![]() |
HÀNG CÂY GIÀ
“Đài
các hữu nhân nho tịch noãn,
Biên thùy vô sự
liễu doanh nhàn”. (Nguyễn Trãi).
Hàng cây, đứng bên đàng
chào nhau, chào buổi sáng
dốc phố quen, rủ rê về
chạng vạng
hỏi vì sao, quá khứ mãi
tươi xanh.
Sương vẽ màu, vẽ rong
rêu rực rỡ nắng hanh
cành cây ướt
con chim già, ho húng hắng
văng vẳng nghe
tiếng gót giày thầm lặng
gót của nàng, hay là gót
chân ai.
Gió, mở lòng thổi hơi
gió tê tay
mùi áo trận thoang thoảng
hương trinh nữ
ôm dây rốn, biết chốn
đời lữ thứ
mẹ cưu mang chưa cho chọn
phương nào.
Hàng cây đứng bên đàng
sức lực có
tiêu hao
không thể nắm, tay nàng
quay trở về đoạn cuối
để cùng ngồi,
gom dương
liễu vào thơ
bên kia bờ đại dương
lầm lũi ngày mơ
trang lưu bút, nhen lên
từng nét ấm.
Từ khi biết tên người
đã biết yêu, từ non cao
núi thẳm
bông ái tình, mỗi ngày
mỗi hoa râm
đã để mất, câu thề
dưới trăng rằm
con chim mộng tha phương,
mong hội ngộ
rừng luyến rừng, kỷ
niệm luyến nơi đâu.
Mưa mùa trước phủ mờ,
mất hút bóng hải âu
áo Hoàng Sa, đẹp dung
nhan vàng hoa cúc
tuyết mấy mùa, có ghé
hỏi thăm
khúc ngũ liên sóng vỗ bờ
thôi thúc
từng đoàn quân, hăng hái
bước xuống thuyền.
Đôi tay từng cầm lái
giữ bình yên
con quốc kêu, mặc kệ
đêm sương mọng
chân lặc lè, trái tim
đương nóng
chiến trường xưa, còn
giữ lửa chưa tan.
Hàng cây đứng bên đàng
trông theo bờ dĩ vãng
yêu quê hương, chưa khi
nào hữu hạn
thương hàng cây bên đàng
dáng cao hơn.
ĐẤT NGHẸN
“Cử đầu vọng
minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”,
(Lý
Bạch).
Không phải tới giờ mới
thấy thương quê
đã biết yêu quê từ
thuở vừa sang sáu
tuổi thơ ngây, tập-tễnh
tập mặc quần dài
thử đón tết, thử ngửi
mùi nhang ăn bánh ú.
Mỗi ngày đoán giờ, qua
bóng cây cau cây đu đủ
sáng
gầy lờ, chiều tối cha ở ruộng về đan
[1]
đan cho đặng sớm mai mẹ
đem ra chợ
mới sáu tuổi đầu, biết
chia khổ với mẹ cha.
Dựa gối gầy lờ, bụng
ỏng trông đám ruộng xa
bóng mẹ tỏ mờ, giống
bà tiên hiều hậu
bánh đúc xẻ hình thang,
chấm mắm cái mẹ mua
ăn ngấu-nghiến, còn hơn
nem công chả phụng.
Đói phân, cây sắn gắng
gượng cao ngang bụng
con bò, con trâu không dám
gặm trụi cỏ đồng
mùa lúa chín, rơm rạ
theo người về nhà sum-họp
thằng bù nhìn buồn xo,
xuôi tay ngó bầy chim.
Tháng chạp, đám mía khoe
cờ lau đứng lặng im
vắt vẻo lưng còng chuyển
về lò ép lấy nước
đường bát đối mặt,
quấn rơm khô nằm thúng
gánh đi bỏ mối lấy
tiền sắm tết, đón giao thừa.
Sông Rù-Rì, mùa cạn
ngong ngóng cơn mưa [2]
tự biết bơi, lặn lần
theo từng con cá bé
trong veo nước, hột
phù-sa trôi về phương nào
bóng mây trắng lộn nhào theo cát trắng.
Mẹ mỗi ngày ngồi dệt,
mẹ thèm hơi nắng
khung cửi ôm chân hòa
nhịp tiếng thoi đưa
mẹ dệt thuê lấy gạo,
khắp cả nhà người
vải đẹp cho đời, tấm
áo mẹ vá tả tơi.
Cha vật lộn mảnh đất
nhỏ “hương-hỏa”, xói đời
đất nghẹn không thể
nào cho chi thêm nữa
cơm nồi đất, tụ hội
bạn bè vui sắn khoai
khoai sắn, cũng cân đo
đong đếm chi li.
Ngồi đánh vần mơ ước
mệt mỏi ngủ li bì
trong mộng-mị, bảng ghi
danh đỗ trạng-nguyên
thức giấc, mẹ cầm tay
đồ theo từng nét chữ
chữ nho, cha dạy rúi nùi
như đan như lát.
Cha mẹ, lìa quê lên miền
cao-nguyên lưu lạc [3]
bỏ gầy lờ, gầy tương
lai da đỏ sậm ba-dan
đất lạ đãi người
mới, ruộng vườn xanh mướt
chuông nhà thờ dội tan
sương báo tin mừng.
Ánh sáng chính là thuốc
khử trùng trên từng
bông mai vàng nở lại, rõ
“phúc họa tương tinh”
cuộc đời có vết nứt,
ánh sáng mới lọt qua
móng nhà đổ nát phải
chăng chỉ vì con kiến.
Mưa nắng hai mùa, cha mẹ
dành vốn liếng
gió núi khói sương lạnh
cóng, chẳng nề hà
đôi chân, chân cứng đá
mềm chưa than-thở
hy-vọng hai thân dồn hết
về những đứa con.
Bầy em sinh sau, chịu cảnh
tản-cư mỏi mòn
trở lại thăm lại, nơi
sinh ra cùng hơi núi
cao-nguyên giữ nguyên
trạng, cho người về nhớ
mùi nắng, mùi mưa, mùi
hy-vọng, mùi chia ly.
Cuộc đời ai cũng có
nhiều tiếc nuối
thôi đành ôm nuối tiếc
bước theo thủy-triều.
Chạy được hòa thượng,
không chạy khỏi miếu
đám thảo-khấu ùa về
cướp hết cả công-lao
đất nghẹn nhìn người
bỏ quê, đi lánh nạn
cha mẹ ly-hương lây qua
đời con tha-phương.
Ngụ ở bên này bờ
đại-dương,
sóng vỗ lòng đau, tơ
tưởng đoạn đường làng
mẹ dẫn đi chúc tết bà
con trong xóm
cha dẫn đi chạp mả,
trời đông gió bấc mưa phùn
dạy con, lòng ngay không
sợ bóng nghiêng.
công lao cha mẹ, nối tiếp
các bậc tiên-hiền
ngậm ngùi lìa quê, còng
lưng khai-cơ lập-nghiệp
để lại cho con, - xin lỗi
chúng con đành để mất
đất nghẹn, tới khi nào
hết nghẹn cho đây.
CHỮ PHƯỜNG TRONG ĐỜI
SỐNG
Tác
giả: Trang Y Hạ
Trong cuộc sống
hằng ngày, từ (cổ tới kim) - hễ nói địa danh thì địa
danh gần gũi nhất đó là “phường”. Phường ở đây,
nói về hành chánh là một đơn vị thấp nhất ở trong
xã hội không chỉ ở Việt Nam mà ở cả bên Tàu. Phường
đã có lịch sử, lịch sử văn thơ từ rất lâu đời.
Ngoài phường thì còn có: Thôn, Ấp.
Vậy tóm tắc chữ Phường như sau:
Chữ “Phường” nguyên gốc là Hán Việt & Hán Nôm, thuộc Hán Cổ, Việt Cổ, có nhiều nghĩa cả chữ viết cũng có số nét khác, (Hán Nôm có tới Ba Chữ Phường có nét khác nhau). Trong bài nầy, chỉ đề cập tới hai bộ chữ Hán có dính líu tới chữ Phường, đó là: “Bộ Thổ & Bộ Ngư”.
Bộ Thổ: Phường, một âm khác là (Phòng).
Phường chỉ về đơn vị hành chánh. Theo tài liệu xa xưa, thì phường chỉ áp dụng trong kinh đô, trong thành quách, trong châu huyện. Bên ngoài thì gọi là thôn, ấp... Ví dụ như: Kinh thành Thăng Long cũ gồm có ba mươi sáu [36] phường. “Khán khán ai bộ thậm khẩn, các xứ thôn phường giảng động liễu”. Tạm hiểu (Tình hình bắt bớ gấp gáp, xóm phường đều bàn tán xôn xao). Trích: Thủy Hử.
Phường là một tổ chức, thời “phong kiến” gồm những người có đầu óc kinh doanh buôn bán hay cùng một nghề nghiệp thủ công nhưng không thể tự đứng ra hành nghề đơn độc. Do đó họ phải liên kết lại gọi là Phường dựa nhau làm ăn mà không sợ kẻ khác ức hiếp. Ví dụ: (Phường chèo, Phường hát, Phường vải, Phường nón, Phường thợ săn…).
Ông bà ngày xưa có câu: “Buôn có bạn, bán có phường”. Tục ngữ đã nhắc nhở khi làm ăn, buôn bán - phải biết hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển, nếu mạnh ai nấy làm vì cái lợi nhỏ – sớm muộn sẽ nhận lấy hậu quả thua lỗ. Trong lãnh vực buôn bán vẫn có nghệ thuật có cộng hưởng, nhân ái chứ không thể đứng một mình mà thành đạt. “Buôn có bạn, bán có phường, Làm ăn có xóm, có làng mới vui”. (Ca Dao).
Phường là: Cao ốc, biệt thự, dinh thự, đình miếu xây dựng để ghi ơn công lao của các bậc hiền tài ở làng mạc. Đó là “Trung Hiếu Phường” và “Tiết Nghĩa Phường”.
Phường là: Trường, sở, nhà dành riêng cho các chương trình hoạt động nào đó, gọi là: “Tác Phường”, có thể xem đó như một xưởng chế tạo, chế tác...
Phường, một âm khác là “phòng”, như đê điều phòng lũ lụt. Trong “Chiến Quốc Sách” (Tần Sách), có câu: “Trường thành cự phường, túc dĩ vi tái”. Tạm hiểu: (Trường thành và đê lũy lớn, đủ làm quan tái), hoặc: “Dĩ phòng chỉ thủy, dĩ câu đảng thủy”. (Lấy đê ngăn nước, lấy ngòi dẫn nước). Mục đích chung là phòng vệ, cố thủ phòng vệ biên giới, phòng trộm cướp, phòng hoạn nạn. “Thiện phòng giả thủy dâm chi”. (Giỏi đắp đê ngăn nước ngập lụt). Đỗ Phủ, có câu: “Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà, Tiện chí tứ thập tây doanh điền”. (Có kẻ năm mười lăm tuổi đi ra bắc phòng giữ đê sông Hoàng Hà, Đến năm bốn mươi tuổi đi khẩn ruộng ở phía tây). Chữ Lũy có một âm là: “Quấn quýt”.
Phường, chỉ về một nhóm người có hành vi lưu manh, bất hảo, du thủ du thực chuyên đi quấy rối trật tự trị an thậm chí ăn cắp, ăn cướp hiếp đáp người dân lành rất đáng khinh bỉ và nguyền rủa, như: “Phường thảo khấu, Phường đá cá lăn dưa…”. Trong truyện Kiều có câu: “Con này chẳng phải thiện nhân. Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng. ”. Hoặc: “Tình cờ chẳng hẹn mà nên, mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”, và hoặc: “Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Chữ phường nầy cũng đồng nghĩa với “Lũ, Bọn, Tuồng, Hội”.
Tuy nhiên, không hẳn chữ “phường” hoàn toàn xấu mà còn có ý hay - dùng để nói lên tính cách phô diễn, so sánh. Chẳng hạn như câu Kiều: “Nàng rằng: Trộm liếc dung quang, Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.”.
Phường là cửa tiệm, như: Trà Phường, (Tiệm Trà). Phường Tứ” (Hiệu Buôn).
Phường: (Động Từ): Trở Ngại, Ngăn trở, Nguy hiểm. Còn có âm khác là “Phướng”.
Bộ Ngư:
Chữ Phường trong Bộ Ngư “Phồn Thể”, là: Con cá. Trong chữ “Giản Thể” là: Con cá mè, Con cá Phường. Từ đó mới có câu: “Thế hào ngư nhục hương lý”. Tạm hiểu: (Kẻ cường hào thường hay hà hiếp dân lành).
Như đã nói, – phường là đơn vị hành chánh cuối cùng trong hệ thống hành chánh, (dù mang tên hay mang số) dù không ảnh hưởng nhiều hay sâu đậm về mặt lịch sử, địa dư. Biết vậy nhưng vẫn có các tên phường đã có từ hàng thế kỷ, trải qua nhiều biến thiên thay ngôi đổi chủ tên tuổi vẫn còn giữ; (còn giữ trong lòng người). Ví dụ: Phường Bến Nghé, Phường Da-Kao… (Số tên phường đó đã có từ thời Triều Nguyễn).
Từ cổ tới kim mỗi khi có một triều đại mới nổi lên là có thay đổi địa danh, địa dư (chia ra, hợp lại). Chia ra, nhập lại vì lý do lưu thông, kinh tế, quân sự mà vẫn giữ tên gốc thì không cần phải bàn. Xóa bỏ địa danh lịch sử vì lý do “Chính Trị”, nhằm mục địch “Trả Thù” triều đại cũ, chế độ cũ không cùng chí hướng, không cùng chủ thuyết “ngoại lai” thì thật là tệ lậu và đáng tiếc.
Xóa bỏ địa danh hành chánh lâu đời không hẳn là chỉ mất địa danh mà còn mất đi “giọng nói” – dù giọng nói còn đang nói và sẽ còn nói... - nhưng các thế hệ mai sau không biết giọng nói của mình ở vùng nào (trên giấy tờ). Ví dụ: Mất Tỉnh Quảng Nam, Mất Tỉnh Quảng Bình, Mất Tỉnh Thừa Thiên, Mất Tỉnh Phú Yên, mất Tỉnh Kon Tum… Đó là chưa kể tới Ca dao, Tục Ngữ, Văn, Thơ, Vè, Phú cũng như thổ sản ở mỗi nơi.
Thời đại Computer, người ta quản lý nhân sự, quân sự, kinh tế, khoa học kỹ nghệ, giáo dục, y tế...- bằng kỹ thuật số rất nhanh gọn chính xác không cần xử dụng một số lượng lớn công chức hành chánh quá đông, ban bệ công sở vật chất tốn kém nặng nề từ trung ương cho tới địa phương làm hao tốn ngân sách. Vậy nói, xóa bớt Tỉnh, xóa bớt Huyện, xóa bớt xã, phường - nhằm giảm nhẹ bộ máy hành chánh là không thuyết phục.
Ở Việt Nam lâu nay luôn tồn tại hai guồng máy “đảng và nhà nước”, song song với hàng với chục triệu công chức ăn lương. Mỗi guồng máy đều có ban bệ văn phòng dinh thự rất cồng kềnh và tốn kém.
HÃY XÓA BỚT CÔNG CHỨC, ĐỪNG XÓA BỎ ĐỊA DANH LỊCH SỬ ĐÃ TỒN TẠI TỪ LÂU ĐỜI.
Phường hay thôn, ấp là nơi chứng nhận “Hộ-Tịch” trên tờ giấy khai sanh khi chào đời, giấy khai tử khi lìa cõi đời. (Cả hai loại giấy đó không tự bản thân làm được). Phường, thôn, ấp là địa chỉ cuối cùng để “Đi và Về”. Chính nơi đó hiện hữu tổ tiên ông bà cha mẹ anh chị em cô bác dì chú, mồ mả, bạn hữu - tình làng nghĩa xóm - cũng như kỷ niệm học trò và tình yêu trai gái hẹn hò khi bước vào tuổi mộng mơ.
LỜI GIÓ MƯA:
Đọc Báo Đảng:
Sau ngày đổi tiền ở miền Nam,
Tờ - Sài Gòn Giải Phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã viết như sau:
“Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ. Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi… Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”.
Thế nhưng đồng tiền VN hiện giờ so với tiền CamPot và Lào thì thấp hơn.
Trang Y Hạ
(Sưu Tầm).
UỐNG RƯỢU VỚI CỤ
HỒ-NGUYÊN-TRỪNG
Sóng
cuộn Kỳ-La, đau hồn nước
Mây vờn Cao-Vọng, xót cảnh nhà. [1]
Đêm
chờ sáng quá-khứ sờ loạn nhịp
đầu
chưa nguôi, dĩ-vãng nhắc Đại-Ngu
giọt
sương nện ngụm ngụm trà lạc nhách
gió
trời nam gió xoáy thổi vù vù.
Giờ
thất trận nuốt giọt mưa cửa ải
ngước
mặt lên đỉnh núi rớt màu tang
bầy
em gái, tuổi cập kê cúi mặt
nụ
hôn chưa duyên phận hối lỡ-làng.
Bóng
mẹ đứng, xế tà ôm con nhỏ
dáng
cha ngồi, quân giặc trói hai tay
đám
ưng khuyển, tha hồ vơ-vét của
hàng
binh đi, đi vào kiếp lưu-đày.
Kiến
địa hiểm, hiểm nguy đành cố bước
ải
khói mờ, ngoảnh mặt tạ quê hương
trời
sẫm tối đường lưu-vong dịu vợi
thân
thân trai ngả ngã ngựa chiến-trường.
Đất
địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc
thấm
lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô
nhập
thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ
hậu
nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ.
Đêm
chờ sáng, du hồn lần cố-quận
cô
nguyệt huyền, lọn sóng giục Lương-Giang [2]
quan
gá-nghĩa, không khỏa đi nỗi nhục
công
hầu dâng, chẳng lấp phận quy hàng.
Thiên-Nam-Mộng
mơ màng cô Thái Diễm [3]
đất
Hung-Nô, nữ sĩ gặp vận may
đất
Hung-Nô, Tô-Vũ nhờ cánh nhạn
rơi
cung thương, gánh một gánh lưu-đày.
Ngụ
đất giặc, chẻ đầu chế ra súng [4]
quân
thù vui, tự giết giết lẫn nhau
cơm
từng hột, nhai như nhai sỏi đá
nước
nuốt vô trong bụng nước đục ngầu.
Đa-Bang
trận, quân Minh sợ tái mặt [5]
lực
bất tòng, văng vẳng thần Kim-Quy
thiên-thời
tận thiên-tài đành bó gối
chiến-trường
tan vung vãi xác quân-kỳ.
Kẻ
hậu bối, bước trùng vùng thất trận
theo
tiền-nhân, vẽ bức họa lưu-vong
vẽ
tội đồ, tội đồ làm mất nước
xin
lỗi quê một cổ gánh đôi tròng.
Túc-Tâm-Đạo,
ôm vòng xoay khắc-nghiệt [6]
gươm
giáo tan, ôn cố thuở lương-thời
buổi
ly-loạn trút tang thương thiếu-phụ
hóa
lưu-ly, ngàn giọt giọt lệ rơi.
Nơi
đất giặc, tri-kỷ đâu thù-tạc
hũ
rượu hâm, bỉnh-bút giữ hồn thơ
loài
cỏ dại, được mùa mau tươi tốt
vòng
tuần quay, hạn hán đón bơ-phờ.
Nơi
đất khách, giả đui tìm sinh-lộ [7]
biết:
“đạo bất đồng, bất tương vi mưu”
rượu
cạn đáy rót chén tràn tâm-tưởng
người
xưa sau chung cuộc một cựu thù.
Chén
rượu ấm tiêu sầu, sầu sầu miết
mảnh
trăng soi soi bến vắng Kỳ-La
chiếc
lá rơi rơi núi khuya Cao-Vọng
hơi
men tan, bóng mờ bóng trăng tà.
"Đất địch nghĩ Phi-Khanh trăn-trở giấc
thấm lời cha, Nguyễn-Trãi viết Bình-Ngô
nhập thế sự, tự - thân-bất-do-kỷ
hậu nhân ơi, xin giữ vững cơ-đồ."
Trang Y Hạ
"Em có bao giờ thầm nghĩ,
chiến tranh qua để lại vết thương đau".
ĐẠI-LỘ CHI-LĂNG
“Từ
ngày ăn phải miếng trầu,
Miệng
ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.”. (Ca dao).
Về qua đại-lộ Chi-Lăng
[1]
hồn Bà-Chiểu gọi,
dùng-dằng ngó quanh
bước lên xe kiếng
dạ-hành [2]
ngựa vui ôn-cố, bóng
thành hỏi han.
Đường cây giục gió
nắng vàng
nhớ người khai cuộc,
thuở tang tang điền
ẩn-thần đất tụ
cơ-duyên [3]
dấu chân khai thổ tưởng
tiền-hiền xưa.
Bến sông sóng dựa thân
dừa
lạch sình khởi-lập hai
mùa sậm da
trên cơm dưới cá, hiền
hòa
công-lao khởi tạo kể là
công-lao.
Tuổi tên giờ đã đi vào
lãng quên tựa ngọn
ba-đào thiếu hơi
sử bia một góc lưu lời
phập-phòm nghe tiếng lá
rơi chẳng hề.
Lộ-trình nhầu-nhĩ tỉ-tê
tiếng rao đêm vọng gom
về cõi xa
sinh-cơ-tử-tán, quả là
mở mồ ngóc ngó san-hà
lạnh tanh.
Phất-trần ai phất
dỗ-dành
di-cư chia sớt trăng thanh
với đồng
đước, bần, vẹt, sú...
mênh mông
rễ sanh cắm rễ tâm lòng
bấy nay.
Đất trời thay đổi mặt
mày
nhân-sinh-kỷ-kiến, men
cay ấm đời
trở mình trở-giấc sầu
vơi
ba-trăm-năm, vẳng mấy
lời: tử, sinh.
Nhân-gian hát-tửu xập-xình
bát khai vân vụ, hiển-linh
tỏ mờ
thiết-tha đồng vọng
thiên-cơ
tầm-vu sóng vỗ, vỗ bờ
thiện chân.
Tiền nhân bảo-chứng
ân-cần
huyền-quang, huyền-học,
bao lần đề thi
tự bày tai họa ích gì
sát-na phong tận từ-bi
cũng thừa.
Về qua đại-lộ thôi mưa
Chi-Lăng cửa ải sương
vừa tan sương
khí thiêng quyện giữ nẻo
đường
giương cung thầm giở một
chương sử rằng.
Bước trên đại-lộ
Chi-Lăng
hồn non nước, ngự
thuyền trăng luận bàn [4]
nóng từ phương Bắc nóng
ran
bắc-môn- tỏa-thược,
chưa tan cuộc cờ. [5]
Băng tâm nhất phiến
tiêu-sơ
pháo xe ngựa tốt, đang
chờ nước đi
tiếng đàn chim việt
thầm-thì
truy-nguyên mở cõi khắc
ghi sử nguồn.
![]() |
NGHE LỜI BẬU
Nửa
thế kỷ, bởi vì nhau mà kiếm
Từ
trong tâm, bòn mót được bao nhiêu.
(30.4.1975
– 30.4-2025)
Rừng
hoa đót, ẩn trong đầu nở miết
tầm
chim quyên cánh mỏng lạc phương nào
cành
đợi gió nội tâm ran-rát bỏng
chân
trời khoe mây trắng đuổi xôn-xao.
Mở
điện-thoại, tìm vì sao bắc đẩu
vọng
cõi nam, nhạn mệt lộn tầng không
hướng
đông ngóng, bình-minh an giấc điệp
quy
trời tây, vệt nắng dát tủi lòng.
Nghe
lời bậu, thôi đừng về Dak-Pek
nắng
mưa chừ không nhận diện nữa là
người
lạ hoắc xua lớp người cố cựu
đường
thay tên, nẻo cũ bới đâu ra.
Dak-Seang
lượm, dấu tích lưu trong gió [1]
cánh
dù bay tiếp-viện đẹp núi đồi
bầy
trẻ nhỏ chia nhau bịch gạo sấy
người
lính ngồi, phành thư đọc cho vơi.
Đêm
Dak-Sút hứa bừa em gái thượng
sẽ
trở về theo vô núi hái măng
áo
jacket cởi ra choàng vai nhỏ
đôi
mắt nai ngân-ngấn, mặt vùng-vằng.
Ngồi
xe mở ba lô tìm cơm nguội
xôi
nếp than đã giấu tự lúc nào
quay
mặt lại nghe con tim thổn-thức
tấm
chân tình cô gái nhỏ miền cao.
Cơn
gió nóng pha lạnh tràn ký-ức
Tou-Mơ-Rông
mây vẽ khói sương mờ
dòng
sông đẹp, Pơ-Ko phơi cát đá
chú
bướm vàng, suối cạn mắt lơ-ngơ.
Tou-rông
mất, trong lòng đau quá thể
đầu
nguồn sông Dak-Bla nước ngừng trôi
rừng
trùng điệp không thể nào cố thủ
núi
nhấp nhô, hẹn tái chiếm đỉnh đồi.
Gió
Măng-Buk, Măng-đen từ thủa nọ
thổi
lính lên, lủng-lẳng đỉnh mò trăng
phi-đạo
vắng, ngóng thư từ hậu-cứ
thèm
cá tươi, cả tháng mới họa hoằn.
Lô-cốt
gác, nghe thú nằm than-thở
pháo
ho khan, chuột trốn đám cỏ hôi
chiếc
nón sắt, ôm lá khuya tri-kỷ
rủ
hai mùa, mưa nắng tẩm da ngồi.
Dak-To
ghé, hồn bạn vây thăm hỏi
áo
nhà binh mùi phảng-phất đâu đây
khều
mặt đất giấu giày sô lưu dấu
rượu
uống khan, phơi tâm sự: tao, mầy.
Thằng
bạn gặp, gậy lò-dò nhăn nhúm
bưng
ly bia, sóng rung đổ đầy bàn
ôn
chuyện lính, câu sau quên câu trước
vỗ
vai nhau khơi kỷ-niệm miên-man.
Nghe
lời bậu, thôi đừng về Tân-Cảnh
Lại-Văn-Chu
giọng đọc lẫn trong mây [2]
Hí-Viện
hát, ngưng cười nhìn Thánh-Giá [3]
tháp
Trung-Đoàn tan-nát biệt dấu giày. [4]
Tân-Cảnh
chợ, chênh-vênh lưng chừng dốc
xe
lam thồ xuống rau trái bên đường
người
mua sắm, nhận ra toàn vợ lính
buổi
đông vui, ngày đầu mới lãnh lương.
Thương
vợ lính, khu-gia-binh mất điện
sợi
hỏa châu, le-lói ngỡ chồng về
bầy
pháo địch, hòa pháo mừng nguyên-đán
Mậu-Thân
loang, máu lửa nhuộm sơn khê.
Sư-đoàn
lính hoa-kỳ về trấn giữ
đoàn
công-voa dằng-dặc ghé Phượng-Hoàng
đêm
mất ngủ bầy phi-cơ gầm rú
rác
mỹ đầy khoe dưới nắng chang chang.
Người
dân xúm chạy đi moi rác mỹ
lắm
người thầu ôm rác để làm giàu
mở
“dịch-vụ” bu bám theo căn-cứ
chiến
tranh dài, mới tỏ rõ vàng thau.
Mùa
đỏ lửa, Phượng-Hoàng bay tản-mác [5]
áng
mây chiều ảm-đạm phủ chia-ly
làng
Tri-Lễ, bụi tung trùm Dak-Mot
Ngọc-Rinh-Rua,
hỏa-lực hết gầm-ghì.
Bậu
hẹn chỗ cầu treo đeo sương nặng
nụ
hôn lưu tình sử có nào vơi
em
gái nhỏ Bồng-Sơn bay lên núi
ân
tình trao, ngồi chưa ấm chỗ ngồi.
Pháo
bầy thét, Bạch-Hổ gầm Ben-Hét [6]
trấn
ngã ba biên giới Việt-Miên-Lào
tin vui nhận, rằng cuối năm đám cưới
cô
dâu chờ, đôi mắt trõm chao-vao.
Dak-Rao
vọng nhịp chày rơi sương muối
sơn
nữ ngồi vuốt từng khúc măng le
váy
hoa hở ngực đầy hơi bếp ấm
đành
bỏ làng vì quân giặc hằm hè.
Nghe
lời bậu, thôi đừng về đó nữa
dòng
Dak-Psi, xếp cất tuổi thơ ngây
Diên-Bình
xã dinh-điền tìm đất mới
ở
nơi đâu, dấu bom đạn đủ đầy.
Diên-Bình
xã, chưa quên cô gái nhỏ
mới
biết yêu, hôn nháp nụ hôn đầu
cây
cầu sắt rung-rinh theo nhịp thở
vì
sao vui, quên bẵng cả đêm thâu.
Giặc
đánh rát, Kon-Hơ-Ring no lửa
ngút
khung trời vỏ đạn cháy ra than
bệnh-viện
đón người bị thương chật chỗ
đang
yên vui thoáng chốc hóa cơ-hàn.
Ngô-Trang
ruộng, đón lính về phòng thủ
bữa
cơm thơm hơi thở đãi người xa
cá
đồng nhỏ, kho tiêu nhìn rau dớn
có
khóc đâu, đôi mắt lại muốn nhòa.
Anh
lính trẻ ngồi ôm đờn dạo khúc
mắt
ngây thơ, dõi từng nốt giáng thăng
bàn
tay ngọc, mím môi mời ly nước
đôi
mắt to chứa đựng một cung hằng.
Tri-Đạo
ngắm, cô em khều vú sữa
trái
oằn cây mời ăn, mủ dính môi
tháng ba lửa nung Charlie sùng sục
mê
gái xinh, lẩn quẩn lựa chỗ ngồi.
Cầu
Tri-Đạo, lữ-đoàn dù pháo ngự
cây
mùa xuân, dân chia ngọt xẻ bùi
dân
chạy giặc từ DakTo tràn xuống
điểm
cuối cùng trấn giữ phải rút lui.
Chuông
Võ-Định, gọi người năng đi lễ
áo
trắng bay chưa vấy đất đỏ chân
hồn
xác thức, vội vàng làm dấu thánh
mơ
ước theo mơ ước biết bao lần.
Tin
chiến-sự, dập-dồn đơn-vị chuyển
nồi
khoai lang, bậu nấu chẳng kịp đem
vành
trăng nhú dặm đường thêm nặng bước
âm
thầm đi, đụng cành lá ướt mèm.
Vô
Trung-Nghĩa, đôi giày chưa kịp tháo
rẫy
xanh tươi, căng mắt chẳng thấy tiên
phi-tuần
dội, rung giường em gái ngủ
di-tản
vào thị-trấn gói ưu-phiền.
Về
Trung-Tín, vội-vã đào công-sự
xe
nhà binh hối hả chở bụi bay
điếu
thuốc gắn, trệ môi chưa kịp hút
bê-năm-hai,[B-52]
bom trút tối mặt mày.
Nằm
tử thủ, KonTum ròng rã ruột
phố
vắng teo, gom từng sợi tóc mai
bậu
di-tản, trôi phương nào vậy hử
túi
ny-lon, ướp xác lính sương dày.
Xe
tăng giặc, nửa đêm xâm nội thị
thành
Dak-Pha trực-xạ, xích đứt đôi
con,
“sinh-bắc-tử-nam” lòng mẹ (quặn)
khói
thuốc cay (thắt)
ruột dáng cha ngồi.
Sân-Vận-Động,
dân dồn chờ di-tản
ôm
con thơ, người vợ mặt thất thần
chồng
ở lại ôm chiến-hào tử-thủ
biết
có còn gặp lại nối nghĩa-ân.
Vùng
chiến-địa tử thương, ai vuốt mặt
giọt
lệ nào đưa tiễn, phút xuôi tay
anh
lính sữa chưa một lần dám nắm
tay
người yêu chừ xác lạnh nơi này.
Đêm
tử thủ, nghe nhịp chân thiếu-nữ
bước
nhẹ-nhàng tựa chiếc lá thu rơi
giọng
khẩn-thiết từ xa xa vọng lại
giữ
KonTum, đã hứa nhớ giữ lời.
Trường
Hoàng-Đạo, Teresa duyên-dáng
Lê-Hữu-Từ
thăm hỏi Kim-La-San [7]
hoa
phượng nhớ áo dài Phan-Thanh-Giản [8]
người
ra đi gói hình bóng mơ-màng.
Hàng-Keo
rót, rót ly bia tràn phố
Lê-Thánh-Tôn,
Trịnh-Minh-Thế, Thanh-Bình [9]
Minh-Quang
tiệm, mua tặng nàng cuốn sách
làm
món quà sinh-nhật, đứng lặng thinh.
Lá
keo lượn, vô ly sâm-bổ-lượng
các
cô nhìn, quên cặp sách rơi chân
sữa
chua hũ, thấm qua tà áo trắng
hương
trinh nguyên, sỏi đá cũng bần-thần.
Dãy
kiosques, Chợ-Lồng cô mắt biếc
RubiQeen,
Cotab, với Bastos...
lương
nửa tháng, sạch trơn xin ký sổ
nịnh
vài câu, “thế-chấp” dị thấy mồ.
Ngang
“for-get” ngắm cô nàng “me-not” [10]
quanh
một vòng sạp chợ, nàng dẫn đi
năm
mười phút, gấp gáp về lại quán
chỉ
quen thôi, nào biết có duyên gì.
Câu-Lạc-Bộ-Thanh-Niên,
ngồi hóng gió
Dak-Bla
dòng nhiễm bệnh đục hơn trong
Phương-Nghĩa-Bốn,
giếng khô, rau: cay, đắng
Phương-Quý,
Phương-Hòa, lúa bắp (nẩy) trong
lòng.
Phương-Nghĩa-Bốn,
phi-trường rền pháo địch
đêm
chuyển dân, chạy giặc hỏa châu soi
cô
mắt ướt, ngoái nhìn anh lính trẻ
sẽ
gặp nhau, xin đừng có u-hoài.
Nghe
lời bậu, đừng có về thăm thú
Bê-Mười-Lăm,
lớp lớp cỏ trông mây [11]
cô
bán bánh trước đồn lên bà nội
lính
tù-đày, đắp đổi sống qua ngày.
Tân-Phú
rẫy, cho trái cây tươi tốt
trại
tạm cư, đặt tên Ma-Ri-Lou
mái
tôn sáng, cuộc đời chưa thấy sáng
bữa
thăm nhau, hai đứa tắm sương mù.
Tân-Phú
thủa, lâu rồi rẫy tìm rẫy
đất
mỡ gà, nào có thấy gà đâu
chòi
xiêu-vẹo, đôi tâm tình mê mải
cây
chuối con nhớ mẹ, lá úa nhàu.
Mờ
mờ sáng tháng tư sương bao phủ
bỏ Dak-Bla, thầm xin lỗi Làng-Hồ
kể
từ đó chân trượt dài vô tận
chứa
trong lòng từng đợt sóng nhấp-nhô.
Nửa
thế-kỷ cảnh cũ còn đâu nữa
Đồi-Sao-Mai,
vách đá nhọn đâm mây [12]
nhớ
chân núi dựng căn lều ở tạm
nằm
gác tay, mong sẽ được sum-vầy.
Nửa
thế-kỷ chôn rồi mà chưa chết
yêu
tự-do, yêu tân-nhạc, thị-trường [13]
chuyện
thua thắng, đem so bì sao đặng
bởi
hiềm vì “hữu xạ tự nhiên hương”.
KonTum
đất, ắt lưu danh quân-sử
cảm
người trai, tứ xứ đãi máu xương
rừng
huyền-bí đã mấy mùa thay lá
bao
công-lao, lấy chi để đo lường.
Vòng
sử-lịch xoay ngang, không than vãn
chỉ
mong rằng màu lá mới tươi xanh
xót
chim-việt-cành-nam, tan-tác xứ
thương
non sông, dò-dẫm bước dạ-hành.
Hoa
dại hãy vì nhân-sinh mà nở
đẹp
con đường mơ ước tới tương-lai
hận
thù bỏ nằm phơi mưa phơi nắng
chẳng
vì ai, buộc bông nở mỗi ngày.
Mở
điện-thoại, gọi thăm vùng dĩ-vãng
bấm
số nào, chỉ cảm nhận trong tâm
màu
vàng hãnh, rủi thay ra hoàng-lạc
ngước
mặt lên, rà soát bộn lỗi-lầm.
![]() |
CÂY VIẾT
“Chẳng
yêu nhau, chớ dể nhau,
Những
loài yến tước biết đâu chí hồng.”
(Trích truyện thơ Nôm:
Phan Trần).
Thời tiết đoán, mưa
nguồn thôi hồi đất
nhớ nàng tiên starbucks
đẹp ngoan hiền
giai-nhân vẽ chẳng khúc
nào miễn-phí
dung-nhan treo đền tháp
hóa linh-thiêng.
Bụi cỏ mục sinh lân
tinh trực chỉ
lục châu thân, thân bươn
bả mấn-tồi *
danh vay mượn, hãnh-tiến
quy thanh-trủng *
hoạch định bày ngắm lá
tắm mưa rơi.
Đôi tai lãng, lắng oan
hồn nửa kỷ
hoa mai phai, sặc sỡ nở
trong tâm
thân “việt điểu, nam
chi” nào bôi xấu
hoạt-tử-nhân chòi cỏ
chẳng hề lầm.
Ông cà-tửng thích ra
đường huých gió
bà lơ-ngơ khoái ca cẩm
ngã-tư
người không chỗ nằm
vắt chân chữ ngũ
nắng gió mây, chui qua
háng mệt nhừ.
Chị bàn cận, thỏ-thẻ
vay cây viết
ngẫm tiền-đồn đón thư
ấm hậu phương
hơi nhạc rock, rộn-rã
mùa lúa chín
quê in hình nặng não lấy
chi lường.
Hờn tấm bảng chỉ
đường, chỉ trật phía
chạy rộp chân, kịp diện
kiến Cúc-Hoa *
thiên-lý dặm nợ ân tình
tiêu trỗi
đồng mênh-mông hoàng hôn
vọng tù và.
Cô gái trẻ lai tây, đẹp
y tượng
quên mất tiêu, khuôn mặt
An-Dương-Vương
đọc tin-nhắn, bàn tay
tiên thoăn-thoắt
ẵm cà-phê, hớn-hở vọt
ra đường.
Đã thẩm-thấu, mã pháo
xe đương nước
dạo bờ sông con tốt rộn
lai quê
vô-ngôn-dực-nhi-trường-phi,
cô lẽ *
bậu cõi riêng thổn-thức
bậu chẳng hề.
Chị mượn viết giả
quên, cười ra cửa
ghế ngẩn-ngơ, hơi ấm níu người đi
trịnh-trọng vuốt, vuốt
lưng nàng starbucks
nắng chói chang, tê cẳng
muốn ngồi lỳ.
HOÁN VỊ
“Học
hành ba chữ lem nhem
Thấy
gái thì thèm như chửa thèm chua”. (Ca Dao).
Kiếp
sau tu thành con gái
họa
hình tung khắp thế-gian
thi-bá,
thi-hào mê mải
thơ
tình vung-vãi đầy đàng.
Kiếp
sau tu thành con gái
chảnh-chó
với đám con trai
dù
phải lừng danh, “quỷ-cái”
còn
hơn ngồi sụ mặt mày.
Kiếp
sau tu làm con gái
du-hành
khắp bốn phương xa
kinh-doanh
ôm nhiều lời lãi
cớ
chi quanh quẩn trong nhà.
Kiếp
sau tu thành con gái
mang
gươm đi chém bà chằn
phang
luôn mấy ông thích dại
ăn
phở quên món ăn-năn.
Kiếp
sau tu thành con gái
cầm
roi đét “đ.í.t” Sở-Khanh
đánh
mụ tú bà tung váy
tú
ông sống chẳng an lành.
Kiếp
sau tu thành con gái
dẫn
quân giết giặc ngoại xâm
cho
dù cung thương có gãy
sướng
chi ôm chiếu giường nằm.
Kiếp
sau tu thành con gái
không
sinh trăm trứng như bà [...]
Thủy-Tinh,
Sơn-Tinh hối cải
thôi
gây lắm chuyện can qua.
Kiếp
sau tu thành con gái
nõ
thần giấu kỹ trong rương
Trọng-Thủy
gạ tình muốn lấy
lấy
thứ đồ giả trên tường.
Kiếp
nầy con trai thất bại
hân-hoan
hoán-vị giao cương
tung
chén lên trời cảm-khái
thắng
thua kim cổ sự thường.
Dương Vương
vội vã nhảy lên ngựa, đem theo công chúa Mỵ Châu chạy
ra ra biển trốn.
Về phía Mỵ Châu,
cô vẫn còn hy vọng Trọng Thủy sẽ chung tình và đi tìm
nên cô lấy lông ngỗng giấu từ trong túi áo rải dọc
đường làm mật hiệu. An Dương Vương
chạy đến bờ biển, đức vua quỳ xuống khẩn cầu sự
giúp đỡ của thần Kim Quy. Thần Kim Quy hiện lên, phán
rằng: "Người ngồi ở sau lưng ngài chính là giặc
đó".
Có thể nói Trong Thủy chính là “gián điệp” do Triệu Đà cài đặt. Vua An Dương Vương mất cảnh giác. Vậy, (giặc ngoại xâm không đáng sợ bằng giặc nội xâm). Từ bài học lịch sử đau thương của Vua Thục Phán An Dương Vương mà hơn bốn ngàn năm qua các triều đại Đại Việt vẫn luôn luôn đề phòng phương Bắc. Trong đền thờ vua Lý ở Nam Định có đề bốn chữ “BẮC MÔN TỎA THƯỢC”.
Lịch sử “khẳng định”, kẻ thù truyền kiếp ngàn đời của Việt Nam chính là phương Bắc. Họ chẳng phải là “Anh em , đồng chí”.
Trang Y Hạ.
PHONG HỎA ĐÀI
Chào-mào mời nắng sưởi
thân
nắng phân-vân nắng
tần-ngần nắng đi
mắt đua gái gọi xuân
thì
buồng tâm nhóm lửa
Tây-Thi hoàn hồn.
Thèm tình, nổi máu du-côn
nhắn-tin tới tấp, đêm
bồn-chồn ai
điện-thoại rung, - tiếng
thở dài
E-va, di-tản đầu thai đâu rồi.
Nắng thêu tranh nắng một
thôi
thoảng phơn-phớt mặt
đượm mùi hương nhu
chờ thiên-đình, tặng
cánh dù
hẹn về chỗ hẹn gom thu
dỗ dành.
Vườn hoang, rủ phủ rêu
xanh
cổ thụ, kỷ-niệm trĩu
cành khoe bông
ao trong, chuồn bướm
tồng-ngồng
nắng xiên nghịch-ngợm
con công ngẩng đầu.
Phong-Hỏa-Đài, trụi từ
lâu
tiếng cười khuynh quốc,
lụa nhàu uổng thay
tiếc chưa, diện-kiến giải bày
hồng-nhan-họa-thủy, tai
bay cũng đành. *
Nóng gay-gắt bốc thơ
nhanh
nhắn tin, điện thoại
thêm hành hạ nhau
thơ tình ế-ẩm phai màu
nhi-bất-ngữ, giấu vết
đau không lời. *
Điêu-Thuyền gãy gánh đôi
nơi
suy vi nhà Hán, ông trời
hết thương
phương-thiên-họa-kích,
cùng đường
tam phân xé-xác vẽ chương
sử sầu.
Chiêu-Quân (lạc nhạn)
khác đâu *
nửa đêm len lén lên lầu
ngóng quê
cố hương mây chắn lối
về
oán thanh tái đạo, vọng
tê tái lòng. *
Một ngồi với ngọn
né-on
tường đen hắc bóng thân
mòng biển trơ *
gió nôn nao sóng tìm bờ
gửi đôi xuân thiếp đơn
sơ tặng người. *