gốc Việt; Người Anh gốc Việt…! Nhưng khi tới đời con, đời cháu sinh ra sau này (nơi cha mẹ đang sống) thì không còn là gốc Việt. Tuy nhiên, (trên danh nghĩa ngôn ngữ, xã hội - thông thường chỉ gọi chung chung là thuộc các nhóm “Asian”; nhóm La Tinh; nhóm Africa…).

     Cộng sản Việt Nam lâu nay gọi xô bồ người Việt định cư, người Việt tỵ nạn ở nước ngoài là “Việt kiều yêu nước, Khúc ruột ngàn dăm”. Khúc ruột nào mà dài tới cả ngàn dặm vậy…? Đáng trách, đáng buồn, một câu nói sai nghĩa nhưng nói hoài, nói nhiều lần mà không ai chỉnh sửa thì để lâu ngày ắt sẽ trở thành đúng. Chữ Việt hiện nay cũng vậy. Ví dụ: Đánh người tới hộc máu thì nói “Tác động vật lý”. Tiệm tạp hóa thì nói “Cửa hàng vật lý”. Chữ nghĩa, nét chữ thì nói “Con chữ”. Chữ mà có con được sao? Học sinh, học trò thì nói “Con học sinh”. Học sinh mà có con được sao?

     Bởi vậy, lâu nay người Việt định cư ở các quốc gia khác nhưng do quen miệng cũng tự nhận là Việt Kiều. Văn sĩ, Thi sĩ, Ký giả... mỗi khi viết văn cũng “nhân danh” Việt Kiều! Mong rằng các vị người Việt có quốc tịch, hay là công dân ở các quốc gia tự do tư bản thì đừng có mà “hãnh diện” nhận lấy hai chữ Việt Kiều nữa!

Trang Y Hạ
San Francisco, 2009.



23/11/25

NGƯỜI CON GÁI KABUL.


NGƯỜI CON GÁI KABUL


     “Thiên hạ bổn vô sự,
      Dung nhơn tự nhiễu chi”. *

Parking Lot, mây mù chia tháng chạp
bụi mưa giăng, cây lá nhuốm màu tang
cô qụa đứng, trông trời mờ cõi tháp
anh bồ câu, kiếm thóc mệt đỗi đàng.

Chân-phương nét đẹp hóa ra kinh khổ
lớp lụa đen phủ kín một dung tiên
hoa cố nở cho một lần hội ngộ
cõng ứ-nê kiều-nữ sạch ưu-phiền.

Bước chầm chậm, bước theo người con gái
thơ thẩn quay, quay ngược kỷ hai mươi
khói đồng quyện làn khói thơm ấm chái
có một người, cố giấu hết nụ cười.

Cô mặc áo Kabul nhìn starbucks
mùi Phương-Đông ngây-ngất đấng nam nhi
ai khả-đãi, ai khả-lân quán chật
vô-đoan nhiều, thôi đành cố lầm lỳ. *

Cô mặc áo Sài-Gòn dài lất-phất
sờ châu thân bộ đồ lính màu phai
vận ký-ức quỷ xúi trang sử lật
người trước sau, xin thấu hiểu lòng này.

Kabul đẹp dáng Sai-Gòn thêm đẹp
dòng sông xuyên, chở nặng hột ưu-tư
đoạn di-tản phương xa chăm chỉ chép
thân bội-nan tinh-huyết cạn mỏi nhừ.

Kabul sống, Sài-Gòn trôi ra biển
ba trăm năm, nằm chết yểu một phương
tự an ủi, tự thắp nhang cầu-nguyện
lũ âm-binh, lũ-khủ chắn ngả đường.

Parking Lot, ngắm chân dung cô lữ
hai mươi năm, chinh-chiến bỏng hai tay
tương-lai đợi, nặng lòng đêm tư-lự
có phải chăng, thiên-sự cố ý bày.

Người con gái Kabul ôm starbucks
hơi ngày đông gió tiễn gót lưu-ly
mất tất cả đó chính là sự-thật
còn duyên xinh, chứ chẳng có còn gì.

Trang Y Hạ
Cước Chú:
* - (Người đời vốn bằng an. Kẻ khờ lại khấy động).
* - “Vô Đoan” là: (Bất thường; là Bỗng nhiên; là Kinh ngạc [lẫn chút đau buồn].




13/11/25

VƯỜN SAU

 



VƯỜN SAU


     “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự,
      Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.

Chuông điện-thoại, rộn sớm mai tĩnh-mịch
chú bướm vàng, sợ lạnh chẳng ló ra
sương ở đậu, ù lì chưa lẫn khuất
không hẹn hò ai gọi sớm vậy nà.

Đã lâu quá, phôn đói meo nằm khểnh
đầu lão lai, đầu hoang-tưởng đó thôi
tự pha chế ly cà-phê tự ngẫm
người (pha giùm), người biền-biệt lâu rồi.

Cô chim nhỏ, đoán chừng đà trộng tuổi
đậu cành chờ vẻ mặt sáng-sủa ghê
cất giọng hát bỗng trầm như ca-sĩ
bốn hướng đi, chỉ có một hướng về.

Mưa còn sót giọt mưa đêm hôm trước
chưa thấm mà, mà hóa hột trân châu
ước chi được, được một vòng châu ngọc
tặng người xưa, tặng cho mối tình đầu.

Nào chẳng phải chàng si tình Lữ-Bố
cũng không là ngang dọc Lữ-Phụng-Tiên
vốn mắc nợ giai-nhân nào có tội
bước lang-thang tìm đâu khắp mọi miền.

Thủa một thuở, căng ponso hứng nước
mưa đầu mùa, dự-đoán tới sớm hơn
bầy pháo địch, nhịp-nhàng như chuông Chúa
chờ thư tình hai mắt mỏi chập-chờn.

Hồn vọng-gác, giao-thông-hào, lô-cốt
rêu phong mờ, cỏ dại phủ dấu chân
hải-ngạn gió, ru hàng dương-liễu rũ
hãn mã đâu, ngựa chiến hí vang rần.

Jacket bạc, ấm một thời quan-ải
sờ đôi chân, giày sô số hiện ra
giày theo chủ, nắng mưa đà vẹt gót
huynh-đệ tình chi-binh vẫn chưa nhòa.

Điện-thoại lạnh, ấm êm chùng túi áo
thỉnh-thoảng buồn, tới cữ lại reo vui
ngó số gọi, thấy người ta quảng-cáo
vườn sau vườn, ôn cố gói bùi-ngùi.


Trang Y Hạ



9/11/25

NỬA ĐƯỜNG

 



NỬA ĐƯỜNG

    “Thử tình khả đãi thành truy ức,
      Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.”. 

                                   (Lý Thường Ẩn)

Nửa đường gãy gánh trung-đồ
ai mô xướng-nghĩa; ai mô diện-tiền
cây lưu bóng ngã vân miên
tương dung thiện mộng lam-điền khói du.

Đời là tội, thân là tù
loanh-quanh khả-đãi vi vu đẩy trời
huỳnh quang đốm tiếu ma trơi
nửa đường gãy gánh lỗ lời tính sao.

Bậu chừ trõm mắt chao-vao
vọng âm cổ-lụy ba-đào dội tâm
mãn khai từ đó giọt thầm
đường dài mưa nắng kim châm nhão người.

Gà no quen lệ chân bươi
người no giở thói biếng lười, vô ân
tâm in vạn sự xoay-vần
hữu-thiên, hữu-địa cõi trần sóng xô.

Lạc qua đất trích, hàm hồ
sống còn đang sống mả mồ lo toan
bội nan, huyết-hãn đâu nhàn
hỏi chi cầm-sắt chứa-chan hiền hòa.

Mộng vun trăm sự hà sa
tỉnh ra gió thấm bà ba vai sờn
xuân hoa dục tạ dỗi hờn
nửa đêm vọng xé tiếng đờn dỗ đêm.

Song đau rung giật cánh rèm
sân đau đời đợi cuối thềm chờ chi
tồn tâm trung hậu nhu mì
mưa vùi gió dãi, đã khi đã từng.

Khói lam vẽ dáng còng lưng
ngóng chờ ngày giỗ vui mừng có nhau
đồng chiều cò mặc trắng phau
bao đời cày cuốc chưa giàu chưa sang.

Nửa đường gãy gánh trễ-tràng
mùa ôn ngữ đẹp mơ-màng xuân thâm
mưa vui hột giấu nẩy mầm
ngậm cay, nuốt mặn kệ tầm tả tơi.


Trang Y Hạ
Cước Chú:
"Thử tình khả đãi thành truy ức.
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên"
Tạm Dịch:
(Tình này hãy đợi nên niềm nhớ
Tiếc đã xưa kia lỗi ước nguyền.).

LỜI GIÓ MƯA:

“… Rõ ràng là không thể dễ dàng với thơ mà phải “lao động” cật lực với nghệ thuật và ngôn ngữ - bằng không, sẽ chỉ có chữ mà không có thơ. Và hầu hết các bài thơ phải sửa tới hàng trăm lần mới hoàn thiện”.
Thi sĩ (Joseph Brodsky). Giải Nobel văn học 1987.
Trang Y Hạ, Sưu Tầm




7/11/25

THƠ TÌNH TỪ ÂM PHỦ (Phổ nhạc).

 


ĐƯỜNG PHAN THANH GIẢN KONTUM


Hai hàng phượng, đứng im cau mày ngẫm,

Trường Teresa, tà áo vẫn dài bay.

Dakbla chảy ngược dòng qua hồn thấm,

Bậu nơi đâu, sương núi ướt tình này.


Trang Y Hạ


1/11/25

THƠ TÌNH THỜI LY LOẠN

 



THƠ TÌNH THỜI LY LOẠN


     “Chẳng yêu nhau, chớ dể nhau,
       Những loài yến tước biết đâu chí hồng.”
                                         (Truyện: Phan Trần).

Cầm phôn lên, gọi khắp cả bốn phương
anh ở mô, răng mà không nghe máy
ba lô, súng, quăng rồi không trở lại
thân bơ-vơ, sờ ghế trống công-viên.

Em mất dạy, vỉa hè bán chuối chiên
học trò cũ, (anh ta) thản nhiên bước
học trò cũ, (cô nàng) mua làm phước
ngửa mặt cười, cười ngạo-nghễ nhân gian.

Bao năm rồi, tự thân cố cưu mang
bởi được đẩy, từ chỗ khô tới thấp
vui yên khổ, trong nắng nung mưa ngập
ai dưỡng phù, ai kế tự cho đây.

Ngày mỗi ngày hàn ôn bụi cỏ cây
gió hứa hẹn, gió sẽ luôn gió mát
và cứ vậy, tóc vùi sương mặn lạt
giữa ngổn-ngang thế sự bày biện ra.

Anh vẫn ở cõi trần hay cõi ma
sống thấy mặt, chết hồn về báo mộng
đừng cà-rỡn, bởi em còn phải sống
sống an-bình trong hơi thở trong nhau.

Đường bây chừ, bước lẫn lộn vàng thau
cái sàng mục lấy cái chi để lọc
truyện cổ-tích xúm đem ra moi móc
cành nam xuân con én cũng di-phương.

Em còn đây, còn giữ mảnh chiếu giường
anh quay lại hai đứa hun lửa ấm
già nua kệ, mặc nói năng lẩm-cẩm
được tái sinh, được đối diện bình minh.

Em đếch cần quan tâm tới nhục vinh
vốn chữ nghĩa thẳng tay đem vứt bỏ
vốn sắc đẹp gửi thời gian để đó
anh quay về, lấy lại điểm dung nhan.

Điện thoại im, tâm trí rộn mơ-màng
chống cằm ngó, khung trời mưa độc-thoại
tự trả lời, tự chúc thân mạnh-giỏi
đừng có mà, lén nghe lén người ta.

Trang Y Hạ
San Francisco, 2012.


Ông Ngoại và cháu ngoại

31/10/25

ĐI DẠO CÙNG NÀNG STARBUCKS

 



ĐI DẠO CÙNG NÀNG STARBUCKS

     “Triêu mộ hương quan hà biệt xứ,
      Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.

Khai nhãn thấy Starbucks nàng mở cửa
ánh đèn xuyên tường kiếng hiện dung nhan
đầu hồi tưởng bậu cầu ao giặt giũ
điện-thoại rung gãy từng khúc mơ-màng.

Cây trước cửa mỗi ngày mỗi ăn bám
từng giọt sương ban tặng miếng Man-Na
choàng jacket, bước chân chìm dĩ-vãng
bậu có còn qua bắc đợi qua phà.

Đường vắng ngắt hàng xe hơi nằm cóng
ngọn đèn đường vàng vọt hóng thiêu thân
nghe nhà lạ tiếng đàn-bà ngủ ngáy
sao từ đêm lơ-đễnh chẳng ân-cần.

Ông home-less nằm co-ro hiên bụi
gió thương tình không thổi mảnh carton
gia tài lớn canh thân con chó nhỏ
trong cơn mơ, chắc mơ một bóng hồng.

Không nỡ cắn bàn tay người đút cháo
đối-diện người dị-tộc hét hello
ngước mặt thấy, thấy miếu Bà Thiên-Hậu
Hai-Bà- Trưng đền đáp chỉ mơ hồ.

Thân ăn ké anh thổi kèn Nam-Quách
triều-đại tiêu tìm đâu chỗ khả-lân
đành dục-tạ theo hồn hoa cỏ úa
không thọ chung, chỉ đợi dịp xoay-vần.

Vòng tay siết ngang hông cô Starbucks
gắn nụ hôn sữa ngọt Cửu-Long-Giang
trâm bầu rặng, hú ong vầy trăng-mật
nước nổi tràn cá linh giỡn từng đàn.

Bậu còn đứng, đứng bên bờ Bến-Hải
hay xuôi dòng Thạch-Hãn tắm Sông Hương
chiều giữ nắng sưởi Cổ-Thành nguyệt tận
đêm Mậu-Thân phố thành bãi chiến trường.

Bước chân trật rớt xuống vùng nê-địa
gươm giáo tan, kẻ địch vẫn trơ-trơ
lời nhân-ái thoát ra từ khẩu ác
bậu, bảo-tàng tình-sử chớ hững-hờ.

Trời chớm sáng, Starbucks nàng mở cửa
bầu ưu-tư nghiêng bình trút vô ly
ánh dương rọi hàng xe hơi tỉnh-táo
nhân-gian nan tái hiện một chu-kỳ.

Trang Y Hạ
Mùa đông, San Francisco.



28/10/25

MÙA HÈ Ở CỰU KIM SƠN

 



MÙA HÈ Ở CỰU KIM SƠN

     “Tu du khai thị hồi nhi lão,
      Tấn tốc trường đồ tái vô thường”
                                       (Trần Phước Hân).

Tiếng trống dội màu chiều quy trường cũ
ngọn đèn khuya nhâm-nhẩm bảng-cửu-chương
xích-lô máy nằm im bìa quyển-vở
viết lá tre cắn bút ngó ra vườn.

Màu sương phủ lấp dấu chân của mẹ
quần Mỹ-A đen nhánh áo sờn vai
hấp-tấp dẫn con xuống xuồng đi học
đoạn tuổi thơ điệp-khúc diễn mỗi ngày.

Thương cây lúa vì cha mà hóa kiếp
dừa lá xanh thay lá biết bao lần
thân bìm-bịp mỏi mắt trông con nước
mê chống chèo đau ốm cũng quên thân.

Ngày lên tỉnh áo trắng mẹ may sẵn
tiền tỏa thơm mồ hôi mẹ nhét tay
hai mái tóc kề nhau khoe hai sắc
bữa cơm đơn chay mặn ngổn-ngang bày.

Xưa sáo mẹ sang sông đồng hun-hút
nay sáo con sang biển tít-mù xa
con chó vệnh vẫy đuôi mừng cất bước
vu-quy vui đôi mắt giấu lệ nhòa.

Đôi bông thủa mù u nào có thấy
kỷ vật xưa chừ bỗng hóa ra vàng
sao còn sáng sao dời qua vật đổi
đi lấy chồng tưởng như tới xứ hoang.

Mùa hè ở nơi đây sầu ve ngậm
chỉ chực nghe văng-vẳng tận trong tâm
dòng lưu-bút theo lịch thời trầm-tích
phố lạ quen nặng bước, bước bước thầm.

Mùa hè ở nơi đây phượng ngoắt gió
sờ châu-thân tà áo có phất-phơ
đôi hài mộc xua nóng mùa lửa hạ
trả về không khắc-khoải với mong chờ.

Tiếng trống dội tâm can quy trường cũ
nhập mộ đồ viễn-xứ đổi ra ma
vừa chớp mắt hiểu ra đà nhi-lão
chạy đi đâu, trầm tưởng tuổi ngọc-ngà.

Trang Y Hạ

LỜI GIÓ MƯA:

     Phụ nữ Nam Kỳ ngày xưa - một khi còn đeo bông tai tòn ten là cô gái đó chưa có chồng. Nhưng một khi cô gái đã vu quy rồi thì chuyển sang đeo đôi bông tai Mù-U”, sát nơi vành tai. (Bông tai mù u không chốt gài phía sau). Đôi bông tai mù u là sính lễ, được mẹ chồng tự tay đeo cho con dâu, trước bàn thờ gia tiên.
     Do đó, đôi bông tai cưới của phụ nữ Nam-Kỳ Lục-Tỉnh, là một món quà hôn nhân rất quan trọng cũng giống như chiếc nhẫn cưới bằng vàng. Nhẫn cưới bằng vàng sau nầy là theo phong tục của Phương Tây.

Trang Y Hạ




27/10/25

THƠ TÌNH TỪ ÂM PHỦ

 



THƠ TÌNH TỪ ÂM PHỦ

     “Đã chớp mắt bệnh già ai tầm tới,
      Cố chạy đi thần chết lại quay về”.
                                       (Trần-Phước-Hân).

Điện-thoại lạnh tê thân chờ trên kệ
bấm đốt tay tính nhẩm ngẫm thời qua
cửu-chương-bảng, hết linh cười giã-biệt
buồng tim rung nhắn-nhủ chuẩn bị già.

Nghe lời bậu, dạo tình tầm nhau thử
gọi tứ phương ngong ngóng vọng hồi-âm
con chim nhạn mê trời bay đi miết
âm-phủ ôm chiếu lạnh, có trách thầm.

Ly-bôi lạc nuốt chân mây vời vợi
ngước trần-gian nhốn-nháo loạn luân-hồi
triệu ôn-ngữ, kính mời ai tế-độ
rà thân tâm, rạng màu trắng hòa vôi.

Soạn giá vẽ, đường ngoằn-ngoèo nhà bậu
vệt trăng non đọt chuối giỡn ma trơi
chú đớp muỗi, ăn đêm thân lầm-lũi
thăm người dưng, người dưng chẳng thèm mời.

Chân mỏi rớt, lên chín tầng âm-phủ
lần tay đo vòng eo bậu năm xưa
chọn chiếc áo bà-ba hoa điên-điển
món quà duyên, chẳng biết mặc có vừa.

Chân mỏi rớt, xuống chín tầng địa-ngục
nặn óc mò, mò cỡ nhẫn năm nao
tay tiên đẹp, nổi trôi đà teo-tóp
lựa mua xong, trong dạ luống cồn-cào.

Đêm khuya vọng, lão Diêm-Vương xỉn ngáy
trà tỏa hơi ấm tóc mượt nàng thơ
thân ốm nhách, nắng mưa xuồng mục rã
mái dầm khua nhã-nhạc bóng trăng mờ.

Soi mặt cổ Hồ-Xuân-Hương gợn sóng
vọng Cam-Ly, ngóng Than-Thở, Đồi Thông
Hai Mộ hẹn nằm kề chưa yên mả
Rừng Ái-Ân, hơi hướm ủ còn nồng.

Mắt nhức-nhi, tia Mùa-Hè-Đỏ-Lửa
giấu trong đùi, miểng pháo-kích vẫn chưa
nét chữ bậu nắn-nót bày ra đó
bão tố ngưng, nhận hứng gió mưa lùa.

Wi-fi mất, gác tay nằm ủ rũ
ngắm Tây-Thi điểm phấn Động-Đình-Hồ
có mơ-ước, phải chi là Phạm-Lãi
đã mất xuồng, đành cam chịu sóng xô.

Chốn âm-phủ câu thơ tình chân-thật
hoạt-tử-nhân, nhân-chứng giữa đôi bên
lời cốt tủy, qua truyền-âm-nhập-mật
niềm-tin trao, cần chi phải đáp đền.

Thiên-nhãn thấy dương-gian đâu cười cợt
Thiên-nhĩ nghe cảnh khổ xót tương-lân
âm-phủ vét nỗi lòng còn chi vét
bậu ngủ đi, tỉnh giấc hết nợ nần.

Trang Y Hạ

Lời Gió Mưa:

HỰU ĐÁO

"Xuất mã phúc, nhập lư thai,
 Diêm Vương điện tiền kỷ độ hồi.
 Thủy tùng Đế Thích điện tiền quá,
 Hựu đáo Diêm quân oa lý lai.". 

Tạm Dịch:

(Ra bụng ngựa, vô bụng lừa,
 Phủ Điện Tiền thường xuyên ghé tới.
 Chạy qua Cung Đế Thích thăm chơi
 Cuối cùng lại rơi tõm chảo Diêm Vương.).

    Vậy mới biết linh hồn cũng thích ngao du giống như người phàm khoái đi du ngoạn.

Trang Y Hạ





24/10/25

THƠ TÌNH TỪ CÕI CHẾT (Phổ Nhạc)

 


Hoàng hoa linh lạc vô nhân khán

  Độc tự khuynh tâm hướng thái dương”.

(Hoa vàng rơi rụng không ai thấy,

Chỉ thấy tâm quay phía mặt trời).






16/10/25

THƠ TÌNH TỪ CÕI CHẾT

 



THƠ TÌNH TỪ CÕI CHẾT

     “Ngật đắc khổ trung khổ,
      phương vi nhân thượng nhân”.

Chờ bậu miết gối long quy xứ niết
sầu qua trông bóng bậu ngự thiên-đường
trần-gian trốn, kẻ đầu ngô đuôi sở
khoáng-kiếp bồi hai đứa ẵm tai-ương.

Thủa nằm đợi lạnh hồn mai táng để
mới hay rằng bậu tịch ngọa nghĩa-trang
đường cách trở ngóng cảnh trời xa lắc
ân-sủng nào tâm-sự gối đồng sàng.

Gửi tin nhắn, minh minh bậu không rõ
bó chân ngồi tư-lự tự tư-chi
đâu-suất điện chập-chờn dò sóng yếu
gõ mõ kinh ríu mắt ngủ li-bì.

Nhớ bậu quýnh, dồn email nghẽn máy
chị google thông cảm trả lời thay
cô gái đó – bận, tân trang dung ảnh
bởi si tình nhả ngọt khổ thân này.

Khai face-book lang bang sờ mó thử
bậu “trùng-sinh” ảnh đại-diện lờ-mờ
tay quờ-quạng châu thân lần kính lão
dòm kỹ ra, bậu đẹp tựa câu thơ.

Chiều sâm-sẫm cụ A-Nan ghé hỏi
có thích quy trần-thế cận người yêu
đưa tay chỉ, - phía thiên đường, phía nớ
ổng trầm ngâm, (có hiểu rõ đôi điều).

Tầm dãy số, a-lô dò ý bậu
hướng sử nơi Sai-Gòn soạn tương-lai
tái tạo đẹp mảnh dư-đồ trù-phú
bao năm qua, bỏ cỏ dại mọc dày.

Bồi-hồi nhận, nơi chôn-nhau-cắt-rốn
biết bây chừ, lũ trẻ có nhận ra
địa-danh cựu, đền-đài rêu phong phủ
ký-ức lưu thơ-ấu tuổi chưa nhòa.

Trang Y Hạ
Cước Chú:
Ngật đắc khổ trung khổ,
phương vi nhân thượng nhân”.
Tạm dịch:
Chịu cực khổ trong cảnh khổ,
Thì mới là người hơn người).

LỜI GIÓ MƯA:

Trái tim bậu, là của cha mẹ cho
Thời gian ngắn, ân sinh chưa kịp trả
Thân liễu yếu, vốn thuộc về người chồng
Cả cuộc đời, dồn hết cho các con
Chỉ lưu vết, (chân chim) là tài sản! (Trang Y Hạ)



10/10/25

UỐNG RƯỢU VỚI CỤ LÝ CÔNG UẨN

 



UỐNG RƯỢU VỚI CỤ LÝ CÔNG UẨN


        “Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
       Năng ức thiên nhai vạn lý nhân”.
                                 Thơ: (Âu Dương Tu).

Đêm chẻ nhỏ, bỏ tĩn vò lưng-lửng
rộn đầu đau thủa kỵ-mã chiến-binh
buổi tiên tổ, rần rần cơn địa-chấn
vận thái xưa chừ chỉ sót dáng hình.

Sương len lén vin cành lo lá thức
phủ xuống dòng suy ngẫm một vĩ nhân
chân đau quất, cong queo nào dám duỗi
e sợ rằng, xã-tắc sẽ xoay vần.

Hồi chuông dẫn Lăng-Nghiêm-Kinh bừng sáng
lá bồ-đề chở nặng giọt nhẹ tênh
không lộ vẽ hồng trần qua đất hẹp
mộng quân vương ẩn giấu một góc đền.

Hoa-Lư ẩn, thân rồng nằm đợi đợi
vọng Tiêu-Sơn, rêu đọng bóng hoàng-hôn
tri mỗ số hẹn hội mùa khai-trí
đêm lắng nghe lòng sóng vỗ dập-dồn.

Đại-La mộng Thuận-Thiên linh khí hiển
dấu trăm năm cố trụ một cơ-ngơi
Chiêu-Hoàng-Lý, thương chồng nhường ngôi báu
chánh-sử lưu thời sử nhớ nhớ đời.

Kẻ hậu bối, chưa thăng trầm đã định
quăng súng gươm đứng ngẫm nỗi can qua
thân tù tội, sờ chiến-thân đau thắt
buổi lưu-vong ngóng tổ-quốc, ngóng nhà.

Kẻ hậu bối, đà xé thân hãn cách
đáo cuộc đành ngậm bệnh bước đi hoang
nơi biên-tái, chốn trận tiền dũng mãnh
vũ-khí cầm ngửng mặt cúi tan hàng.

Ruộng còn đó, hương đồng lưu tán mỏng
người còn đây, người đã khác người xưa
đất còn đó, đất sang tay kẻ lạ
địa danh in tủy não kể như thừa.

Hơi tửu thấm trắng đen len sợi tóc
ngọn đông phong chuyển hướng én về chưa
lòng rộn-rã hoan-ca hồn non nước
chuỗi xuân-thâm nối tiếp khúc giao mùa.

Chuông Cổ-Pháp thinh không sầu vọng lại
lớp lá sau sân chùa biết có hay
tiếng chổi dội rơi sương chiều không nữa
người xưa ơi, xin thấu hiểu lòng này.

Trang Y Hạ

Cước Chú:
Bài: Xuân Nhật Tây Hồ Ký (Âu Dương Tu).
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu,
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
Dao tri hồ thượng nhất tôn tửu,
Năng ức thiên nhai vạn lý nhân”.
Dịch thơ:
(Gặp bạn hiểu nhau ngàn chén ít
Chuyện trò không hợp nửa câu dư
Mới biết trên hồ cầm chén rượu
Nhớ người vạn dặm buổi tạ từ.).

LỜI GIÓ MƯA:
Theo sách: “Mộng Kê Bút Đàm” của Thẩm-Hoạt đời Tống thì Lý-Công-Uẩn vốn gốc là người Mân (Phúc-Kiến). Tiến sĩ Từ-Bá-Tường, người Quảng-Tây, nhà Tống. Nội dung trong thư gửi cho Công Uẩn cũng nói: “Tiên thế đại vương vốn là người đất Mân. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng có nhiều người đất Mân.” .

Trần Phước Hân (Sưu Tầm).



6/10/25

ĂN TRO BỌ TRẤU

 


ĂN TRO BỌ TRẤU

       “Ai ơi bưng bát cơm đầy,
      Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. (Ca Dao).


     Thành ngữ luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày, đó là một nhóm chữ ngắn, ngắn nhưng lại chứa rất nhiều ý nghĩa triết lý nhân sinh. Do đó, đôi khi không thể hiểu hết cả tất cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng bằng nhận xét hời hợt bình thường. 

     Thành ngữ vốn tự hoàn thiện cấu trúc từ các “ẩn dụ, so sánh, ám dụ…”. Thành ngữ không nhất thiết phải là văn sĩ, thi sĩ hay các bậc thông thái. Người nông dân, người buôn gánh bán bưng và các ngành nghề khác đã tích lũy kinh nghiệm lâu ngày cũng có thể nói ra được những câu thành ngữ thâm thúy. Ví dụ: “Mưa dầm thấm đất, Méo còn tròn mất, Gần mũi xa mồm, Mắt lăng mắt vược, Mặt cú da dơi…”.

Thử tìm hiểu câu thành ngữ: “ĂN TRO BỌ TRẤU”.

ĂN TRO!

     Trước tiên phải đặt vấn đề nghi vấn. Tại làm sao con người bị đói tới nỗi phải “ĂN TRO”? Ăn tro bếp có đỡ đói được hay không? Tro chế biến ra món nào để mà ăn?

     Tro, thông thường là tro bếp đun nấu hằng ngày bằng củi, như: cành cây khô, lá khô, tàu dừa, tàu dừa nước, rơm rạ, trấu, cỏ… Thành phần nguyên tố hóa học trong tro ở dạng hợp chất, gồm có: Kali (K), Lưu huỳnh (S), Nitơ (N), magie (Mg), sắt (Fe), canxi (Ca), phốt pho (P), bo (Bo) và một số nguyên tố khác không kể ra hết được. Ví dụ: “Tro bếp chụm bằng than củi, thì thành phần trong 100g tro chỉ chứa “0,35g phốt pho; 1,35g kali; 1,13g canxi.”. Nhưng nếu chụm bằng - trấu, rơm, rạ, lúa mỳ, lúa mạch thì lại chứa rất nhiều nguyên tố hóa học hơn. Vậy là đủ hiểu - tro từ (vỏ trấu) sẽ cho nhiều nguyên tố hóa học.

Lợi Ích Của Tro Bếp:

     Người nông dân từ lâu đã biết lấy tro bếp (trấu) ngâm với nước rồi lọc ra phun trên hoa màu sẽ diệt được sâu, trứng sâu. Ngoài ra, tro cũng là phân bón cho hoa màu khi được ủ chung với các thành phần thực vật khác.

     Từ thời cổ, người ta đã biết lấy tro bếp để làm xà phòng giặt quần áo, tẩy rửa chất dầu mỡ... Tro bếp chứa kali hydroxit tự nhiên, giúp thay thế các hóa chất tổng hợp như NaOH, làm giảm ô nhiễm môi trường.

     Bên Châu phi (Trung phi), người ta lấy tro bếp để bảo quản cà chua, nhằm giúp cà chua giữ được tươi lâu hơn mà không ảnh hưởng đến chất bổ bên trong. Nồng độ của tro có tính sát vi khuẩn, xóa nấm độc, khử mùi hôi.

     Nước lọc từ tro bếp, dùng để làm bánh. Bánh ú tro, bánh ú lá tro hoặc bánh giò. Bánh ú tro là biến thể của món Zongzi xuất xứ từ Quảng Đông. Món Zongzi xuất hiện ở các lễ hội vào ngày mùng 5 tháng 5 (Tết Đoan Ngọ) của Trung Quốc. Bánh Zongzi có nhân mặn, nhân ngọt. Bánh ú tro của người Việt chỉ có gạo nếp với nước tro bếp lọc lấy nước cốt.

     Trong sách "Phong Thổ Ký" của tác giả Chu Xử. Tết Đoan Ngọ, tức là Tết Đoan Dương. Đoan Ngọ là bắt đầu giữa trưa (Đoan: mở đầu, Ngọ: giữa trưa). Còn Dương là mặt trời. Đoan Dương có nghĩa là khí dương bắt đầu thịnh vượng. Tết đoan ngọ là để tưởng nhớ ông Khuất Nguyên, người nước Sở trầm mình ở sông Mịch La. Ngày lễ nầy lan truyền sang Việt Nam, Nhật, Triều Tiên, Đài Loan.

     Còn nữa, đem củ khoai lang, củ mì vùi tro nóng khi chín ăn rất thơm ngon. Người chết thiêu xác lấy tro “Con người là bụi tro”.

Như vậy, (Con Người Đã Trực Tiếp; Gián Tiếp Ăn Tro Trấu Rồi Đó!).

BỌ:

     Bọ là tiếng gọi người cha một cách thân mật bắt nguồn từ các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, sau đó là Nghệ An, Hà Tĩnh cũng đều gọi người cha là “Bọ”, đồng thời ảnh hưởng một số vùng khác kể cả trong văn chương. Đạo công giáo người đỡ đầu rửa tội, gọi là “Bọ Đỡ Đầu”, tức là Cha Đỡ Đầu. Bọ đỡ đầu chỉ có trách nhiệm về tinh thần (khuyên răn con đỡ đầu siêng năng đi lễ, giữ đạo và sống theo phúc âm). Vật chất thì (không bắt buộc). Tuy nhiên, nếu con đỡ đầu gặp chuyện không may, thì tùy khả năng tài chánh mà thiện nguyện giúp đỡ.

     Bọ là tiếng gọi người cha một cách thân mật cũng như “Bầm” là tiếng gọi Mẹ một cách yêu thương. Bầm là một từ ngữ ở các tỉnh trung du, như: Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Yên...

     Ngoài ra, bọ là một nhóm côn trùng thuộc bộ Hemiptera, chuyên hút nhựa cây hoặc chất dịch ở trong cơ thể con người, thú vật để sống, như: bọ cạp, bọ xít, bọ hung, bọ cánh kiến… Ngoài ra, các họa sĩ vẽ bọ trong tranh để trang trí.

TRẤU:

     Từ lâu người ta đã biết lấy TRẤU ủ giữ cho nước đá lâu tan. Trấu làm phân bón, làm thức ăn gia súc, làm chất đốt, làm vật liệu cách nhiệt, làm tơi xốp đất, tăng cường dinh dưỡng đất, giữ ẩm đất, khử độc, lọc nước... Vỏ trấu hun đốt lấy tro để trồng cây hoặc bón cho cây như một loại phân giầu kali. Vỏ trấu dùng lót chuồng trại luôn sạch sẽ. Vỏ trấu xay nhuyễn trộn với mật mía, các chất phụ gia khác để trâu bò ăn cho mập. Vỏ trấu ép thành những thanh củi để nấu nướng.

      Vỏ trấu nghiền mịn trộn với hột xốp, xơ dừa, xi măng, phụ gia, lưới sợi thuỷ tinh để ép làm gạch. Trọng lượng của loại gạch tổng hợp này - nhẹ, cách âm, cách nhiệt, không thấm nước, thích hợp với các vùng đồng bằng sông ruộng.

      Trấu nghiền thành bột mịn, thêm cám gạo dùng làm thuốc giảm cân. Ngoài ra còn chiết xuất từ trấu chất Axit ferulic, PABA, vitamin B-10 thành kem chống nắng, bảo vệ da. Nhìn chung thì vỏ trấu còn có nhiều công dụng y học khác.

     Như vậy, muốn có tro thì phải có trấu. Trấu chính là “BỌ” thân yêu. Nghĩa đen là vậy, còn nghĩa bóng BỌ chính là người Cha - một nắng hai sương quanh năm cày cuốc để làm ra hột lúa. Có hột lúa tất nhiên mới có - trấu, có cám, có gạo, có cơm ăn.

     Thành ngữ tuy ít chữ nhưng lại ẩn chứa cả một kho tàng triết lý cao siêu do đó không thể lấy sự suy nghĩ bình thường mà lãnh hội hết được. Người xưa, nói; “Ẩm thủy tư nguyên”, (Uống nước nhớ nguồn) cũng là lý do đó.

Trang Y Hạ - San Francisco, 2012